Tạp bản in cho chủ đề

Nhấn chuột vào đây để xem chủ đề ở dạng nguyên thủy

Quán nước đầu làng Ven _ CLB Thanh Niên _ Nền giáo dục từ xa

Gửi bởi: Milou vào hồi Aug 13 2002, 10:44 PM

Nền giáo dục từ xa

Minh Nguyệt

Một trong những thay đổi lớn nhất trong lãnh vực giáo dục trên thế giới trong mấy năm vừa qua có lẽ l sự phát triển của nền giáo dục từ xa, tức l việc học qua hệ thống Internet. Tầm quan trọng của nền giáo dục từ xa lớn lao đến độ cách đây mấy tháng thủ lãnh phe đối lập tại Úc, ông Kim Beazley, hứa hẹn l nếu đảng của ông thắng cử trong kỳ bầu cử được tổ chức v o cuối năm nay, ông sẽ cho th nh lập hẳn một trường đại học chuyên đảm trách việc giáo dục từ xa. Với phương cách giáo dục từ xa ấy, ông hy vọng l sẽ giúp cho những ai không có điều kiện đến trường đến lớp đều có thể ho n tất chương trình đại học dễ d ng. Không những ở Úc, ngay tại Việt Nam, trong năm 2000 vừa qua, trên diễn đ n của báo Nhân Dân điện tử, nhiều người cũng đã thảo luận về triển vọng của nền giáo dục từ xa. Cuộc thảo luận n y khá sôi nổi, thu hút được sự tham gia của một số chuyên gia nổi tiếng ở hải ngoại.

Tuy nhiên, giáo dục từ xa l gì?

Nói một cách vắn tắt, giáo dục từ xa l nền giáo dục trong đó phần lớn các b i giảng, b i đọc thêm v b i tập đều được chuyển giao đến học sinh một cách gián tiếp, không phải l hình thức mặt đối mặt như trong một lớp học theo kiểu truyền thống.

Hình thức sớm nhất của giáo dục từ xa l cách học h m thụ. Ng y trước, ở Việt Nam, một số người ham học đã phải ghi danh học h m thụ tận bên Pháp. Học giả Nguyễn Hiến Lê cũng từng kể l ông có tham dự nhiều khoá học h m thụ về phương pháp tổ chức công việc tại Pháp. Theo cách học h m thụ, sau khi đóng tiền học phí, học sinh sẽ đều đặn nhận được b i giảng được gửi qua bưu điện. Bên cạnh b i giảng còn có b i tập. Học sinh sẽ tự l m b i tập rồi gửi trả lại trường cũng qua đường bưu điện. Các thầy cô chấm v sửa b i tập xong lại gửi bưu điện đến cho học sinh để học sinh có thể biết được những chỗ đúng v chỗ sai cũng như những ưu điểm v khuyết điểm trong b i l m của mình để tự sửa chữa v học tập.

Lối học h m thụ như vậy đã có ở các quốc gia Tây phương khá sớm, tuy nhiên, đặc biệt phát triển tại Úc. Lý do l lãnh thổ của Úc quá rộng, dân chúng lại ít v sống thưa thớt. Chính phủ Úc muốn nâng cao dân trí nên lúc n o cũng khuyến khích v tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người học thêm.

Nền tảng của lối học h m thụ l các t i liệu in trên giấy. Nền giáo dục từ xa hiện nay thì khác, chủ yếu dựa trên các phương tiện kỹ thuật truyền thông viễn liên hiện đại như Internet, CD-Rom, video, email, v.v... Điều kiện căn bản để tiến h nh nền giáo dục từ xa l mỗi học viên phải có máy vi tính v máy vi tính ấy phải được nối v o mạng Internet. Tất cả b i vở giảng dạy đều được các giáo sư đưa lên mạng. Học viên chỉ cần mở ra xem v l m các b i tập trong đó xong rồi gửi trả lại để giáo sư chấm v sửa. Nếu học viên không hiểu một chi tiết n o đó, họ cũng có thể đặt câu hỏi cho giáo sư v được trả lời ngay. Với trình độ kỹ thuật hiện nay, các học viên chung một trình độ cũng có thể thảo luận với nhau qua hệ thống Internet.

Nói cách khác, với nền giáo dục từ xa, hình ảnh lớp học sẽ khác hẳn hiện nay. Trường sẽ không cần có cơ sở thật lớn, không cần có lớp học, không cần b n ghế, cũng không bảng hay phấn. Khuôn viên trường có thể chỉ l một văn phòng nhỏ vừa đủ cho một số nhân viên kỹ thuật lo điều h nh mạng lưới Internet. Còn các giáo sư thì ở nh hoặc ở bất cứ nơi n o họ thích. Học viên thì rải rác khắp nơi, có thể ở nhiều quốc gia khác nhau, người thì ở Mỹ, người thì ở Úc, người thì ở Pháp, người thì ở Việt Nam, v.v... Ở đâu cũng được, miễn l họ có máy vi tính được nối v o mạng lưới Internet. Đó l về không gian. Về thời gian thì ho n to n tự do. Mọi t i liệu đều có sẵn trên mạng, do đó, học viên có thể truy cập để đọc bất cứ khi n o họ có thì giờ rảnh hoặc cảm thấy hứng thú.

Với cách tiến h nh việc dạy v học như vậy, nền giáo dục từ xa rõ r ng l khác hẳn hình thức giáo dục truyền thống v được xem l có nhiều ưu điểm. Ưu điểm đầu tiên l sự tiện lợi. Học viên không cần phải đến trường, không phải lo lắng về thì giờ. Họ có thể đi l m to n thời m vẫn học h nh đến nơi đến chốn. Việc sống gần hay xa trường lớp không còn l vấn đề nữa. Điều n y đặc biệt có ý nghĩa đối với những người sống ở nông thôn. Riêng tại Việt Nam, khi nền giáo dục từ xa phát triển, sự thuận lợi n y lại c ng lớn lao vì đa số dân Việt nam vẫn còn sống ở các miền quê. Ở các quốc gia phát triển như Úc, nền giáo dục từ xa c ng dễ thực hiện vì tuyệt đại đa số dân chúng đều có máy vi tính v đều sử dụng mạng lưới Internet.

