Chào bác, trông cái mặt bác quen quen ( Đăng nhập | Đăng ký tạm trú )

4 Trang < 1 2 3 4 > 

· [ ] ·

 Kinh Tế Thị Trường Và định Hướng Xhcn

Skywalker
post Mar 11 2016, 07:34 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #11

Elite Member


Nhóm: Dân làng Ven
Số bài viết: 1.896
Tham gia từ: 4-February 06
Đến từ: Hà Nội
Thành viên thứ: 2.280

Tiền mặt hiện có : 47.996$
Số tuần chưa đóng thuế : 6

Bình chọn :



Nói XHCN là hình thức tự vệ của một nước kém phát triển dùng để tự cường chống lại các nước mạnh ...vv thoạt nghe có vẻ có lý, nhưng cũng chỉ là một suy luận chủ quan, chưa chắc đã dựa trên nền tảng thuần túy duy lý. Lý do là lịch sử vẫn có những quốc gia lạc hậu không XHCN nhưng vẫn phát triển thần tốc như Hàn Quốc hay cũng kha khá như Indonesia.

Ở chủ đề này, bác Phó đại diện cho quan điểm rất đặc sệt Marxist và "buồn cười" trước quan điểm Marxian (dẫn từ 2 bài báo của bác Vũ Ngọc Hoàng) và không xem xét đến dân chủ tư sản của Fukuyama. Nhưng em xin hỏi bác: Marxist-Leninist dựa trên hệ thống triết học nào? có phải duy vật biện chứng và duy vật lịch sử không?

Như em đã nhiều lần nói với bác, mọi lý luận chính trị và kinh tế phải đi từ cái gốc triết học, và tốt hơn nữa là khoa học cụ thể. Phép biện chứng của tự nhiên gần như hoàn toàn tương đồng với lý thuyết về sự vận động của hệ thống phức hợp - vốn có thể mô hình hóa với rất nhiều ứng dụng trong quản trị xã hội. Những thành tựu khoa học và kỹ trị ấy tại sao không nảy sinh ở những nơi người ta lập ra Nhà nước XHCN?

Đi tìm câu trả lời thì em phát hiện ra rằng tư duy Leninist chính là thủ phạm cản trở nền kỹ trị xã hội ngay từ cái triết lý "độc đảng", tức là không dung nạp các tư tưởng cách tân, thậm chí chỉ hơi khác lạ một tý. Kỹ trị phương Tây là nghệ thuật quản trị dựa trên nền tư tưởng dân chủ nhân quyền, đề cao cá nhân như đơn vị cơ bản thúc đẩy xã hội tiến lên. Nó hoàn toàn khác với tập trung kế hoạch hóa và bao cấp ở Liên Xô - chỉ bón cho người ta ăn mà không khuyến khích người ta tự cứu mình bằng mọi cách. Khi đã không công nhận đầy đủ các quyền tự do, gồm cả tự do ngôn luận và tự do chính trị thì XHCN còn có thể là mục đích được không?

Nói đến con người là đơn vị cơ bản thì có một điều nữa phải chú ý, đó là bản chất không hoàn hảo của con người. Sự thật là lãnh đạo và lãnh tụ dù giỏi giang đến đâu thì tính toán cũng không bằng trời tính. Nền dân chủ tư sản thì không nói làm gì bởi lãnh đạo lên xuống xoành xoạch để góp ra những phương thức quản trị tốt nhất, gồm hỗ trợ từ công nghiệp hóa, tin học hóa, tiêu dùng và giải trí ...vv. Lãnh đạo Liên Xô thì đếm ra được từng lãnh tụ một và trong quá khứ có lẽ đã có thành công nhất định trong giai đoạn công nghiệp hóa một đất nước to lớn. Tuy nhiên câu hỏi kế tiếp là các nước không XHCN cũng công nghiệp hóa thành công trong cùng giai đoạn thì sao? Finland, Norway còn nhỏ hơn nước Nga nhiều. Vậy công nghiệp hóa có thực sự là cần tới thể chế XHCN không? Nếu không thì lập luận coi XHCN như một biện pháp hữu hiệu và bắt buộc cũng không còn giá trị.

laugh.gif



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post Mar 11 2016, 08:55 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #12

