Chào bác, trông cái mặt bác quen quen ( Đăng nhập | Đăng ký tạm trú )

3 Trang < 1 2 3 

· [ ] ·

 Phạm Công Thiện

TươngGiang
post Mar 24 2008, 01:18 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #21

Me, Myself and I


Nhóm: Dân làng Ven
Số bài viết: 855
Tham gia từ: 9-September 05
Thành viên thứ: 1.953

Tiền mặt hiện có : 5.840$
Số tuần chưa đóng thuế : 1

Bình chọn :



Tiếng chó sủa, ông lại nghe tiếng mắng của cô gái, cái giọng tiếng Pháp miền Midi, cái tiếng chửi thề ông thích: “bout du con...” Cái tiếng của con gái, nghe thanh thanh ba động ra từ mớ dây thanh huyền đặc biệt của cô, có cái gì rất sung mãn tình dục nguyên vẹn, chứ không bể khàn như những người đàn bà gió sương... Ông lại nghe tiếng chân cô bước trở lên lầu, tiếng cửa bên cạnh đóng mạnh, rồi tiếng nước chảy ào ào, chậm lại, đều đều, rồi xối xả, à, cô nàng đang tắm... Tiếng con chó què vừa sủa vừa cạo buồng tắm, tiếng nước reo réo và con chó càng sủa to hơn, bỗng tiếng cửa bật ra, rồi lại tiếng mắng chó của cô gái, “Đi vào và nằm im đó.” Ông nghe và đoán biết rằng cô nàng đã cho con chó vào phòng tắm; tiếng nước xối mạnh và tiếng radio phát ra những bản nhạc rock, tiếng nước chảy chậm lại, rồi tiếng cô huýt gió, ồ, cô nàng hôm nay có vẻ yêu đời dữ đấy, ông bỗng thích làm con chó què nằm cong đuôi ngó cô đang tắm, ông đứng dậy mở tung cửa sổ ra, nắng sáng rực, biển xanh bạc dưới kia, những con hải âu bay lượn tứ tung, mấy lá nho vàng đỏ thòng lòng trên đầu, dưới khu vườn phòng ngủ có mấy cây érable, loài érable màu tím đỏ, dường như là một thứ cây phong, gió tha hồ reo trên lá, ông nhớ một câu văn ngày xưa đã đọ đâu đó trong một tập văn của một văn sĩ Nhật ở thế kỷ XIII: “Khi chiều tới gió reo trên lá rừng phong...”[2] Ba năm trước, đứng trên lầu ngôi nhà của ông ở một thành phố miền sông Haute-Garonne, đứng ngay cửa sổ, ngó xuống khu vườn nhà, lắng nghe tiếng gió reo trên những chiếc lá érable, khi chiều tới, lúc người đàn bà sống chung với ông trên mười ba năm, bỗng một hôm bất ngờ bỏ đi mất; ông đứng hàng giờ trên cửa lầu biệt thự hoang vắng và ngó mãi những lá érable đong đưa tòn teng trong cơn gió chiều, một con mèo đen chui vào vườn, một con chim yến nhi bay bổng lên trời cao và mất hút. Từ ba năm nay, ông được trở lại đời sống gió bụi, tứ chiếng giang hồ, lủi thủi một mình, ông bỏ hết tất cả mọi sự, không muốn làm nghề ngỗng gì nữa, đi đây đi đó, như lục bình trôi sông, từ những thành phố buồn ở Âu Châu sang đến những thành phố buồn khác ở Mỹ Châu, rồi bây giờ lại trở về vùng biển hoang vu này để tìm thấy lại những hơi hướm nào đó mà ông cũng chẳng biết rõ rệt là cái gì, có lẽ tung tích của cô học trò cũ, con gái của bà chủ quán, nét mặt dịu hiền tươi trẻ, một chút kỷ niệm thơ mộng trong trí nhớ, chính cô học trò gái này cũng là một trong những nguyên do lớn khiến cho người đàn bà kia bỏ đi. Ông moi, ông móc trí nhớ, ông bóp cho nát cái trí nhớ, cố nặn cho ra