Ưu điểm thứ hai của nền giáo dục từ xa l nó sẽ phát triển mối quan hệ tương tác giữa thầy v trò. Theo cách giáo dục truyền thống trong trường trong lớp hiện nay, tuy thầy trò mặt đối mặt nhau, nhưng không phải lúc n o sinh viên cũng có cơ hội để nhờ thầy cô giáo giải thích thêm những gì mình không hiểu. Nguyên nhân l giờ học có giới hạn m số lượng sinh viên thường rất đông. Trong nền giáo dục từ xa thì nhờ việc đặt câu hỏi v trả lời đều được thực hiện qua Internet cho nên tương đối dễ d ng hơn. Giáo sư không bị r ng buộc về vấn đề giờ giấc. Hơn nữa, nh trường có thể huy động nhiều người cùng tham gia v o việc trả lời, do đó tư liệu v ý kiến lại c ng phong phú.

Xin lưu ý quý thính giả l mặc dù có một số ưu điểm như vừa kể nhưng cho đến nay, phần lớn các nh giáo dục đều xem nền giáo dục từ xa chỉ l một phương cách giáo dục bổ sung chứ không thay thế ho n to n cho nền giáo dục truyền thống. Nói cách khác, trong tương lai, hình thức đến trường lớp để học chắc chắn vẫn còn tiếp tục. Nền giáo dục từ xa được đặt ra để giúp cho sinh viên có phương tiện học thêm một số môn hoặc một số ng nh n o đó. Hơn nữa, nó chủ yếu giúp những người lớn tuổi phải đi l m to n thời hoặc những người ở những địa phương xa xôi không có điều kiện đến trường h ng ng y m thôi.

Hiện nay, số lượng các đại học mở nền giáo dục từ xa c ng lúc c ng nhiều. Năm 1998, trường Jones International University ở th nh phố Denver thuộc tiểu bang Colorado của Hoa Kỳ đã mở các lớp học chỉ dạy ho n to n trên mạng lưới Internet. Gần đây, họ có khoảng gần 200 sinh viên, tuy nhiên, Ban giám hiệu của trường tỏ ra đầy lạc quan, hy vọng không bao lâu nữa, số lượng sinh viên có thể nhảy lên đến 1 triệu. Theo ước tính của các chuyên gia về giáo dục, khoảng cuối năm nay, có thể sẽ có khoảng 75% các trường đại học ở Hoa Kỳ tiến h nh việc dạy học theo phương thức giáo dục từ xa.

Tại Úc, trong mấy năm vừa qua, ba đại học lớn nhất của Úc l Đại học Melbourne, Đại học News South Wales v Đại học Queensland đã v đang hợp tác với 18 đại học nổi tiếng khác trên thế giới trong một dự án chung gọi l Univeritas 21. Sáng lập viên của dự án n y l giáo sư Alan Gilbert, Viện trưởng Viện đại học Melbourne. Dự án nhắm đến việc thực hiện một hệ thống giáo dục to n cầu ho n to n qua hệ thống Internet. Chương trình dạy sẽ bao gồm từ cấp cao đẳng lên đến đại học v sau đại học. Việc soạn thảo giáo trình sẽ do các đại học danh tiếng đảm trách. Việc đưa các giáo trình v b i tập lên Internet cũng như việc chấm điểm sẽ do công ty Thomson Corporation của Canada chịu trách nhiệm.

Ngo i ra, hầu như tất cả các đại học tại Úc hiện nay đều bắt tay v o việc thử nghiệm phương thức giáo dục từ xa. Ví dụ như trường Đại học Nam Úc đã mở rất nhiều chương trình cử nhân d nh cho sinh viên muốn học từ xa, ví dụ như các ng nh truyền thông, kế toán, thương mại, tâm lý, thu hút được h ng ng n sinh viên ở Singapore, Na Uy, v.v... Những đại học khác ít phương tiện hơn thì khuyến khích việc áp dụng phương pháp giáo dục từ xa từng bước, nghĩa l họ không mở hẳn ra những ng nh học trên Internet m yêu cầu các giáo sư đưa một phần nội dung giảng dạy lên Internet v tạo cơ hội cho sinh viên có thể tiến h nh các cuộc trao đổi v thảo luận, cũng trên Internet.

Có một số người bi quan, nghi ngờ việc giáo dục qua Internet sẽ không có tính hiệu quả cao vì sinh viên thiếu những động lực quen thuộc cần thiết cho việc học, chẳng hạn họ không trực tiếp gặp thầy gặp bạn, do đó, dễ chán nản v khó tập trung. Tuy nhiên, khuynh hướng chung trong giới giáo dục vẫn l lạc quan. Người ta tin l với xu thế phát triển o ạt như hiện nay, triển vọng về một nền giáo dục ở đó thầy v trò không cần đến trường m vẫn học tập có hiệu quả l điều không còn xa xôi lắm. Nếu điều n y trở th nh hiện thực thì người Việt Nam chúng ta cũng có quyền hy vọng l sẽ có một ng y vẫn tiếp tục ngồi ở Việt Nam, chỉ cần qua một chiếc máy vi tính được nối v o mạng Internet, nhiều người có thể ho n tất chương trình đại học hoặc sau đại học ở những trường đại học lớn v lừng danh trên thế giới.