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



@Sky,
Tôi sẽ trả lời nốt rồi tiếp, vì không thì sẽ sa đà, mặc dù sa đà cũng là điều thú vị.
Về sự phát triển của Hàn quốc, thì tôi đã nói rồi. Bây giờ chỉ nhắc lại thôi. Sự phát triển của họ có những điều kiện sau :
1- Sự tài giỏi của chính tầng lớp lãnh đạo và dân, dựa trên một chủ nghĩa dân tộc bị cắt ngọn
2- Sự nhân nhượng và tài trợ của Mỹ.
3- Sự bắt chiếc Bắc Triều tiên.
Các bác hay lôi Hàn quốc với Đài loan ra làm chứng, nhưng sao không đặt câu hỏi, trên thế giới có tới 250 quốc gia, thời cực thịnh nhất của CNXH kiểu cũ, cũng chỉ có 15,16 nước như thế, các nước còn lại đều chịu sự điều khiển, chi phối, là đồng minh hay quan hệ bạn bè với phương Tây, sao không có nước nào phát triển, chỉ lòi được ông Hàn quốc và Đài loan. Vậy lý do nó ở đâu.
Vn có làm như Đài loan hay Hàn quốc không, không. Bởi vì thời kỳ 1954-1975, chính quyền miền Nam cũng được Mỹ ủng hộ tương tự như với Đài loan và Hàn quốc, sao chính quyền này không biến miền Nam thành rồng thành hổ, bởi nếu ưu thế cơ chế của nó lớn như bác nói ở dưới (vì chính quyền miền Nam cơ chế theo Mỹ) thì nó phải chiến thắng chứ.
Maxien khác gì Marxiste, và càng khác Max-Lê nin. Maxien là dùng Mác chống Mác (dùng các tác phẩm thời Mác trẻ, khi ông ta vẫn chịu ảnh hưởng của dân chủ tư sản, để chống lại Mác về sau. Coi có hai ông Mác. Trong thực tế, nhận thức một con người cũng phát triển, thay đổi, không thể « chặt chém » nó ra từng mẩu rồi vặn vẹo được)
Thế còn Maxisme khác gì Mác-Lê nin. Đó là dùng Mác chống Lê nin. Vặn vẹo rằng ông Lê nin hiểu sai Mác..v..v..
Chủ nghĩa Mác, kế thừa tất cả những truyền thống triết học ở phương Tây. Nó như một tập giáo trình cơ bản, mà từ đó người ta có thể tìm hiểu văn hoá phương Tây tiếp. điều đặc biệt của nó là tiếp cận văn hoá phương Tây qua phê phán, đi tìm vào cơ chế gan ruột của nó, nói vào những điểm ngầm của nó, mà thông thường văn hoá phương Tây không nói. Giống như người ta tự mình không thể nhìn thấy gáy. Phải có cái gương. Chủ nghĩa Mác là cái gương giúp nhìn vào mặt tối của phương Tây, và vì thế hiểu được bản chất của nó.
Chủ nghĩa Lê nin, mở rộng chủ nghĩa Mác cho các nước ngoài văn hoá phương Tây, điều đặc biệt của nó là sự ứng dụng vào chính trị , xã hội. Chỉ với chủ nghĩa Lê nin, thì Mác mới thành vĩ nhân. Còn không có Lê nin, thì học thuyết của Mác chỉ là học thuyết địa phương, gắn liền với văn hoá phương Tây và cùng lắm thì với phong trào công nhân ở Tây Âu.
Dân chủ tư sản, hay nói tới tự do cá nhân. Điều đó vừa đúng vừa sai. Đúng thì bác nói rồi, nó vẫn là sự tuyên truyền (tương đối có lý) của phương Tây. Sai là trong điều kiện nào thì có cái tự do đó. Lấy ví dụ đơn giản. Tôi tin chắc rằng một người Eskimo, sống trong điều kiện tự nhiên, không có tồn tại nhà nước là người tự do nhất. Tự do hơn cả người Anh, người Mỹ, người Pháp hiện tại. Thế cái gì đã ngăn cản người Eskimo, khiến họ lạc hậu về kỹ thuật, về nhận thức, về đủ mọi thứ.. so với người Anh, người Mỹ, người Pháp. Họ có tự do cơ mà. Tự do tuyệt đối luôn. Bác trả lời câu hỏi ấy ra sao ?
Câu trả lời là cái tự do mà phương Tây đề cao đó, nó không phải tuyệt đối, nó phải có điều kiện kinh tế, xã hội, văn hoá .. thì mới tồn tại được. Cái điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội ấy các nước đang phát triển (VN có trong đó) đã có chưa. Và làm thế nào đạt được nó. Cái đấy là câu hỏi phải đặt ra.
Ngay cả trong nhưng nước Tư bản phát triển, quan niệm về tự do cá nhân, cũng như vai trò của nó trong phát triển không giống nhau. Cái điều mà bác nói về tự do ở trên là lập luận Anh-Mỹ, đúng với nước Anh-nước Mỹ. Sang đến Pháp nó đã lệch rồi, đến Đức còn lệch nữa, còn sang Nhật thì nó không còn là tự do cá nhân như Anh-Mỹ quan niệm nữa. nước Nhật, nước Đức chưa bao giờ nhờ tự do cá nhân mà phát triển. Nó chỉ là hệ quả sau khi đã phát triển. Hàn quốc , Đài loan cũng vậy. Cả hai nước này đều phát triển khi còn độc tài, và không ai tìm được mối liên hệ giữa dân chủ đa đảng ở đây với tốc độ phát triển kinh tế.
Về Indo với Bắc Âu thì nợ bác, vì viết đã hơi dài, nên ngại.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post Mar 12 2016, 12:01 AM    
Đường dẫn tới bài viết này #13

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



@Sky,
Nói tiếp về mấy nước Bắc Âu và Indo.
Ở Indo, chế độ dân chủ hiện tại mới có từ những năm 90, tương tự như trường hợp Philippine. Từ năm 1946 (hay 1947 tôi không nhớ rõ) lúc độc lập đến năm 1965 nó là một chế độ ọp ẹp, dạng như chế độ Xi ha núc ở Cam pu chia, hay chính quyền miền Nam VN. Có điều khác là đảng cộng sản Indo rất mạnh. Đây là một đảng cộng sản theo đường lối TQ (và nhiều khi thành viên của nó cũng là cộng đồng người Hoa). Năm 1965, đáng lẽ nước này trở thành một nước XHCN, nếu đảng cộng sản Indo thành công. Thường ở trong một nước đang phát triển, mà đảng cộng sản mạnh,thì điều đó có nghĩa là mâu thuẫn xã hội gay gắt, xã hội bế tắc. Sau cuộc đảo chính do Sukarno cầm đầu năm 1965 (giống như Pinochet ở Chili năm 1973), có đến 1 triệu người bị coi là cộng sản bị thảm sát ở nước này. Và chính quyền quân sự kéo dài tới thập niên 90. Cũng trong thời gian này kinh tế Indo bắt đầu phát triển, như kiểu Hàn, Đài, nhưng nó chậm và ít mầu mè hơn, vì Indo áp dụng chính sách kiểu như Ấn độ đó là bảo hộ thị trường. Khác với Đài, Hàn hay VN bay giờ nhằm vào xuất khẩu.
Cho đến nay mà bảo kinh tế Indo là một hình mẫu thì với tôi là không phải. Nhưng ở đây người ta cũng thấy là kinh tế bắt đầu phát triển khi xã hội ổn định ngay cả dưới dạng độc tài. Điều này càng khẳng định cái tự do không phải là nguồn gốc của phát triển kinh tế với các nước ngoài phương Tây (chính xác nữa là ngoài Mỹ-Anh).
Với các nước Bắc Âu (Đan mạch, Thuỵ điển, Phần lan, Na uy) ngay từ thời Trung cổ, trước khi có cách mạng công nghiệp Anh thì vùng này đã là vùng kinh tế phát triển ở châu Âu, thường được gọi là liên minh thành thị Hansetique (nó là liên minh các đô thị ven biển Baltic). Chưa bao giờ vùng này lạc hậu về công nghệ so với Anh, Pháp, Đức. Có điều vì họ không phải là những nước lớn, có thuộc địa gây tác động tới chính trị thế giới, nên người ta ít biết, trong khi thực tế trình độ công nghệ của họ rất cao, chuyên sâu, từ xưa tới nay.
Một điều nữa cũng nên để ý, là những nước này chưa bao giờ bị kỳ thị về chủng tộc. Ngược lại Anh, Pháp, Đức(ngay cả Đức phát xít).. còn coi vùng này là khởi thuỷ của nhóm người da trắng thượng đẳng. Chắc bác phải xem cái phim Out of Africa rồi. Đó là câu chuyện một cặp người Đan mạch, sang Kenya là thuộc địa Anh để làm giầu vào đầu thế kỷ XX, và họ được coi như người Anh, ngược lại một người VN, hay nói người Ấn đi, mà sang đó thì chắc chắn nó mời đi làm cu li. Đây cũng là điều ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển, vì quan hệ của những nước này với các cường quốc luôn bình đẳng. Vậy hiểu điều đó thế nào ? đó là một dạng đoàn kết chủng tộc mà VN cũng như các nước thứ ba không thể có??