một chút gì, ông nặn, ông bóp trí nhớ như vắt trái chanh, ông bóp trí nhớ cho lòi ra hình ảnh nàng, nhưng không tài nào. Nàng ở đâu? Trí nhớ ông nằm ở đâu? Ông moi cho ra nàng. Trí nhớ ông leo lét và chỉ còn tiếng gió reo trên những chiếc lá érable... Tiếng sóng biển dưới kia, tiếng kêu két két của bầy hải âu, ông ngó xuống khu vườn phòng ngủ quán rượu, một giàn mướp với những đoá bông vàng, những lá mướp xanh phủ rợp, năm sáu cái bông vàng, chỉ có thế thôi mà ông bỗng thấy một sự bình an nhẹ nhàng đậu xuống nỗi buồn thanh thoát. Bỗng có tiếng gõ cửa, cô gái cháu bà chủ mới vừa tắm xong, mặc cái áo ngủ trắng toát, tươi mát như một đoá hồng sớm mai, cô nói rằng hôm nay là ngày thứ hai và quán rượu đóng cửa, cô sẽ đem cà phê và bánh croissant lên tận phòng. Ông chỉ xin café đen thôi. Cô gái hôm nay có vẻ sốt sắng và tử tế niềm nở dịu dàng, chứ không lãnh đạm lạnh lùng tịch mịch như ngày đầu ông mới đến. Ông ngâm khẽ câu thơ Cao Bá Quát: “Tây dương thiếu phụ y như tuyết...” Ông lại nghĩ rằng đằng sau cái y áo kia thì làn da lại càng tuyết hơn nữa. Cô có cái điệu bộ đáng yêu là mỗi lần đăm chiêu một chuyện gì đó thì cô hay đưa tay hất nhẹ mái tóc ra đằng sau lưng, mỗi lúc nói chuyện, đôi mắt hay nhìn thẳng, như hứng lấy cái gì đó đằng sau tiếng nói của người khác; dáng người cô cao cao, gầy gầy, hai vai đôi lúc hơi co rúm lẊi một cách tội nghiệp và cô đơn, có một cái gì mong manh trong cử chỉ dứt khoát bên ngoài; tiếng nói thường khi nhẹ nhàng như hơi thở, đôi lúc sắc, rồi trầm, nhưng lúc nào cũng trong trẻo, chứ không hề đục. Hầu hết những người con gái nào có trải qua chuyện trai gái, dù chỉ một lần, vẫn không thể nào giấu được một cái gì đục đục trong âm sắc. Các âm sắc nói lên tất cả định mệnh của người đàn bà. Điều đáng để ý là đôi môi cô, môi dưới hơi trề nhẹ một tí, đỏ rói tự nhiên và lúc nào cũng ướt; dưới má trái gần cổ lại có một nốt ruồi đen đậm, từ đó có thể đoán được sự hiện hữu của một nốt ruồi khác bên bắp vế. Cả ngày hôm đó, ông nằm dài trên giường, ngó những chiếc lá nho đỏ vàng trên khung cửa sổ, thỉnh thoảng một cơn gió đẩy rớt đôi ba lá, ông đếm còn lại đúng trọn mười chiếc lá. Chuyến xe lửa chạy rầm rộ vào nhà ga bên cạnh, ngừng lại chừng năm phút, rồi tiếp tục lên đường; mỗi ngày ít nhất cũng năm chuyến tàu qua lại. Tiếng sóng biển dưới kia chỉ làm gia tăng sự im lặng tĩnh mịch của vùng đồi núi, tiếng sủa bâng quơ của con chó què và tiếng gà gáy bất thường chỉ làm thôn xóm thêm phơn phớt chiêm bao thời Trung cổ có quân lính của Simon de Montfort lùng bắt tín đồ Cathares... Buổi chiều, ông đi lang thang xuống bãi biển và nói chuyện với hồn ma Machado, thi hào Tây-ban-nha, chết lưu đày nơi thành phố bé nhỏ vùng biển này. Dù thu, lúc có nắng ấm, vẫn có cả bầy con gái tắm biển, đưa hồn phách trở về thế giới cuối thế kỷ XIX, À l’ombre des jeunes filles en fleurs của Proust, những câu văn kéo dài lê thê như bầy kiến gió, kiến kim...