T i liệu tham khảo: Education Age 28/2/2001

Gửi bởi: traucau vào hồi Aug 20 2002, 01:09 AM

Có một số người bi quan, nghi ngờ việc giáo dục qua Internet sẽ không có tính hiệu quả cao vì sinh viên thiếu những động lực quen thuộc cần thiết cho việc học, chẳng hạn họ không trực tiếp gặp thầy gặp bạn, do đó, dễ chán nản v khó tập trung. Tuy nhiên, khuynh hướng chung trong giới giáo dục vẫn l lạc quan. Người ta tin l với xu thế phát triển o ạt như hiện nay, triển vọng về một nền giáo dục ở đó thầy v trò không cần đến trường m vẫn học tập có hiệu quả l điều không còn xa xôi lắm. Nếu điều n y trở th nh hiện thực thì người Việt Nam chúng ta cũng có quyền hy vọng l sẽ có một ng y vẫn tiếp tục ngồi ở Việt Nam, chỉ cần qua một chiếc máy vi tính được nối v o mạng Internet, nhiều người có thể ho n tất chương trình đại học hoặc sau đại học ở những trường đại học lớn v lừng danh trên thế giới.
______________________________________

Quan điểm của tôi về phần viết trên khác một chút thế n y. Công nghệ giáo dục truyền thống l học sinh, sinh viên tới giảng đường nghe các giáo sư giảng b i có một ý nghĩa tôi cho l quan trọng nhất, đó l họ tìm tới một môi trường học tập mang tính xã hội cao hơn hẳn môi trường trên internet. Ở trên giảng đường ngo i kiến thức khoa học, họ có giao diện rất rộng rãi để giao lưu với nhau về văn hoá, đây vốn l điểm yếu nhất của giao diện internet. Về chuyện giáo dục không cần tới giảng đường tôi cho l không phải l cái mục đích của giáo dục từ xa. Giáo dục từ xa sẽ đóng vai trò rút ngắn lại những khoảng cách địa lý, bạn có thể học qua internet những chương trình đ o tạo từ khắp nơi trên thế giới nhưng bạn không nên vì thế m không tham gia các chương trình đ o tạo ở địa phương mình bởi vì ngay tại nơi m bạn ở, bạn sẽ tiếp thu được văn hoá vùng tại đó (văn hoá n y mang những đặc trưng nơi m bạn sống về con người, khí hậu, kinh tế.v.v...).
Giáo dục từ xa l một công nghệ giáo dục hiện đại v có khả năng áp dụng rất nhanh chóng, tuy nhiên công nghệ giáo dục truyền thống vẫn thực sự cần được đầu tư nhiều hơn nữa. Đối với tôi thì gặp gỡ trực tiếp với một ai đó vẫn thú vị hơn nhiều so với việc chat với nhau qua YM với camera.

Gửi bởi: Phó Thường Nhân vào hồi Aug 20 2002, 05:44 AM

Học qua mạng có lẽ chỉ thích ứng cho những môn khoa học xã hội, nhân văn thôi. Học sinh chỉ cần tờ giấy, cây bút được thay bằng b n phím, m n hình. Nhưng để học những môn khoa học tự nhiên, Sinh viên không thể thiếu được phần thực h nh trên máy móc, trong phòng thí nghiệm. Những điều m trên mạng không thể có được.Thử học y khoa, điện tử, cơ khí trên mạng xem, có m ..chít.
Ngược lại mạng l một trợ thủ đắc lực cho việc tìm tư liệu, cập nhật kiến thức lý thuyết.

Gửi bởi: koibeto81 vào hồi Nov 20 2002, 02:55 PM

Nói đến giáo dục từ xa ở Việt Nam, không thể không nhắc tới GS.TS.Nguyễn Cảnh To n, có lẽ ở Việt Nam thì ông l người đầu tiên có những nghiên cứu, cọ sát với thực tiễn GDTX. Sau đây, em xin giới thiệu các b i viết, trao đổi về GDTX của GS Nguyễn Cảnh To n đã được đăng trên nhiều tạp chí về GD ở VN, em thì em lấy từ báo Nhân Dân. ;D

--------------------------


Nên chú trọng hình thức giáo dục từ xa


Các cấp, bậc giáo dục đều quan trọng, nhưng nếu cần phải cân nhắc để chọn một thứ tự ưu tiên thì giáo dục đại học phải được xếp v o h ng đầu, vì đại học không những đ o tạo ra những cán bộ có trình độ cho mọi mặt hoạt động của xã hội m còn l nơi đ o tạo ra cá thầy cho các bậc học dưới v cho cả chính mình. Nó l cái máy nhân lên số lượng v đ o sâu về chất lượng cho to n bộ sự nghiệp giáo dục.

Nhưng dù có ưu tiên thì, trong một nước còn rất nghèo như Việt Nam, tiền của của Nh nước rót v o cho đại học, nếu tính theo đầu người sinh viên, vẫn còn thua xa ngay so với các nước trong vùng.

Vì vậy, phải vừa hấp thụ tinh hoa của nhân loại, vừa có những nét độc đáo Việt Nam trong chiến lược giáo dục đại học thì mới mong đuổi kịp người ta được. Theo tôi, một chiến lược giáo dục đại học ở nước ta cho hai mươi ba mươi năm trước mắt phải gồm mấy điểm chính sau đây :