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Skywalker
post Mar 12 2016, 12:12 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #14

Elite Member


Nhóm: Dân làng Ven
Số bài viết: 1.896
Tham gia từ: 4-February 06
Đến từ: Hà Nội
Thành viên thứ: 2.280

Tiền mặt hiện có : 47.996$
Số tuần chưa đóng thuế : 6

Bình chọn :



Em rất nghi ngờ luận điểm cho Marxism (trọn vẹn) là một triết thuyết đi vào "gan ruột của văn hóa phương Tây" hay "như một cái gương soi". Những mâu thuẫn xã hội như bóc lột, bất công ...vv mà Marx chỉ ra (và trở thành nền móng tư tưởng cho communism) không phải là đặc sản của phương Tây mà chỉ là thứ vốn có của nhân loại nhưng trong lớp áp của kỷ nguyên công nghiệp hóa. Điều đó giải thích sự gượng gạo của những người Marxist-Leninist khi họ nói về "tư bản giãy chết" trong cơn bế tắc lý luận của chính họ. Bế tắc vì không nhìn ra mâu thuẫn giai cấp chỉ là hiện tượng bên ngoài sự vận động lớn hơn của nền văn minh đi từ công nghiệp hóa đến tin học hóa và xa hơn nữa.

Chủ đề này bắt đầu với cụm từ "định hướng XHCN" nhưng vì bác Phó đưa ra sự phán xét của chủ nghĩa Mác - Lê nên em cho rằng nó đã bị bó hẹp bởi thái độ của bác đối với Marxian. Thẳng thừng mà nói thì tranh cãi lý luận không phải là việc thích thú gì khi có định kiến sẵn, nên cái em muốn nói ở đây là phần "nền móng" hay gốc rễ triết học mà các nhánh lý luận phát triển lên. Marxian không chống Marx mà trái lại, họ trung thành với các nguyên lý triết học tự nhiên có trước cả Marx. Còn Leninist thì mang danh nghĩa kế thừa Marx song đã xa rời nguyên lý của tự nhiên một chút, để các nhánh kế tiếp là Stalinism, Maoism cứ thế diễn biến một cách chủ quan duy ý chí và trở thành cực đoan.

Còn thực chứng lý luận tại các quốc gia khắp thế giới thì ở đây tiêu chí của em về áp dụng CNXH là vấn đề Leninism có hay không có áp đặt lên hệ thống quản trị Nhà nước. Liên Xô và Đông Âu trước 1990 là những điển hình và thành công trong thế kỷ 20 của họ không phải là bằng chứng cho giá trị phổ quát của Leninism. Nói cách khác là sự phát triển của các quốc gia trong lịch sử, tuy có vai trò của Leninism trong việc tạo dựng bản đồ thế giới song không nhất thiết là chỉ có Leninism mới đem lại thịnh vượng, đó là nói một cách dè dặt nhất.



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post Mar 14 2016, 06:29 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #15

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Chủ nghĩa Mác trong quá trình phát triển 150 năm tới nay, cũng phân ra nhiều nhánh. Tương tự như đạo phật có nhiều tông phái. Hiện tượng này chứng tỏ sự hấp dẫn của nó. Ngay từ khi Mác, ăng ghen còn sống cũng đã có hiện tượng này. Cho đến nay, nếu tính sơ bộ thì chủ nghĩa này có những nhánh sau:

Tôi chia làm hai nhóm: Nhóm cách mạng, và nhóm phê phán.
Nhóm cách mạng là chủ nghĩa Mác --> chủ nghĩa Lê Nin --> chủ nghĩa Staline (ở Liên Xô), chủ nghĩa Mao (ở TQ), chủ nghĩa Mác-Lê nin (ở VN). Ở VN nó không có tên riêng kiểu chủ nghĩa Hồ chí Minh hay tư tưởng Lê duẩn, Trường Chinh, nhưng chủ nghĩa Mác – Lê nin ở VN cũng là một dạng bản địa hoá. Vì tôi không vẽ sơ đồ được, nên viết như trên. Phải hiểu là chủ nghĩa Lê nin đẻ ra 3 tông, chứ không phải tuần tự kiểu Stalin sinh ra Mao rồi Mao sinh ra VN. Chủ nghĩa Staline, Chủ nghĩa Mao, Mác-Lê nin ở Vn là song hành, không phải cái này đẻ ra cái kia.
Nhóm phê phán chủ yếu ở phương Tây (Pháp, Đức, Ý, Anh, Mỹ) trong đó ở Anh, Đức, Mỹ thì nó không vượt khỏi phạm vi trường đại học, người ta (tức là các học giả tư sản) nhằm vào phân tích nó để sử dụng cho quá trình bành trướng của tư bản (cách mạng mầu ở UK, ở Georgia.. là những ứng dụng của nó). Ở Pháp , Ý thì khác hơn, vì ở hai nước này, có hai đảng Cộng sản rất mạnh, hầu như trong suốt thế kỷ XX. Một đặc điểm nữa ở đây là trong quá trình thế chiến thứ II, hai đảng cộng sản này là hạt nhân nội địa chống phát xít, và chủ nghĩa phát xít chính là sự cực đoan của chủ nghĩa Tư bản. Vì thế ảnh hưởng chính trị của nó lớn, không thể bịp nói tuyên truyền kiểu thô sơ (kiểu cộng sản là “cộng cha cộng mẹ” như thực dân Pháp làm ở VNđược). Nhưng ở hai nước này, đảng cộng sản cũng không đủ sức để giành chính quyền nên nó phải chấp nhận hệ thống chính trị ở hai nước này (bằng cách tham gia vào nghị trường, nhưng không bao giờ có thể nắm chính quyền, tham gia cho vui thôi), kết quả nó nẩy ra nhưng tông phái Maxiste “phê phán”, vì thế mới gọi là Marxien (hay Marxian tiếng Anh) nhưng phê phán ai. phê phán nhóm cách mạng để mơ hồ tạo nên một ảo tưởng cách mạng khác nào đó, đồng thời nó cũng giúp người ta nhìn vào phía sau của hệ thống chính trị phương Tây. Cũng từ đó mà nó có chủ nghĩa cộng sản châu Âu (eurocommunisme).
Nếu vẽ sơ đồ thì nó sẽ là chủ nghĩa Marx --> Maxien -->  Eurocommunisme.

Ngoài ra có một trường hợp đặc biệt, có thể xếp vào nhóm Maxiste phê phán, đó là Troskisme. Tại sao lại gọi nó là đặc biệt, vì cái nhánh của nó là:
Chủ nghĩa Mác --> chủ nghĩa Lê nin --> Chủ nghĩa Troskisme
Chủ nghĩa này có thể coi là đối ngược với chủ nghĩa Staline, và nó tồn tại được ở phương Tây cũng bởi vì nguyên tắc “kẻ thù của kẻ thù là bạn”. Từ cái tư duy Troskisme này mà sinh ra những nhóm cực tả ở phương Tây. Nhưng thường nó chỉ tồn tại dưới dạng những nhóm nhỏ, bạo động, tiến hành áp sát, nổ bom. Nhiều khi các học giả tư sản phương Tây cũng xếp chủ nghĩa Mao, đặc biệt thời kỳ cách mạng văn hoá là một dạng Troskisme. Nhưng với tôi, điều này không đúng.