--------------------
I'm crazy for Caufield :-)



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
TươngGiang
post Mar 24 2008, 01:19 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #22

Me, Myself and I


Nhóm: Dân làng Ven
Số bài viết: 855
Tham gia từ: 9-September 05
Thành viên thứ: 1.953

Tiền mặt hiện có : 5.840$
Số tuần chưa đóng thuế : 1

Bình chọn :



Những đứa con gái vùng biên giới lai Tây-ban-nha, tổ tiên có một chút máu Á-rập hay Do-thái, hầu hết đều rất đẹp, cái đẹp rất nóng và nồng, mọng và nõn. Chúng nó chạy tắm và đưa vú ra một cách hồn nhiên như mấy cô gái thượng ở Đà Lạt. Riết quen mắt, chả có ai thèm ngó, chỉ trừ ra mấy đứa con nít thèm bú sữa mẹ, nhưng bên Tây ít có trẻ con nào bú sữa mẹ. Buổi chiều tối, ông trở về phóng ngủ, nằm im nghe gió thổi, cái thứ gió man rợ mà dân địa phương gọi là mistral hay autan, cái thứ gió đông nam làm cho bao nhiêu đứa con gái mắc bệnh u uất sinh lý gì đó. Có những đêm khuya, ông nghe tiếng ho của cô gái ở phòng sát bên. Cô ta có vẻ quen sống cảnh cô độc âm thầm, lúc nào cô nàng cũng có vẻ lặng lẽ và không ồn ào ranh vặt như những cô con gái Tây Phương khác, có lẽ cô nàng lai Do-thái; ông thường để ý rằng con gái Tây lai Do-thái thì thường hay đẹp và trầm lặng, đa tình, lãng mạn và dâm dật ngầm. Ngày qua ngày, ông cũng bắt đấu làm quen với cô nàng, cô tỏ vẻ gần gũi thân mật hơn khi cô được biết ông là thầy cũ của cô cousine. Có những buổi chiều, q án vắng người, cô cũng ngồi uống rượu và chơi bài với ông thường khi cô đọc sách, ngồi lặng lẽ đọc loại sách viết cho đàn bà, loại Marguerite Duras; có lần ông trộm thấy quyển L’Amant của Duras. Vì đã quen biết nội dung tiểu thuyết ấy, ông cảm thấy an tâm và hứng chí tưởng tượng chuyện tương lai rất gần. Tất cả những cô nữ sinh viên đầm trẻ đẹp của ông dạo trước ở đại học Toulouse đều tôn sùng Marguerite Duras như là thần tượng của họ; điều ấy khiến ông nhột cái lỗ rún và có lần tọc mạch đọc quyển tiểu thuyết ngắn L’Amant của Duras; ông thích thú đọc lại hai lần và phải chịu nhận là một kiệt tác văn học bậc thầy, cái bút pháp hàm súc cực điểm, thơ mộng có kỷ luật, câu chuyện về quê hương của tác giả và cũng là quê hương của ông. Duras là một cô đầm sinh đẻ tại Việt Nam, gia đình nghèo, mẹ làm hiệu trưởng một trường nữ ở miệt Hậu Giang và cả tuổi thơ và tuổi trẻ nàng sống ở Việt Nam, lớn lên qua Pháp và trở thành nhà văn nữ nổi tiếng nhất của Pháp, và nổi tiếng khắp thế giới; Duras lại cũng mang tiếng say rượu cả ngày lẫn đêm, ngay đến lúc về già rồi, không có ngày nào mà bà không say rượu từ sáng cho tới đêm, phải nằm nhà thương cai rượu mấy lần mà vẫn không bỏ được rượu, nhưng có một điều hơi lạ là bà vẫn viết được hàng chục tác phẩm vĩ đại của nền văn học Pháp ở thế kỷ XX. Quyển tiểu thuyết ngắn của bà vừa mới xuất bản, nhan đề L’Amant, đã bán hàng triệu quyển và mới được thêm giải Concourt; quyển này đặc biệt nói về Việt Nam, nơi quê hương thật sự, nơi chôn nhau cắt rún của bà, kể lại tuổi thơ ấu và tuổi trẻ bà ở Việt Nam, mối tình đầu tiên của bà với một anh công tử bản xứ, con nhà triệu phú ở Chợ Lớn, những khám phá đầu tiên về tình dục của một cô gái vừa mới lớn, sự sụp đổ bi đát trong chính gia đình bà, những e ấp hoài mong cao đẹp