1. Phải coi trọng việc đa dạng hóa các hình thức đ o tạo, trong đó đ o tạo từ xa giữ một vai trò đặc biệt.

Lâu nay, báo chí nói nhiều về "ký túc xá" cho sinh viên v hình như chưa có giải thỏa đáng, phần lớn sinh viên phải đi thuê nh ở trọ, vừa tốn tiền, vừa không đảm bảo an ninh. Vừa rồi có tin vui l sẽ xây dựng một khu ký túc xá đủ chỗ cho 7.000 sinh viên. Nhưng chắc rằng cho đến khi xây dựng xong, số sinh viên đã tăng thêm nhiều. Trong lúc đó, lời giải "học từ xa" lại ít người b n đến. Tại sao vậy? Có lẽ vì cho rằng "từ xa" l phi chính quy nên không có chất lượng. Rõ r ng, trong một thời gian ngót mười năm qua, các trường đại học dân lập mọc ra nhanh hơn nhiều so với sự phát triển đ o tạo đại học từ xa. Tất nhiên, nếu có thêm một trường đại học dân lập thì cũng tốt, nhưng đại học dân lập cũng l học tập trung, sinh viên cũng cần trường sở ký túc xá, lại phải trả học phí cao nên đạo học dân lập chưa phải l đại học cho người nghèo. Cái gì l m cho xã hội có phần lạnh nhạt với "từ xa"? Phải chẳng vì "từ xa" không có chất lượng m "tập trung" thì có chất lượng? Quy luật về "chất lượng" đâu có phải như thế. Quy luật chất lượng l : "Cách đ o tạo n o khơi dậy được nội lực tự học, tự nghiên cứu của sinh viên thì cách ấy có chất lượng". Sự vật rất biện chứng : "tập trung, chính quy" có rất nhiều thuận lợi khách quan nhưng thuận lợi có thể chuyển hóa th nh khó khăn nếu như sự "gần thầy" tạo ra tư tưởng ỷ lại v o thầy; "từ xa" có nhiều khó khăn khách quan nhưng "xa thầy" lại l cơ chế rất hiệu nghiệm để chống lại sự ỷ lại v o thầy. Bộ Giáo dục(cũ)(nay l Bộ Giáo Dục v Đ o Tạo) đã l m thử (đại học từ xa) trong 11 năm (1977-1988) với gần 2000 sinh viên v thực nghiệm đã chứng minh cho quy luật chất lượng nói trên. 2000 sinh viên đó đã tốt thi tốt nghiệp chung với sinh viên chính quy m không được một sự chiếu cố n o. Kết quả l "bên tám lạng, bên nửa cân" mặc dù đầu v o của "từ xa" kém hơn (tuyển những người hỏng thi v o đại học tập trung, nhưng đạt điểm học được). Nh nước không phải lo trường, sở, ký túc xá cho 2000 sinh viên nói trên. Bí quyết th nh công của "từ xa" trong thực nghiệm n y l : nội lực sinh viên được phát huy cao độ, khơi dậy được sức mạnh tổng hợp của trung ương v địa phương. Thực nghiệm đã lùi v o dĩ vãng 12 năm thì hồi âm từ những người tốt nghiệp "từ xa" đó lại c ng lắm tin vui : nhiêu người tiếp tục phát triển đi lên cao về năng lực, học vấn sau khi ra đời công tác nhờ khả năng tự học, tự nghiên cứu m hình thức "từ xa" đã mang đến cho họ. Quy luật "chất lượng" nói trên l cái m các nước nghèo phải bám chắc lấy để chạy đua với thế giới về "trí tuệ". Các nước gi u họ còn rất coi trọng "đ o tạo từ xa", huống chi Việt Nam. Dĩ nhiên ta cũng coi trọng chính quy, tập trung nhưng không thể chạy đua về số lượng với người ta được nếu muốn cho trường đại học ra trường đại học để tiếp cận khoa học hiện đại một cách thuận lợi v cũng l m chỗ dựa cho "từ xa" phát triển vững chắc. Ta phải coi "từ xa", niềm hy vọng của nước nghèo, gấp mấy lần họ v tiến lên phải l m giỏi hơn họ. Ta có khả năng l m giỏi hơn họ trước mắt chưa phải nhờ công nghệ tin học l lĩnh vực còn cần có nhiều thời gian tiền của để theo kịp họ, m nhờ truyền thống chịu thương, chịu khó hiếu học của ngượi học, của gia đình họ, l ng xóm họ, dòng họ của họ v nhờ óc thông minh của các nh giáo Việt Nam có thể xây dựng khoa học "sư phạm từ xa" vừa kế thừa tinh hoa của quốc tế vừa có đặc thù Việt Nam. Vì tư tưởng chiến lược "từ xa" không rõ nên hiện đã có những chủ trương hiện h nh l m hại cho phát triển "từ xa" trong tương lai. Thí dụ, giải tán "Đại học đại cương l đúng" nhưng giao đ o tạo "đại cương" về cho các trường th nh viên l không đúng vì về sau m đ o tạo từ xa phần "đại cương" sẽ gặp sự phân tán không kinh tế. Sai lầm ở đây giống sai lầm của ông chủ cửa h ng "may sẵn", khi bị kêu l "mẫu mã, kích thước, nghèo n n" đáng lẽ phải l m cho mẫu mã, kích thước phong phú lên thì lại đi giải tán "may sẵn" biến th nh "may đo".

2. Phải mạnh dạn đổi mới cách dạy, cách học sớm đưa sinh viên tập dượt nghiên cứu khoa học. Muốn đổi mới cách dạy, cách học thì nên l m ở "từ xa" trước vì ở đó, sinh viên không gần thầy để m ỷ lại nên buộc phải phát huy nội lực cao v cho thi tốt nghiệp chung, so sánh kết quả để kích thích cả hai bên. Có thể mở ra những cuộc thi khác (ngo i thi tốt nghiệp) để sinh viên từ xa tin rằng họ có thể học giỏi còn sinh viên tập trung thì chớ chủ quan, không khéo thì thua "từ xa". Với mô hình đ o tạo "tập trung, chính quy" thì việc mở các lớp chất lượng cao đang tạo sức ép buộc các thầy đổi mới cách dạy vì số sinh viên n y có sức tự học cao, họ không cần đến sự thuyết giảng khi đã có t i liệu, sách giáo khoa.