Khi có nhiều chi nhánh như thế, thì đặt ra vấn đề “trung thành với Mác”, từ đó mà có dạng bẻ từng câu từng chữ Mác viết ra rồi vặn vẹo tranh cãi nhau là ai sai ai đúng. Trong thực tế, thì trung thành với Mác, với tôi là áp dụng được trong một hoàn cảnh cụ thể, làm được cái gì đó, theo nguyên tắc “dòng sông trung thành với nguồn thì phải chẩy ra biển lớn”, tức là phải có sáng tạo.

Ở VN cũng có trường hợp như vậy, đó là trường hợp của học giả Trần Đức Thảo. Ông chuyên nghiên cứu về hiện tượng học, có thể coi là học giả tầm cỡ thế giới của VN. Về mặt đạo đức, thì ông thực sự là một tấm gương. Ông ấy đã bỏ tất cả sự nghiệp của riêng mình để về VN tham gia cách mạng. điều mà không phải ai cũng làm được. Ngược lại khi về VN, thì ông luôn bắt bẻ là “VN làm không đúng Mác”. Đấy chính là cái dạng “bẻ câu bẻ chữ” tôi nói ở trên.
Khi có nhiều chi nhánh như thế, thì bản chất của vấn đề là sự ứng dụng. Và sự ứng dụng này có thể làm thay đổi cả mục đích đầu tiên, cũng như bản chất. Ví dụ, khi Lê nin áp dụng chủ nghĩa Mác vào nước Nga thì nó thành chủ nghĩa Lê nin, và chủ nghĩa này đã đưa chủ nghĩa Mác vào chủ nghĩa dân tộc, trở thành lý thuyết của giải phóng dân tộc (điều mà Mác không bao giờ để ý). Chủ nghĩa Lê nin cũng tạo ra một cách thức để công nghiệp hoá (dưới chủ đề xây dựng CNXN), điều mà Mác cũng không bao giờ nói tới.

Ngược lại dòng Maxien thì nó không phải quan tâm tới công nghiệp hoá (vì nó đã ở trong các nước tư bản phát triển), nó cũng không nói tới giải phóng dân tộc (vì những nước này không đi chiếm các nước khác làm thuộc địa thì thôi, ai dám đánh nó, nó đi đánh người khác thì có) nên nó chỉ quan tâm tới vấn đề văn hoá, kiến trúc thượng tầng ở những xã hội này (Pháp, Ý..) nó lảng hẳn đi vấn đề kinh tế, bản chất kinh tế, vấn đề sở hữu công cụ sản xuất và quan hệ sản xuất.

Hiện nay, ở VN cũng như ở TQ, kinh tế theo hình thức thị trường, tư hữu được công nhận. Như vậy Tư duy Maxien có thể là tư duy chủ nghĩa Mác ở VN được không ? Không được. Vì cái chủ nghĩa Marxien này không quan tâm tới vấn đề dân tộc, và như thế thì tư hữu nước ngoài hay tư hữu VN là như nhau (chưa kể tới vai trò của tư hữu nhà nước) nhưng ở đây rõ ràng có sự khác biệt, không thể đánh đồng sở hữu nước ngoài như sở hữu của người Việt (tư nhân hay nhà nước). Cái Maxien này cũng mặc nhiên chấp nhận “đa nguyên đa đảng”. Chính vì thế mà tư duy Marxien hiện đại, vào thời điểm hiện nay lại được các học giả Anh-Mỹ nghiên cứu và tìm cách áp dụng, để bành trướng trong toàn cầu hoá. Một trong những học giả được họ vặn vẹo để làm công cụ lý thuyết này là Antonio Gramsci.
Thái độ của tôi với Maxien là nên tìm hiểu nó để so sánh, để phê phán, để nhặt ra cái gì dùng được. Nhưng cũng phải tránh cái bẫy của nó.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Skywalker
post Mar 18 2016, 06:43 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #16

Elite Member


Nhóm: Dân làng Ven
Số bài viết: 1.896
Tham gia từ: 4-February 06
Đến từ: Hà Nội
Thành viên thứ: 2.280

Tiền mặt hiện có : 47.996$
Số tuần chưa đóng thuế : 6

Bình chọn :



Bác Phó nhắc lại vấn đề "dân tộc" thì ở đây quả là có cái đáng suy ngẫm. Có điều là khái niệm tưởng chừng hiển nhiên này hóa ra lại cũng khá mù mờ, bởi lẽ căn cứ để xác định dân tộc tính dựa vào, dù là di truyền học hay địa lý lãnh thổ, cũng thay đổi rất nhiều trong chiều dài lịch sử nhân loại. Đơn cử dân tộc và đất nước Việt Nam, dữ liệu phân tích ADN cho biết hiện tại dân tộc Kinh chiếm đa số và thuộc chủng Mongoloid phương Nam, rất gần với dân tộc Hán của TQ. lãnh thổ VN hiện tại cũng là một sự mở rộng không hề êm thắm lãnh thổ của đất nước khác / dân tộc khác là Champa và Khmer và Tây Nguyên. Có thể nói là em sẽ rất bối rối nếu một đồng bào dân tộc Banar bảo rằng đất nước của anh ta phải là Degar mới đúng, hoặc một vị khách Trung Quốc nói Lưỡng Quảng với VN là cùng một dân tộc, một đất nước ...vv.

Từ vấn đề dân tộc như vậy thì em nhận thấy quan niệm về dân tộc và quốc gia như những thực thể bất định là không ổn. Thay vào đó là quan niệm rằng dân tộc và quốc gia là những kết cấu tạm thời và sự ổn định của chúng phụ thuộc vào những cơ chế (mechanism) xác định. Ví dụ, triều đại phong kiến cuối cùng của VN tồn tại gần 200 năm với đầy đủ danh xưng dân tộc và lãnh thổ thực tế, có một hệ thống quản trị Nhà nước - xã hội đặc thù với đủ loại cơ chế từ quan chế, thuế khóa, lễ giáo ...vv. Nghiên cứu sâu xa về cơ chế của Nhà nước và xã hội thì phải kể đến Huntington, tác giả cuốn "Trật tự chính trị trong xã hội biến đổi" (Political Order in Changing Societies). Ông ta đưa ra định nghĩa tổng quát với các tính chất cơ bản của thiết chế xã hội (Institution) như sau:

Institutions are "stable, valued, recurring patterns of behavior."

Có thể thấy ngay rằng định nghĩa trên của Huntington đã giải đáp rất nhiều vấn đề trong thừa kế và lập thuyết hậu Marxism. Cụ thể như sau:

1. Nền tảng cơ bản của xã hội là "hành vi" (behavior) của con người, tức những cá nhân hợp thành quần thể. Quần thể thì khá mềm chứ không cứng như dân tộc hay quốc gia, và bao hàm được nhân loại dù là âu hay á, là cổ đại hay hiện đại. Lý thuyết về tư bản, về bóc lột mà Marx nghiên cứu chẳng qua chỉ là những hành vi đặc trưng của những nhóm (giai cấp) bên trong quần thể (xã hội) mà thôi.