của một cô gái mang trọn vẹn tâm hồn của một cô gái Việt Nam, mặc dù dòng máu Tây Phương, lạc lõng bơ vơ trong thế giới tàn bạo của người lớn, những buổi chiều định mệnh trên chiếc bắc Vàm Cống, sông Đồng Nai và sông Cửu Long của tuổi dậy thì bỡ ngỡ, những buổi chiều buồn trên quê hương thân yêu, rất Việt Nam, chao ôi là Việt Nam, chưa có nhà văn Việt Nam nào viết về đất trời quê hương như Marguerite Duras, và lại là một trong những chuyện tình thơ mộng nhất mà một người đàn bà có thể viết được về một người đàn ông, nhất là về một người đàn ông, một người con trai Á Đông, da thịt mát rượi và tao nhã của thân thể một người con trai Á Đông đã được Marguerite Duras chiêm ngưỡng kín đáo thâm trầm và khiến cho những thân thể của đàn ông Tây Phương trở thành lố lịch và thô kệch; những xúc cảm tình tứ của người con trai Đông Phương vẫn là một cái gì không thể tìm thấy được nơi tâm hồn trai trẻ Tây Phương. Có đọc Marguerite Duras mới thấy thương hại mấy cô gái Việt mất gốc, “tiếc thay hạt gạo trắng ngần…” Marguerite Duras đã sử dụng tiếng Pháp đến chỗ giới hạn cuối cùng, giản dị trong veo, vừa đông đặc, vừa xuyên lưu, thành tựu lớn nhất của truyền thống tiểu thuyết Pháp Quốc trong mấy trăm năm. Thế là cô cháu gái bà chủ quán lại đang đọc quyển L’Amant của Duras! Ông giả vờ nói chuyển đẩy đưa với cô ta và cố tình làm như không biết gì về nội dung của quyển sách. Hiển nhiên đây là điều “tế nhị” trong việc kín đáo “làm chủ tình thế” trong trật tự âm dương trống mái mà chỉ có hạ hồi mới phân giải được. Mấy ngày nay cô nương cứ mê ly lẳng lặng sống trong cái thế giới của quyển L’Amant. Ông mỉm cười tương tư theo điệu truyện Tàu diễn nghĩa: “Thế là mệnh trời đã về tay chánh vì vương.” Cả một nước Việt Nam thơ mộng lãng mạn đang ngồi chình ình trong quán rượu, nguyên vẹn hình hài trước mặt cô. Ông liền tự trách mình quá giàu tưởng tượng. Ngày nào cũng như ngày nấy, cô vẫn thân mật mà vẫn giữ vẻ đoan trang vắng lặng. Năm chuyến xe lửa vẫn đều đều tới và lui, khung cửa sổ chỉ còn có ba lá nho vàng đỏ, con chó què vẫn ve vẩy cái đuôi, mấy bông mướp vàng buổi sáng nở trọn và buổi chiều khép lại, teo lại như... Chiều tới gió vẫn tha hồ reo với lá cây phong đỏ tím, những con hải âu vẫn léo nhéo trên mặt biển, những thuyền đánh cá vẫn trở về bên cạnh ngọn hải đăng. Chỉ còn hai ngày nữa, ông lại phải lên đường trở ngược lại Paris để trở về Los Angeles, “cấm phòng tu kín” trong một dòng tu khổ hạnh, nếu không ở trong một tu viện trappistes thì cũng ở trong một ngôi chùa khiêm tốn nào đó… Hai ngày nữa ông lại lên đường đi về một phương trời vô định. Ừ đi về Los Angeles mà ông thường đùa với mấy thằng bạn Mỹ là Lost Angels... Từ trường mộng này đến trường mộng khác và sẽ chấm dứt bằng đại mộng, mà cũng chưa hẳn chấm dứt, mà lại tiếp tục bắt đầu lại bằng một đại trường mộng, đại viễn mộng khác... “Trên tất cả đỉnh cao là im lặng...” Còn hai ngày nữa lại lên đường giã từ cô Tây Dương thiếu phụ này, ông tự cho phép uống mấy chai cognac; không, ông khoái nhất là loại rượu mạnh armagnac chính hiệu con nai, loại này khó tìm ở Los Angeles, chắc phải nhớ mua vài chai armagnac xách về cho ông bạn Mai Thảo, đất đai California là cái “chasse gardée” của ông ta, phải “triều cống nguyên