3. Phải chăm lo xây dựng đọi ngũ cán bộ giảng dạy : tình hình bây giờ đã gay go lắm, giáo sư tuổi cao thì nhiều m kế cận lại khan hiếm. Trong tình hình đó, phải có những biện pháp tình thế rất quyết liệt trong việc tạo nguồn (từ phổ thông, từ đại học chất lượng cao) bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ ra ngo i khuôn khổ của những quy định chung (v dĩ nhiên phải được Nh nước cho phép) mới cứu vãn được tình hình. Rồi việc kéo cho được những giáo sư Việt Nam đang ở nước ngo i (nhiều người trong số họ đã từng đi xin việc trong nước nhưng đều bị trả lời : hết biên chế) v vẫn mang quốc tịch Việt Nam, rồi còn những giáo sư Việt kiều, nước ngo i nữa. Việc các chuyên gia Việt Nam ra nước ngo i l m việc một thời gian ngắn, cũng rất được quan tâm. Tư duy "sử dụng" cũng nên đổi mới. Lấy thí dụ, nếu nhân t i về toán học chỉ nhìn v o có mấy địa chỉ : Viện toán, Đại học khoa học tự nhiên thì mấy nơi đó sử dụng sao hết. Thời đại ng y nay lại l thời đại "toán học xâm nhập khắp nơi" thì ta phải sử dụng sao cho trong sự cố gắng "hiện đại hóa", toán học sẽ xâm nhập không những v o Viện toán v các trường đại học m v o trong nhiều ng nh, nghề trước đây ít dùng hay không dùng đến toán. Hiện nay nh nước đã đồng ý gọi "phó tiến sĩ" l "tiến sĩ" vì trong quan hệ quốc tế, những người có trình độ tương đương ở các nước đều được gọi l doctor, docteur... Như vậy cũng phải. Nhưng còn "tiến sĩ" trước đây thì gọi l gì v có còn chủ trương "hai học vị" không? Mỗi nước có ho n cảnh điều kiện riêng của họ. Việt Nam có điều kiện riêng đó l một nền khoa học, một nền đại học còn non trẻ, đội quân chưa phải đã v o một nền nếp thuận lợi cho sự phát triển. Các tiến sĩ (trước đây l phó tiến sĩ" chỉ mới l những người có năng lực độc lập nghiên cứu, chưa phải l những người đầu đ n, chủ trì. Hiện nay, trong lĩnh vực đ o tạo trên đại học đã xuất hiện nhiều của "rởm" rất có hại cho nền khoa học ở nước ta. Không thể chấn chỉnh tình hình đó chỉ bằng một v i chỉ thị h nh chính, m phải có những người đầu đ n đủ phẩm chất v năng lực điều h nh. Để thả nổi cho thực tiễn đ o tạo nên đầu đ n thì sẽ có ít v lâu. Phải có tổ chức, chính sách kích thích thì mới sẽ có nhanh, nhiều hơn. Nếu số đầu đ n đích thực m ít, số tiến sĩ đông trong đó có cả rởm thì đội ngũ khoa học dễ rơi v o tình trạng ố hợp, cá mè một lứa, rất nguy hiểm. Một nước như nước Pháp, có truyền thống khoa học đã mấy thế kỷ, thế m sau khi bỏ "Docteur d'État" đã phải khôi phục lại dưới một dạng hơi khác l "Docteur habile" để đảm bảo cho chất lượng hướng dẫn nghiên cứu khoa học.

4. Việc hình th nh đại học đa ng nh l cần thiết để có sự "hợp đồng binh chủng" ngay từ trong đ o tạo, để sử dụng hợp lý, tiết kiệm sức người, sức của. Tuy nhiên cách hình th nh không nên "cơ học" như vừa rồi. Nên theo cách lấy một trường mạnh rồi thì tuỳ theo nhu cầu hiện đại hóa m trường ấy mọc dần thêm khoa, khi khoa đủ mạnh thì th nh trường con cũng bằng cách đó hình th nh cách Viện ở trong trường để kết hợp nghiên cứu v đ o tạo. Đó l chuyện lâu d i. Trước mắt, để sử dụng hợp lý sức người, sức của, để các trường có thể "hợp đồng binh chủng", cần hình th nh những trung tâm chỉ huy việc sử dụng chung đội ngũ, thiết bị.

5. Trong các trường Đại học nên hình th nh "khoa học tư duy" khi m trí tuệ đã được đặt lên h ng đầu. Đây l lĩnh vực không đòi hỏi vốn lớn, thiết bị nhiều nhưng đòi hỏi sự thông minh m dân tộc ta có tiềm năng. Có nhiều loại tư duy, logic, biện chứng, hình tượng, quản lý, kinh tế, kỹ thuật, thuật toán, mỗi trường Đại học nên tuỳ theo nhiệm vụ chính trị của mình m chọn các tư suy cần chuyên sâu để xây dựng th nh khoa học.

6. Phải thiết lập cơ cấu: Đại học - Phổ thông - Cuộc sống. Đại học v phổ thông đều có mặt mạnh, mặt yếu. Bên thì mạnh về khoa học, yếu về số lượng, bên thì yếu về khoa học nhưng mạnh về số lượng v có mặt khắp nơi. Hai bên kết hợp với nhau lại bằng hình thức "học sinh phổ thông" tham gia l m cộng tác viên (ở những việc thích hợp) cho các đề t i khoa học của trường đại học, thì cả hai đều có lợi. Đại học được nối thêm óc, thêm tay, phổ thông tiếpc cận được với khoa học hiện đại, rèn được trí thông minh v tác phong công nghiệp. Nếu kết hợp tốt thì mối quan hệ tác động qua lại giữa giáo dục v cuộc sống sẽ được tăng cường rất nhiều.

GS.TS. Nguyễn Cảnh To n.

Gửi bởi: DonJuan vào hồi Nov 25 2002, 06:00 AM

Hiện nay trường đại học có tiếng của Mĩu l Massachusetts Institute of Technology (MIT) đã đăng tải lên website của họ chương trình bậc đại học một số ng nh như tin học, xã hội, kh cơ bản. Đây cũng l một h nh động táo bạo v tiên phong cho việc to n cầu hoá giáo dục đại học. Các huynh có hay xem chương trình của MIT n y không :-[

Gửi bởi: chipchipchip vào hồi Nov 25 2002, 07:51 AM

Bác VNHL bác ấy chê :laugh.gif

Gửi bởi: koibeto81 vào hồi Nov 25 2002, 02:08 PM

Em post tiếp...b i sau đây có thể coi như l b i trả lời cho b i viết của GS Nguyễn Cảnh To n ở trên, b i n y do GS.TS Phạm Quang Tuấn, thuộc Đại học New South Wales (Australia).

Một số vấn đề về giáo dục từ xa


Giáo dục từ xa l một phương cách "huấn luyện" tương đối cổ điển, nhưng c ng ng y c ng được nhận được sự chú ý của các nh giáo dục hiện đại. Trong ho n cảnh hiện tại ở nước ta, đ o tạo từ xa cần được nghiên cứu thêm để hy vọng có thể ứng dụng trong các trường đại học dạy nghề. Những ý kiến của GS Nguyễn Cảnh To n trong b i "Nên chú trọng hình thức đ o tạo từ xa" rất đáng được hoan nghênh v cần được b n thảo nhiều hơn, v qua đó hy vọng l ta có thể tiến tới một mô hình giáo dục từ xa cho cả nước. B i viết nhỏ n y chỉ trao đổi xung quanh những vấn đề GS Nguyễn Cảnh To n đã đặt ra, qua đó thông tin thêm một số thực tế, kinh nghiệm v quan niệm của các nước tiên tiến trong phát triển giáo dục từ xa, nhằm gợi ý suy nghĩ vể một mô hình giáo dục từ xa sát thực v phù hợp với điều kiện văn hoá, tâm lý v kỹ thuật của Việt Nam.