2. Có những hành vi được lặp đi lặp lại theo khuôn mẫu (recurring pattern), tức là về chúng như nhau về hiện tượng. Ví dụ, lễ hội mừng năm mới là một mẫu hành vi lặp đi lặp lại dù ở Mỹ, EU, VN hay TQ ...vv.

3. Có những hành vi lặp lại theo mẫu lại có giá trị hay được đề cao (valued) hơn những cái khác. Ví dụ, hành vi trả lương cho người lao động thì ý nghĩa thiết thực hơn hẳn phong tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua.

4. Những hành vi lặp đi lặp lại theo mẫu, được đề cao và bền vững lâu dài (stable) thì tạo nên "thiết chế xã hội". Thiết chế xã hội đây có thể là một tổ chức văn hóa , tôn giáo, thậm chí Nhà nước. Sự bền vững là một tính chất tối quan trọng để phân biệt với những hiện tượng nhất thời, không ổn định bởi những lý do khác nhau, gồm cả mâu thuẫn nội tại.

Dùng định nghĩa của Huntington và soi chiếu vào sự thừa kế Marxism của các lý thuyết mang danh XHCN (mà bác Phó đã liệt kê, phân loại ở bài trên) thì điều nổi bật là chúng đều thừa nhận sự tồn tại của Nhà nước theo khuôn mẫu đặc trưng "chuyên chính vô sản". Chuyên chính này, dù ở phiên bản Liên Xô, TQ hay VN đều phải giải thích căn cứ vào luận điểm của Marx về giai cấp và bóc lột. Không may là khi nhân loại không thể hết sạch được giai cấp sau gần 100 năm cách mạng vô sản Nga thì "chuyên chính" trở thành phản động trên thực tế, tức là mâu thuẫn với sản phẩm Nhà nước và đem lại nguy cơ bất ổn, không bền vững cho nó.

Đó là triết học.



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post Mar 18 2016, 08:41 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #17

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Có nhiều khái niệm dân tộc. Ít nhất là có hai cái : định nghĩa thứ nhất là của hình thái tư bản chủ nghĩa, mà ông Mác cũng lấy vào trong Mác xít. Theo quan niệm này thì dân tộc được định nghĩa bởi lãnh thổ và thống nhất bởi thị trường bảo đảm bởi một nhà nước (chủ quyền quốc gia). Có nghĩa là một thị trường thống nhất sẽ tạo ra dân tộc.
Cái định nghĩa thứ hai là của chủ nghĩa Lê nin, mà người định nghĩa nó là Staline. Ở đây người ta nhấn mạnh tới vấn đề văn hoá. Nó được định nghĩa là một cộng đồng có lịch sử chung, có lãnh thổ, có tiếng nói và có nhà nước. Nếu chỉ có lãnh thổ và tiếng nói, thì mới chỉ là sắc tộc (ethnic).
Trong thực tế thì hai khái niệm này đều được dùng đan xen lẫn nhau. Vì chúng bổ xung cho nhau một cách tự nhiên. Lấy ví dụ ở phương Tây. Khi nước Đức và nước Ý thống nhất, thì có cái lý do kinh tế (thống nhất thị trường được bảo đảm bởi nhà nước) đồng thời ngọn cờ nó phất lên lại theo cái định nghĩa văn hoá (lịch sử, tiếng nói, văn hoá). Ở Pháp, khi thống nhất thị trường vào thời cách mạng Pháp 1789, thì không có người Pháp, mà phải tạo ra nó bằng giáo dục phổ thông. Dân tộc Pháp hiện tại là do nhà nước tư sản Pháp tạo nên.
Hai quá trình này (nhất thống bởi lý do kinh tế và nhất thống bởi cùng chung văn hoá) nhiều khi đối nhau và tạo thành thứ nửa chừng xuân. Ví dụ EU hiện tại, có thị trường chung nhưng không có dân tộc chung.
Những điều mà sky nói vừa rồi với tôi không lạ, mà đây chính là những điều mà ở phương Tây người ta đang tìm cách tuyên truyền. Tức là nó có xu hướng xoá bỏ dân tộc (ở đây là nói tới xoá bỏ nhà nước dân tộc). Tại sao lại thế ? vì đó là quá trình toàn cầu hoá.
Vấn đề nó thế này. Vào thế kỷ XX, có 3 xu hướng xã hội lớn ngăn cản sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản. Đó là phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế (chủ yếu là trong các nước tư bản phát triển), và hệ thống XHCN cũ (đứng đầu là Liên Xô). Phong trào công nhân đã bị các nước phương Tây loại bỏ bằng hai cách:
1- Chuyển đổi nền kinh tế từ sản xuất sang dịch vụ, còn sản xuất thì nó mang sang thế giới thứ ba.
2- Nếu vẫn sản xuất trong nước, thì nhập khẩu lao động nước ngoài, dùng người nhập cư.
Với cách một, thì số lượng công nhân giảm. Với cách hai thì vấn đề giai cấp trở thành vấn đề xung đột văn hoá (bản địa/ nhập cư). Và như thế vấn đề giai cấp nhạt nhoà đi. Tất nhiên nó làm thế cũng vì lợi ích kinh tế nữa,chứ không phải chỉ vì để giải thể giai cấp công nhân. Nhưng lý do “giải thể” giai cấp công nhân cũng có trong đó.
Với phe XHCN thì rõ ràng rồi, đó là chiến tranh lạnh, là tuyên truyền “diễn biến hoà binh”, v..v..
Với phong trào giải phóng dân tộc thì nó có hai lý do:
1- Giải phóng dân tộc thực sự như ở VN, TQ, Cuba, An giê ri, Ai cập..
2- Giải phóng dân tộc là chiêu bài của Mỹ nhằm dỡ bỏ hai đế quốc thuộc địa kiểu cũ là Anh và Pháp. Giải phóng dân tộc kiểu này vừa có tác dụng mở cửa cho Mỹ vào sân sau của Anh Pháp, đồng thời ngăn chặn giải phóng dân tộc kiểu như ở VN. Nhưng nước “giải phóng dân tộc” kiểu được cho này, đã khiến nhiều nước rơi trở lại chủ nghĩa thực dân mới. Ví dụ hầu hết các nước châu Phi da đen, được Pháp “giải phóng” hiện tại đều năm trong đế quốc thuộc địa ngầm của Pháp.
Nhưng rốt cuộc thì độc lập dân tộc được chấp nhận như một chuyện hiển nhiên, và dẫn đến chuyện làm sao vô hiệu hoá được các nhà nước dân tộc. Để làm điều này thì nó có mấy cách thức sau:
1- Xây dựng một hệ thống tài chính toàn cầu chi phối tất cả. một hệ thống tài chính không khách quan, tức là đồng tiền không có định giá khách quan bằng vàng, mà phụ thuộc vào chính sách tài chính một nước (ở đây là Mỹ). Kiểm soát khối lượng tiền trên toàn thế giới, đồng thời kiểm soát giá nhưng nguyên liệu không thể thiếu như dầu mỏ là nhiệm vụ của nó.
2- Xây dựng những khối kinh tế vùng, để vừa thống nhất thị trường vượt khỏi cái ngưỡng dân tộc, đồng thời những khối này có tác dụng kiểm soát các thành viên của nó.
3- Một nhà nước thường có 3 cấu thành: Hệ thống pháp luật, hệ thống chính trị, xã hội dân sự. Trong đó hệ thống pháp luật và hệ thống chính trị có tác dụng đóng khung xã hội dân sự. Nhưng bây giờ , hệ thống pháp luật nó chuyển qua khối kinh tế vùng, hệ thống chính trị thì phải đập tan bằng đa nguyên đa đảng, và nó thổi xã hội dân sự lên làm nền tảng, từ đó mà vô hiệu hoá nhà nước. Antonio Gramsci mà tôi nói ở trên có nghiên cứu về cái xã hội dân sự này. Nhưng mục đích của ông ấy là sử dụng nó để đi tới CNXH, ngược lại các nhà học giả tư sản hiện tại thì lại dùng nó để vô hiệu hoá nhà nước.
4- Thổi các luật lệ của nước Mỹ, thành luật lệ thế giới. Ví dụ Mỹ có thể tuyên bố bắt người này, trừng phạt người kia theo toà án của nó, bất chấp các quy tắc về ngoại giao.
5- Kiểm soát ngăn chặn các nước tiếp cận các công nghệ có thể giúp họ vượt mặt Mỹ (ví dụ công nghệ hạt nhân).
Từ đó người ta thấy rằng, nhà nước Mỹ thì ngày càng mạnh lên (hệ thống tài chính Mỹ thành hộ thống thế giới, hệ thống luật pháp Mỹ thành thế giới..) Thế tại sao các nước khác không thể củng cố nhà nước của mình mà chỉ có Mỹ được làm.
Cái lý do của nó thế này. Trong cái toàn cầu hoá hiện tại, nếu chủ quyền nhà nước càng mạnh, thì càng có lợi. Cũng chính vì thế mà những nước “lớn” : Ấn, TQ, Brazile, Nga, ..mới trở thành BRICS. Ngược lại không có chủ quyền thì sẽ vĩnh viễn không phát triển.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post Mar 18 2016, 08:43 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #18