hậu” chứ không đùa giỡn lôi thôi được... Thế là hai ngày cuối cùng, ngồi trong quán rượu, ngó cô Tây Dương hao hao giống gái Việt, ông uống chậm rãi, “đâu ra đó”, “đầy đủ tư cách” ít nhất cũng vài ba ch i armagnac thượng hạng, phụ thêm vài chai rượu đỏ địa phương Banyuls chính hiệu con nai vàng ngơ ngác. Vừa uống rượu tiên, vừa ngó người đẹp tóc dài tới eo, và nghe bầy chim hải âu kêu két két, vừa nghe con chó què sủa gâu gâu, vừa nghe tiếng sóng biển dưới kia, tiếng ho của cô nường, tiếng đập tim, tiếng lá cây phong reo, tiếng Địa Trung Hải, tiếng Đại Tây Dương, tiếng Thái Bình Dương, tiếng trùng dương, tiếng sông Garonne, tiếng sông Lot, tiếng sông Seine, tiếng sông Isère, tiếng sông Isar, tiếng sông Danube, tiếng sông Nhị Hà, tiếng sông Hương, tiếng sông Cửu Long, tiếng yêu, tiếng em, tiếng thương, tiếng nhớ, tiếng Hoài, tiếng Hương, tiếng Nga, tiếng Phượng, tiếng Chinh, tiếng Khánh, tiếng Dung, tiếng Ly, tiếng Nguyệt, tiếng Thu, tiếng Ngọc, tiếng Cầm, tiếng Uyên, tiếng My, tiếng Véronique, tiếng Françoise, tiếng Isabelle, tiếng Agnes, tiếng Laura, tiếng Dương Quý Phi, tiếng nường Thái trắng, Thái đen, tiếng đạn nổ, tiếng bom rơi, tiếng mặt trời sụp, tiếng mặt trăng chìm, tiếng sao rụng, tiếng im lặng, im lặng rùng rợn của ngày tận thế... Buổi tối hôm đó, cô gái Tây Dương cùng đi dạo với ông dọc theo bờ biển, dưới con trăng to lớn và đỏ như máu, trăng rằm Tây Phương; nàng và chàng ngồi sát bên nhau, không ai nói với ai một lời, dù chỉ một lời; gió thổi tóc nàng đập phớt qua mặt chàng, mùi thơm đôi nách nàng hắt vào hơi thở mạnh của chàng; sóng biển và chim hải âu kêu đêm, ngọn hải đăng tối đen đâm thẳng lên mặt trăng như cái dương vật thiêng liêng của những bộ lạc Á Đông thời hoàng thoại; nàng bỗng nhiên đứng dậy, nhón gót lên cởi bỏ đôi giày sandales, chạy chân không, đùa giỡn với nước bọt biển trên cát; trời thu bắt đầu hơi mát, nhưng lửa nào đã bén, nàng chậm rãi cởi truồng, cởi bỏ hết cái áo “tây dương thiếu phụ y”; trăng đỏ như máu, một bông lan trắng nứt ra giữa đêm hoang liêu của trái đất... “Trên những đỉnh cao là im lặng...” Buổi sáng hôm sau, ngày cuối cùng ở quán trọ, ông thức dậy nhẹ nhàng và ngó ra cửa sổ; mấy chiếc lá nho đỏ vàng cuối cùng đã rụng hết rồi, có tiếng thở nhẹ bên cạnh, mùi con gái, mùi bông mướp vàng ướt át, mấy sợi tóc dài âu yếm còn dính trên lòng ngực ông, cô gái Tây Phương nắm thở nhẹ ấm như trái tim con yến nhi; ông cũng ngửi được mùi tàn dư của bông huệ, nhẹ nhàng, cả thần trí thể xác ông cơ hồ phảng phất trên những đỉnh cao, ông thấy cả cuộc đời ông giống như cây gỗ trong một câu kinh Phật: “cũng như cây gỗ trên mặt nước, trôi giữa dòng sông, không chạm hai bên bờ, không bị nước xoáy chìm, cũng không bị mục nát và đang trôi thẳng về biển.” Trên cây gỗ bỗng nứt ra một bông lan trắng “y như tuyết”... Buổi chiều tối, giã từ nàng để đi chuyến xe lửa cuối, nàng chỉ nói “Adieu” và im lặng, đôi mắt chớp chớp. Tàu bắt đ ? rầm rộ chuyển bánh; ông không biết nói gì và chợt nhớ một lời rất tầm thường của một thi sĩ Pháp mà ông đã quên tên từ lâu: “Adieu! Je crois qu’en cette vie / Je ne te reverrai jamais...” [3] Chiếc tàu từ từ rời bỏ nhà ga với mấy lùm bông bégonia mờ đen, và con chó què, đuôi ve vẩy, ngó theo...