1.Vấn đề vai trò người thầy trong giáo dục từ xa

GS Nguyễn Cảnh To n rất đúng khi cho rằng tính ỷ lại quá nhiều v o thầy giáo l m cản trở việc học, việc phát triển kiến thức ở người Việt. Nhưng khi GS tìm thấy ở phương pháp giáo dục từ xa phương thuốc chữa căn bệnh ỷ lại thầy thì lại chưa đủ cơ sở. Thực ra, tâm trạng thiếu độc lập n y có lẽ xuất phát từ truyền thống "tôn sư trọng đạo" ở các nước Đông Á, nơi từ ng n xưa "thầy" chiếm một địa vị gần như tối cao trong tâm tưởng người dân, chỉ thua "vua" : quân, sư phụ. Do đó, vấn đề được đặt ra không phải l trông cậy v o sự cách ly người thầy trong giáo dục từ xa, m l tìm cách khắc phục cái tâm lý vốn có ng n đời n y. Kinh nghiệm ở các nước phương Tây, nơi m nền giáo dục tiểu học v trung học của họ khuyến khích tư duy độc lập, tự nghĩ, cho thấy một cách hữu hiệu nhất l được tiếp cận thường xuyên v trực tiếp với người thầy dạy đúng cách. Thật vậy, người thầy biết dạy ở bậc đại học không phải l một ông đồ nhồi nhét kiến thức, m l một người đ n anh, người chị nhẹ nh ng hướng dẫn sinh viên trên đường học vấn. Họ cố gắng l m khơi dậy tính tự lực tự chủ, suy nghĩ độc lập ở học viên, bằng nhiều phương cách. Họ có những cuộc b n cãi d i v bình đẳng giữa thầy v trò. Họ khuyến khích, thông cảm v biết nể ý kiến của trò. Họ thẳng thắn v không ngần ngại nói câu "tôi chưa hiểu rõ". Thay vì mớm câu trả lời, họ khuyến khích học trò tự đi timg sách vở t i liệu để giải quyết vấn đề.

Nếu không được trực diện tiếp xúc với những người thầy cô như thế, v được đối thoại thường xuyên với những bạn học cùng trình độ, thì đầu óc người sinh viên khó có thể phát triển tột mức v khả năng tự suy nghĩ độc lập khó có thể hiện ra. Học sinh ta ở những lớp dưới hầu như suốt đời bị nhồi sọ về sự luôn luôn đúng của thầy, của sách vở, được bảo đi bảo lại phải nghe lời thầy, phải nhún nhường về khả năng của mình. Sự xa cách, lại trong ho n cảnh thiếu Internet, thiếu điện thoại, khiến cho sự đối thoại hai chiều rất khó v do đó việc học từ xa trở th nh vỏn vẹn thầy nói trò nghe, trò l m thầy chấm. Khi m những giảng viên đại học chỉ l những chữ ký v số điểm trên giấy tờ thì tình trạng lệ thuộc tinh thần c ng tệ hại hơn. Vì thế, giáo dục từ xa không thể l một vị thuốc tiên chữa ỷ lại m trái lại, còn l m cho vấn đề ỷ lại trở th nh trầm trọng hơn.

2.Đánh giá đúng năng lực v nguyện vọng sinh viên Việt Nam

Ta có khả năng l m giỏi giáo dục từ xa hơn các nước phát triển khác vì "truyền thống chịu thương, chịu khó hiếu học" của ta hay không? Những lý luận m phải dựa v o những đức tính v truyền thống "đặc biệt" có tính cách khẩu hiệu của người Việt Nam như "thông minh, hiếu học" rất thiếu thuyết phục. Tôi e rằng đó l một cách nhìn đầy chủ quan, duy ý chí. Thay vì tìm những biện pháp thực tế (nhưng khó khăn, tốn kém v lâu d i) như đầu tư xứng đáng, triệt hạ tham nhũng, ngăn lạm phát bằng cấp, đầu tư v o kiểm tra chất lượng, gột bỏ những hiện trạng tiêu cực v sự kém hiệu năng trong hệ thống giáo dục, ta lại đi tìm những biện pháp "đi tắt, nhảy vọt" rẻ tiền, cố lợi dụng những "ưu điểm" như thông minh v hiếu học m chưa ai chứng minh hay đo luờng được, tuy vẫn được ca tụng l đặc tính ng n xưa của dân tộc. Có thật dân ta hiếu học không? Tôi nghĩ dân ta hiếu bằng cấp thì đúng hơn. Sống với người phương Tây mấy chục năm nay, phải nói l tôi không hệ thấy người Việt Nam hơn họ chút n o về phương diện học hỏi để thực sự hiểu biết v để l m cái gì nên chuyện, có thể kém xa họ l đằng khác. Một ví dụ cụ thể l : ở Australia, người ta tuyển sinh viên v o đại học theo điểm tú t i : theo đó, các môn học ít thông dụng hơn như văn chương thì 50 hay 60/100 cũng đủ, học kỹ sư thì cần chừng 75/100. Điều m tôi v nhiều người khác nhận thấy l học sinh Việt Nam (một phần vì áp lực gia đình) luôn luôn nhảy v o những ng nh m điểm tú t i cho phép họ học - 75 l học kỹ thuật, 98 l học luật, 99 l y học, trong khi đó người Australia da trắng thì chỉ cần học cái họ ham thích, thậm chí gần đây có một em 99 điểm có thể học y hay luật thì lại đi học nghề y tá vì mê nghề y tá !