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Mấy cái viện dẫn của Huntington, thì tôi sẽ trả lời sau. Vì mấy cái này cũng rất hay.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post Mar 18 2016, 11:58 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #19

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Vì chủ đề đã bị loãng, nên tôi tiếp tục viết kiểu puzzle. Rồi đến khi chán rồi thì sẽ nói cách ghép nó lại để hiểu chủ đề.
Ở trên, Sky có nói tới tự do, một khái niệm quan trọng của các hệ thống tư duy phương Tây. Tôi có trả lời, và nhân thể ở đây phân tích thêm. Hiểu các khía cạnh của khái niệm này, thì tức là cũng là bước đệm để tìm hiểu “định hướng XHCN”. Không kể ở VN cũng có khái niệm “độc lập – tự do –hạnh phúc”. Tôi dẫn giải nó từ khía cạnh văn hoá, kinh tế, giá trị đạo đức, và tại sao Anh-Mỹ lại đề cao tự do cá nhân.
Khái niệm tự do được nhập khẩu vào VN thông qua các tân thư Trung quốc, là sách dịch của triết học ánh sáng phương Tây ra chữ Nho. Nước đầu tiên dịch khái niệm này là Nhật bản, và vì chữ nho là nguồn từ vựng quan trọng của tất cả thế giới Nho giáo (VN,TQ, Nhật, Hàn) nên cũng từ đó nó nhập vào VN thông qua TQ. Trước đó trong thế giới Nho giáo, khái niệm này không tồn tại.
Khái niệm Tự do có ở phương Tây từ sau cải cách tôn giáo vào thế kỷ XVI, tạo ra đạo tin lành (protestant) thay cho đạo cơ đốc (catholique). Theo đạo tin lành, thì mọi con chiên có thể quan hệ trực tiếp với Thiên chúa (Dieu, God) thông qua niềm tin (fide tiếng latinh), chứ không phải do tăng lữ giáo hội ban phép, hay thông qua các hoạt động công đức như trong đạo cơ đốc. Vì không bị kìm kẹp bởi các điều lệ do tăng lữ đặt ra, cũng như bắt buộc phải làm các hoạt động công đức, mà họ được tự do. Tự do như vậy là gắn liền với lịch sử Thiên chúa giáo. Ở những nền văn hoá khác, trong đó có VN, thì làm gì có Thiên chúa, nên vấn đề này không đặt ra. Nhưng điều đó không có nghĩa là tổ tiên người VN không có tự do, mà nó được định nghĩa kiểu khác tương đương. Cái tương đương với tự do của Thiên chúa này là khái niệm lương tri, “nhân chi sơ, tính bản thiện”, mà Mạnh tử đã nói tới 500 năm trước Thiên chúa, sau này được củng cố hơn bởi Nho giáo đời nhà Minh với nhà Đại Nho Vương dương Minh. Thuyết Minh nho này không phải là họ thuyết nho giáo chính thống, vì chính thống là Tống Nho, nhưng ở VN vẫn có. Ngay trên các giấy tờ khai sinh của nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà, mục tôn giáo, nếu không phải là người theo đạo Thiên chúa ở VN, tức là số đông thì nó được đề là LƯƠNG tức là lương tri, mà người ta hay hiểu nôm na là “đạo ông bà”.
Không phải ngẫu nhiên mà ở những nước theo đạo tin lành này, đã xuất hiện kinh tế tư bản chủ nghĩa, như Hà lan, Anh, Đức.. Khiến người ta quy cho Tự do là điều tạo ra nó. Đây là thuyết của Max Weber, một nhà triết học Đức ở cuối thế kỷ XIX. Nhưng việc này không thể giải thích tại sao nước Pháp chẳng hạn, theo đạo cơ đốc, mà vẫn có kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển. Tìm hiểu giải nghĩa cái bí hiểm đó, người ta sẽ hiểu tư do trong kinh tế là thế nào.
Để tìm hiểu nó hãy phát xuất từ một mệnh đề rất mâu thuẫn của Jean-Jacques Rouseau, một trong những nhà triết học ánh sáng Pháp, là một trong những người tạo tiền đề lý luận cho cách mạng tư sản Pháp năm 1789, và vì nó là cách mạng tư sản, tất nhiên nó đòi tự do. Ông ấy nói rằng phải “forcing to be free” (có thể dịch tạm là bắt phải tự do). Nếu tự do là điều mình muốn thì tại sao phải bắt ép. Nếu đã phải bắt ép (forcing) thì sao còn được gọi là tự do (to be free). Thực ra điều đó không mâu thuẫn, nếu hiểu tự do là một cách sinh hoạt kinh tế, ứng với một mối quan hệ sản xuất. Cái mối quan hệ sản xuất “tự bán mình” thì được gọi là tự do. Nếu hình thức kinh tế không phải như vậy, thì phải ép nó thế trở thành “tự bán mình”. Lấy ví dụ, ở VN hiện tại có cái forcing to be free này không. Có chứ. Các bác ra chợ cửu vạn ở Hà nội, hay bất cứ nơi nào cũng thấy. Các bác thử hỏi họ, có thích “to be free” thế không, thì chắc chắn là không ai thích cả, vì nếu họ kiếm được việc làm ổn định chắc chắn thì vẫn hơn là làm cửu vạn chạy ăn từng bữa. Vậy phải “forcing”. Tự do như vậy là tương đương với “đem con bỏ chợ”, “sống chết mặc bay” .
Chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa thời kỳ đầu, ở Anh chẳng hạn, có cái forcing to be free này không. Có chứ. Đấy chính là việc quý tộc Anh, rào đất, chiếm đất công của các công xã, đẩy người dân Anh ra thành thị, vì mất ruộng đất (phong trào closing). Nhưng người này là tầng lớp tạo nên giai cấp công nhân Anh. May mắn lúc đó là lúc bắt đầu cách mạng công nghiệp, sản sinh ra máy hơi nước, rồi hầm mỏ. Cái “forcing to be free”này đã tạo ra nhân công cho cách mạng công nghiệp Anh, mà sự khốn khổ của người công nhân được Dicken viết trong các tiểu thuyết của ông.
Nhưng không phải nước nào cũng kiểm soát được cái “forcing to be free” này để mâu thuẫn không bùng nổ tới làm tan rã nhà nước xã hội. Các nước công nghiệp hoá càng muộn, thì vấn đề này càng quyết liệt. Nhất là trong những nước mà cấu trúc chính trị vẫn còn là phong kiến, mối quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ọp ẹp, nhưng tư bản trong nước yếu, lại còn bị xâm thực bởi tư bản nước ngoài. Đây chính là trường hợp của nước Nga Sa hoàng. Người ta có thể nhìn thấy nó trong tiến trình của cuộc cách mạng. Cách mạng tháng mười là một cuộc cách mạng trong một cuộc cách mạng. Vì trước đó đã có cuộc cách mạng tháng hai, đánh đổ chế độ phong kiến Sa hoàng, đưa giai cấp tư sản Nga lên nắm quyền (Chính quyền Kerensky). Nhưng nó chỉ tồn tại được mấy tháng, trước khi bị cách mạng tháng mười quật đổ, vì giai cấp tư sản Nga không thể quản chế được những mâu thuẫn do cái “forcing to be free” này tạo ra (Nếu người ta phân tích theo cấu trúc kinh tế, còn phân tích theo sự kiện, ông này ông kia làm cái gì, thì chắc ai cũng biết rồi).