Los Angeles, 15 tháng 9, năm 1985


--------------------
I'm crazy for Caufield :-)



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
TươngGiang
post Mar 24 2008, 01:20 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #23

Me, Myself and I


Nhóm: Dân làng Ven
Số bài viết: 855
Tham gia từ: 9-September 05
Thành viên thứ: 1.953

Tiền mặt hiện có : 5.840$
Số tuần chưa đóng thuế : 1

Bình chọn :



Phụ chú của Hoàng Ngọc-Tuấn:

[1]Đây là bài thơ "Über allen Gipfeln ist Ruh" của Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832). Nguyên tác như sau: Über allen Gipfeln / Ist Ruh, / In allen Wipfeln / Spürest du / Kaum einen Hauch; / Die Vögelein schweigen im Walde. / Warte nur, balde / Ruhest du auch. [Tạm dịch nghĩa: Trên tất cả những đỉnh non cao là sự yên ả. Trong tất cả những đọt cây, khó có thể nghe một hơi thở. Những con chim trong rừng đều im tiếng. Hãy khoan, chẳng mấy chốc, rồi bạn cũng yên nghỉ.]

[2]Câu văn thơ mộng này (còn đọng lại nhạt nhoà trong ký ức của Phạm Công Thiện) thật ra là một câu thơ trong một bài thơ theo thể waka (nay gọi là “tanka”) của Junii Ietaka 従二位家隆 (1158-1237). Nguyên văn như sau: 風そよぐ / ならの小川の / 夕ぐれは / みそぎぞ夏の / しるしなりける [Nghĩa là: Nơi dòng suối ở Nara, buổi chiều đến và gió thổi rì rào qua những tàn lá sồi. Không một dấu hiệu nào của mùa hè, ngoài lễ tắm thiêng liêng ở đó.] Những chiếc lá sồi trong thơ của Junii Ietaka đã biến thành những chiếc lá phong trong ký ức của Phạm Công Thiện, và nhờ những chiếc lá phong ấy, truyện ngắn này đã ra đời! Thật thú vị.

[3]Nghĩa là: "Vĩnh biệt! Anh nghĩ rằng trong cuộc đời này / anh sẽ không bao giờ gặp lại em nữa." Đây là hai câu thơ đầu tiên trong bài thơ "Adieu" của Alfred de Musset (1810–1857). Bài thơ gồm 4 đoạn. Đoạn đầu tiên như sau: Adieu! je crois qu'en cette vie / Je ne te reverrai jamais. / Dieu passe, il t'appelle et m'oublie; / En te perdant je sens que je t'aimais...


--------------------
I'm crazy for Caufield :-)



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
« Bài viết cũ hơn · Văn Học & Ngôn Ngữ · Bài mới tiếp theo »
 

3 Trang < 1 2 3
Topic Options
1 người đang chống cằm trầm tư ngâm cứu chủ đề này (1 khách vãng lai và 0 thầy mo tàng hình)
0 Thành viên:
 

Xem diễn đàn ở dạng TEXT - PDA - Pocket PC