3. L m sao để phát triển khoa học tư duy trong giáo dục

GS Nguyễn Cảnh To n đề nghị ta đặt trọng tâm giáo dục v o khoa học tư duy. Đây l một th nh ngữ khá xa lạ với tôi, nhưng theo tôi hiểu thì GS dùng chữ n y để diễn tả sự cần thiết phát triển tinh thần suy nghĩ khoa học, thực tế thay vì chỉ chú tâm v o việc nhồi nhét kiến thức. Điều n y rất đáng hoan nghênh v cũng kiên quan tới những cái tôi đang b n dưới tiêu đề "vai trò người thầy trong giáo dục từ xa" ở trên. Ta cần cảnh giác rằng cái "tư duy khoa học" l một cái rất khó truyền đạt qua khoảng cách, m phải có sự tiếp xúc trực diện v lâu d i, vì cần có cả một sự thay đổi về lề lối suy nghĩ. Do đó không phải chỉ lập một v i phân khoa Khoa học Tư duy m đủ, vấn đề l đem những khái niệm v phươn pháp giáo dục mới v o chương trình sư phạm từ nhỏ đến lớn.

4.Về vị trí của phương thức giáo dục từ xa trong cơ cấu của nền giáo dục quốc dân

GS Nguyễn Cảnh To n cho rằng trong chiến lược giáo dục mấy thập kỷ tới, giáo dục từ xa phải được coi trọng đặc biết như các nước phát triển đã coi trọng. Thực ra, ở các nước phương Tây các nh giáo dục có quan tâm nhưng không coi trọng đầu tư lớn v o hình thức giáo dục từ xa. Một số đại học Australia, Mỹ có các chương trình đ o tạo từ xa, nhưng đó chỉ l một hoạt động phụ. Những đại học có tiếng tăm không coi l chủ yếu, m chỉ l biện pháp "xã hội" giúp đỡ người ở xa thiếu khả năng t i chính, hay một hoạt thương mại để tăng ngân quỹ cho nh trường. Phần lớn những đại học lớn của Australia không có đ o tạo từ xa, trong khi Australia đáng lẽ có khả năng v nhu cầu l m việc n y nhất, vì đất rộng dân thưa, m hệ thống truyền thông v đặc biệt l Internet phát triển v o hạng nhất thế giới. (trong 8 trường lớn của Australia thì chỉ có Monash University l có đ o tạo từ xa). Một trong những vấn đề kinh tế ng y nay ở nước ta có lẽ l l m gì v bằng cách n o để huy động được nguồn nội lực của tuổi trẻ (chiếm khoảng 50% dân số nước ta). Giáo dục, m đặc biệt l giáo dục đại học v dạy nghề, có một vai trò rất quan trọng trong việc n y. Giáo dục từ xa có thể coi l biện pháp tăng cường hệ thống đ o tạo tại chức, góp phần nâng cao dân trí. Tuy nhiên, vì tình trạng thiếu thốn về cơ sở vật chất v giảng viên hiện nay, không nên coi giáo dục từ xa l phương thức giáo dục chủ yếu, vạn năng, m chỉ nên coi l hình thức giáo dục bổ sung.

5.Không cần thêm học vị m cần nghiêm túc kiểm tra chất lượng

Một vấn đề nữa liên quan đến chiến lược chung, nhưng có ảnh hưởng gián tiếp tới việc triển khai giáo dục từ xa, khiến cho phương pháp n y có thể bị xem thường l vấn đề học vị. Tôi v nhiều đồng nghiệp khác không thể đồng ý cới GS Nguyễn Cảnh To n về đề nghị duy trì hệ thống hai học vị tiến sĩ ở trong nước. Đ nh rằng mỗi nước có ho n cảnh điều kiện riêng, nhưng sự phân biệt hai học vị tiến sĩ nó không thể nâng cao hơn trình độ v chất lượng giáo dục khao học ở trong nước được. Việc Pháp khôi phục lại hệ thống học vị "Docteur habile" không phải để bảo đảm chất lượng hướng dẫn nghiên cứu khoa học m chỉ l một hình thức phân chia cấp đẳng trong việc cấp lương bổng. Ở nước ta, có thể nói nạn lạm phát bằng cấp v phá giá bằng cấp l một căn bệnh đã ngấm v o xương tuỷ, đã l m mất uy tín nền khoa học Việt Nam khá nhiều. Thực vậy, sự lạm phát bằng cấp đã dẫn đến tình trạng có một số nh khoa học hữu dạnh vô thực. Đã hữu dang vô thực thì c ng nhiều học vị, c ng rườm r vô ích. Không phải căn cứ v o "một học vị" hay "hai học vị" m giải quyết được vấn đề. Tại sao Mỹ chỉ có một học vị tiến sĩ (Ph.D) m khoa học vẫn tiến triển nhất thế giới, vẫn có số người được giải Nobel nhiều nhất thế giới. Thực ra, vấn đề then chốt l cách tuyển người có thực t i v cách dùng người cho hợp lý. Khi tuyển người, các đại học, công ty v cơ quan Mỹ không căn cứ v o học vị, m căn cứ v o th nh tích sự nghiệp, số b i khoa học đã đăng trên các báo lớn, sự kính nể của đồng nghiệp d nh cho ứng cử viên. Những cái đó quan trọng hơn học vị biết bao. Ở nước ta, muốn đi tới cách dùng người như của Mỹ sẽ cần một quá trình d i v khó khăn, nhưng một biện pháp thực tế hơn trong lúc n y để nâng cao trình độ l phải có một cơ quan v chương trình kiểm tra chất lượng nghiêm túc, hữu hiệu, có uy tín v quyeèn lực thực sự, chứ không cần phải thêm học vị. Kinh nghiệm trong v i năm gần đây qua hệ thống đ o tạo tại chức cho thấy vấn đề chất lượng đ o tạo cần phải được quan tâm đúng mức trong bất cứ hình thức đ o tạo n o. Một nền giáo dục sẽ chẳng có ý nghĩa v hiệu năng gì nếu học sinh tốt nghiệp không có t i năng thực sự v khả năng l m việc. Thay đổi danh xưng v tên bằng cấp khó m , nếu không muốn nói l không bao giờ, nâng cao được chất lượng đ o tạo. Nâng cao chất lượng đ o tạo vẫn phải được coi như nhiệm vụ h ng đâu, thay vì coi trọng những danh xưng "áo mũ xênh xang". Có xác định dứt khoát v thông suốt điều hệ trọng n y thì việc triển khai mọi khía cạnh của giáo dục đại học mới không bị loay hoay trong những nỗ lực tranh chấp về ngôi thứ v đẳng cấp.