Cái “forcing to be free” này không chỉ đối với người lao động, mà với ngay cả tầng lớp “Ê lít”. Nước Đức, rồi nước Ý công nghiệp hoá vào nửa cuối thế kỷ XIX (trùng với quá trình thống nhất của hai nước này), ở đây có sự liên minh giữa quý tộc (chế độ phong kiến cũ) với tư sản (chế độ được thiết lập), trong đó quý tộc bỏ ruộng đất, quy ra tiền đầu tư thành tư sản. Ngược lại tư sản nổi danh thì sẽ được phong tước quý tộc. Kết qủa cuối cùng là quý tộc bị nuốt gọn bởi tư sản. Và tư sản thì lại có danh của quý tộc. Tư sản mua danh, quý tộc mua sự giầu có.
Ở miền Nam VN cũng có cái quá trình này thời 1954-1975, nhưng nó không thành công. Đó chính là cải cách điền địa của Ngô Đình Diệm. Chế độ này bản chất là chế độ phong kiến của Địa chủ, vì nó là quái thai sinh ra từ chính quyền thực dân Pháp để lại ở miền Trung cộng với đại điền chủ ở Nam bộ. Cái tính phản động của nó thể hiện ngay trong chính sách. Nó đã xoá đi cải cách ruộng đất tiến bộ ở những vùng giải phóng, tăng tô tăng thuế, bắt người nông dân trả lại ruộng đất cho Địa chủ. Và địa chủ không chỉ hài lòng với điều đó, mà còn đòi thu lại địa tô thời 9 năm kháng chiến. Rất gần đây, trong lúc lang thang đi tìm sách cũ, tôi có tìm được cuốn tiểu thuyết “Không chịu sống quỳ”, của nhà văn Nguyễn Hải Trừng mà người bán sách bảo đó là tên hiệu của ông Trần Bạch Đằng. Cuốn tiểu thuyết có cái phông hiện thực ở Bến Tre nói về điều này. Người ta cũng thấy có sự phản ánh đó trong các tác phẩm ký của nhà văn Nguyễn Thi. Chính sách phản động này, là nguyên nhân ngầm dẫn tới Đồng Khởi ở miền Nam năm 1960. Ở đây người ta thấy rõ giai cấp địa chủ miền Nam không chịu “Forcing to be free”, vì nó muốn giữ lại cái quan hệ sản xuất cũ kiểu phong kiến. Nếu lúc đó chính quyền Ngô đình Diệm không xoá bỏ những thành quả của cách mạng, mà dùng tiền viện trợ Mỹ bồi thường cho Địa chủ, bắt ép họ trở thành tư bản với cái vốn đó, thì nó lại khác. Tôi ví dụ như thế để nói rằng sự “tự do” thực ra là một hình thức quan hệ sản xuất phù hợp với quá trình công nghiệp hoá. Nếu nó không tự sinh ra thì phải ép để sinh ra nó. Chính sự ép buộc này (forcing) là quan trọng bậc nhất. Còn cái Free kia chỉ là hệ quả, một khi công nghiệp hoá thành công. Người ta có thể kiểm chứng nó rất dễ khi nhìn vào những nước công nghiệp hoá sinh sau đẻ muộn: Đức (1870), Ý (1880), Nhật(1868) rồi Liên Xô (1917) và gần đây nhất là I ran (1979 với cách mạng Hồi giáo). Cũng chính vì cái tính chất forcing này mà công nghiệp hoá chỉ thành công khi nhà nước cưỡng chế mạnh, tham gia trực tiếp vào kinh tế. Nhìn thấy thế thì mới hiểu tại sao Đài, Hàn đều công nghiệp hoá khi còn là chế độ độc tài.
Tự do cá nhân bản thân nó có giá trị không. Có. Cái giá trị lớn nhất mà nó tạo ra là trách nhiệm cá nhân, là tinh thần tự nhiên vận động mưu sinh. Nhưng khi áp vào những nước đang phát triển, chưa công nghiệp hoá được thì nó bị biến dạng đi thành ích kỷ cá nhân. Kết hợp với văn hoá truyền thống thì nó chỉ lấy được cái xấu của hai bên. Kiểu nếu có điều gì đó thành công thì do tôi (cá nhân), nhưng điều gì sai (thì do tập thể). Hiện tại ở VN, trong quản lý nhà nước, trong quan hệ xã hội, chính cái tự do vô chính phủ này đang tàn phá kinh tế xã hội.
Một điều nên để ý nữa là cái giá thành chi phí để trả cho cái tự do cá nhân này hoạt động được rất đắt, và nó không hiệu quả. Hiện tại trên thế giới chỉ có mình nước Mỹ là có cái kiểu sinh hoạt này, còn các nước tư bản phát triển khác không nước nào áp dụng nó được 100%. Tại sao lại thế ? các bác chịu khó tìm hiểu một chút sẽ thấy ngay. Cái tư do cá nhân của Mỹ gắn liền với American way of life (lối sống Mỹ), và lối sống này rất phi kinh tế. Mỹ làm được điều đó bởi vì nó thống trị cả thế giới, rút ruột các nước khác để ăn. Không có sự thống trị này, Mỹ không thể giữ kiểu sống đó được. Nói một cách khác, sự tự do cá nhân của người dân Mỹ có được là do sự mất tự do của các dân tộc khác. Chính vì không thể có cái đế kinh tế này, mà nếu một nước khác ngoài Mỹ muốn áp dụng nó tổng thể, thì nó chỉ sinh ra được thứ tự do cửu vạn.
Nếu người nào ở Mỹ đọc những dòng tôi viết này, thì họ sẽ nghĩ, “chắc bác này khùng, tôi ở Mỹ đây làm việc bạc mặt, làm sao có thể nói tôi bóc lột”. Đây chính là một lý do thứ hai, để không nên bắt chiếc Mỹ kêu gọi tự do cá nhân. Vì sao ? vì ngay cả khi bóc lột được cả thế giới, người Mỹ bình thường vẫn không sướng. Chi phí vật chất lớn hơn, hiệu quả xã hội thấp hơn. Kiểu tự do cá nhân tổng thể này, thực ra là một dạng khủng long không tiến hoá của xã hội công nghiệp. Nếu so Mỹ với các nước như Tây Âu và Nhật là những nước có mức độ phát triển tương đương, người ta sẽ thấy số lượng người tù trên tổng số dân toàn quốc của Mỹ lớn hơn nhiều Tây Âu, và còn lớn hơn rất nhiều Nhật bản. Có lẽ số liệu này còn lớn hơn cả ở VN (cái này thì tôi không chắc). Nếu xã hội mà tốt đẹp, thì sao nhiều người tù thế. Như vậy rõ ràng nó là một xã hội cực kỳ bạo lực. Mỹ cũng là nước có số lượng luật sư trên tổng số dân cao nhất thế giới. Số lượng luật sư ở Mỹ, nhiều hơn số lượng kỹ sư. Nếu xã hội tốt đẹp, con người hoà hiếu, thì cần gì lắm luật sư thế.
Như vậy cái tự do cá nhân tổng thể này cực kỳ tốn kém, và không hiệu quả. Mỹ sở dĩ làm được, giữ được, vì nó có quá nhiều của cải để có sức mà duy trì.
Tất nhiên người ta có thể nói, vì Mỹ có tự do cá nhân tổng thể, nên kinh tế nó phát triển nhất. Điều này thực ra không đúng. Vào cuối thập niên 80, Nhật bản phát triển rất mạnh, và hoàn toàn có khả năng vượt Mỹ nếu nước này không bị Mỹ đánh về tiền tệ, bắt ép Nhật tăng tỉ số đồng Yên sau hiệp định Plaza. Nếu không có chuyện đó, có lẽ bây giờ Mỹ đã đứng sau Nhật. Như vậy cái khung quan hệ bất bình đẳng Mỹ-Nhật , Nhật bị ràng buộc bởi Mỹ đã dẫn tới việc Nhật phải chịu Mỹ, chứ không phải là tự do cá nhân ở Mỹ giúp Mỹ ở trên Nhật.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Skywalker
post Mar 19 2016, 11:44 AM    
Đường dẫn tới bài viết này #20

Elite Member


Nhóm: Dân làng Ven
Số bài viết: 1.896
Tham gia từ: 4-February 06
Đến từ: Hà Nội
Thành viên thứ: 2.280

Tiền mặt hiện có : 47.996$
Số tuần chưa đóng thuế : 6

Bình chọn :



@bác Phó:

Thiên chúa giáo, Phật giáo hay triết thuyết Khai sáng đều đề cập đến "tự do" trước tiên là thuộc về tinh thần cá nhân bác ạ. Á Đông lưu truyền câu nói của Đức Phật "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn" hay "nhất thiết pháp duy tâm tạo" ... đều tỏ cái ý rằng cá nhân có năng lực và có quyền tự do tư tưởng để giác ngộ giải thoát. Vấn đề là "tự do" khởi đi từ cõi tinh thần (duy tâm) cụ thể hóa thành hành động vật chất thì nó không cứng nhắc mà phụ thuộc vào nhân quả (nhà Phật gọi là "tùy duyên").

Triết học Đông Tây hoàn toàn giống nhau ở điểm tột cùng này (và khoa học hiện đại cũng cung cấp bằng chứng tin cậy nữa), sau đó mới tùy theo phương pháp luận mà tách dòng. Dòng chảy tư tưởng nào nhất quán với gốc rễ triết học thì đáng tin cậy hơn.

Lý luận về Nhà nước, dân tộc cũng là triển khai từ triết học, nhưng phải lưu ý rằng chúng dựa trên quần thể các cá nhân tương đối 'bình đẳng' với nhau. Cái sự 'bình đẳng' này cũng có gốc triết học (sinh lão bệnh tử chẳng chừa một ai) và tính giai đoạn (thịnh suy do nhân quả). Nước Mỹ hưng thịnh, Liên Xô sụp đổ ...vv có phải chỉ do các sự kiện vĩ mô thôi đâu, chúng có cái nền con người vi mô cả đấy. Nhớ câu ngạn ngữ "mất một cái móng ngựa thì mất một con ngựa, mất một con ngựa thì mất một kỵ binh, mất một kỵ binh thì mất một đại đội, mất một đại đội thì mất một quân đoàn, mất một quân đoàn thì thua một cuộc chiến, thua một cuộc chiến thì cả đế chế cũng sụp đổ!". laugh.gif



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
« Bài viết cũ hơn · Thời Sự · Bài mới tiếp theo »
 

4 Trang < 1 2 3 4 >
Topic Options
1 người đang chống cằm trầm tư ngâm cứu chủ đề này (1 khách vãng lai và 0 thầy mo tàng hình)
0 Thành viên:
 

Xem diễn đàn ở dạng TEXT - PDA - Pocket PC