GS.TS Phạm Quang Tuấn.
Đại học New South Wales (Australia)

Gửi bởi: DonJuan vào hồi Nov 27 2002, 06:44 AM

Người VN bị hạn chế nhiều mặt, tư duy thụ động v tâm lý học chỉ để kiếm tiền nên rất khó có thể l m được việc gì to tát như dân da trắng :'(
Đệ không có hy vọng gì cả :'( :'(

Gửi bởi: koibeto81 vào hồi Dec 1 2002, 08:24 PM

Giáo dục từ xa, một phần quan trọng của nền giáo dục nhân dân


Trước hết, tôi xin cảm ơn GS Phạm Quang Tuấn đã quan tâm đến b i “Nên chú trọng hình thức đ o tạo từ xa” của tôi. GS có những biểu hiện đồng tình song song với những ý kiến phản biện. Sau đây, xin có một số ý kiến “bảo vệ” quan điểm của tôi. Mục 5 của GS không liên quan trực tiếp đến giáo dục từ xa (GDTX) nên xin để dịp khác sẽ b n cùng với một số vấn đề gián tiếp khác.

1.Vấn đề người thầy trong GDTX

Tôi ho n to n nhất trí với GS Tuấn về vai trò người thầy. Dạy l “ngoại lực” tác động v o người học sao cho khơi dậy được nội lực tự học, tự nghiên cứu của người học. Thầy c ng giỏi thì sức khơi dậy n y c ng lớn v việc học sẽ đạt hiệu quả cao nhất khi ngoại lực tạo được sự cộng hưởng của nội lực. Lý tưởng nhất l thầy gần trò thường xuyên v có những cách thích hợp để khơi dậy tính tự lực, tự chủ, suy nghĩ độc lập ở người học. Tuy nhiên, vận dụng v o thực tế giáo dục ở Việt Nam thì thật không đơn giản. Tôi đã quan tâm đến việc xây dựng phong cách giảng dạy, học tập mới từ năm 1960, ở hệ tập trung, chính quy. Khi tôi đương l Chủ nhiệm khoa Toán trường Đại học Sư Phạm (ĐHSP) H Nội. Có những kết quả đáng khích lệ nên việc l m của khoa Toán lan ra to n trường, rồi ra cả to n ng nh đại học. Mọi người hồi đó coi khoa Toán ĐHSP H Nội l quê hương của phong cách giảng dạy mới, học tập mới. Nhưng rồi tôi sớm nhận ra nhiều hạn chế vì lực cản vô hình rất nhiều. Các lức cản ẩn trong tập quan, thói quen cố hữu v cả trong cơ chế, chính sách. Một v i nh giáo, dù có năng lực v tâm huyết đến đâu, cũng khó lay chuyển được tình hình nếu chưa có một sự đồng tâm nhất trí cao trong đ o tạo mới, ho n to n không nhiễm bệnh "thầy thuyết giảng, trò nghe thụ động" trong đó tôi có quyền để ra cơ chế, chính sách mới, phòng được việc lây nhiễm bệnh trên. Thời cơ đã đến với tôi khi, sau 1975, ở miềnnam rất thiếu giáo viên phổ thông trung học (PTTH), phải điều từ miền bắc v o khiến cho ở miền bắc cũng thiếu giáo viên PTTH trầm trọng. Bộ giáo dục đã phải tăng chỉ tiêu tuyển sinh v o ĐHSP đến mức bão ho m vẫn không đáp ứng nổi nhu cầu. Khi đó, với trách nhiệm được phân công, tôi đề xuất ý kiến "đ o tạo giáo viên từ xa" v , trong ho n cảnh lúc đó, ý kiến của tôi được các cơ quan có thẩm quyền chấp nhận. Nhưng dư luận rất phân tán. Người ủng hộ cũng có m người phản đối cũng nhiều. Những người n y cho rằng, giáo viên l quan trọng chỉ có thể đ o tạo tập trung, chính quy. Tôi cho rằng tập trung, chính quy có nhiều thuận lợi khách quan, từ xa có nhiều khó khăn khách quan nhưng chất lượng còn phụ thuộc v o nhiều yếu tố chủ quan, nhất l ở người quản lý. Nếu để cho tư tưởng ỷ lại của người học phát triển thì tập trung, chính quy cũng có thể không có chất lượng. Một cuộc thử nghiệm bắt đầu năm 1977 v kéo d i đến 1988. Hai trường ĐHSP H Nội v Việt Bắc tham gia cùng sáu tỉnh (có đủ đô thị, nông thôn, miền núi). Không tổ chức tuyển sinh m tuyển những người thi v o đại học hỏng, nhưng đạt điểm "học được" (dưới điểm chuẩn v o đại học 2-3 điểm). Mỗi tỉnh sẽ tuyển theo nhu cầu của mình v chịu trách nhiệm tìm các trường PTTH tốt để phân số sinh viên của tình mình về đó, th nh từng nhóm mười lăm người,. Ở trường PTTH, số sinh viên n y buổi sáng tập l m các công việc của một giáo viên, chiều v tối tự học chương trình ĐHSP theo các t i liệu hướng dẫn của trường ĐHSP gửi về. Vì vậy hệ n y gọi l hệ "vừa học vừa l m giáo viên" (VHVLGV), đôi khi còn nói gọn l "vừa học vừa l m" (VHVL). Mỗi năm, họ được về tập trung ở ĐHSP một tháng v o những lúc sinh viên hệ tập trung đi dã ngoại. Thời gian tập trung n y l thời gian kiểm tra, củng cố v hướng dẫn học tập. Tôi sớm quyết định sinh viên hệ n y phải thi tốt nghiệp chung với hệ chính quy m không được một sự châm chước, chiếu cố gì hết, có điều l vì thời gian tập l m giáo viên khá d i nên thời gian học cũng kéo d i ra th nh 5 năm. Quyết định sớm nhue vậy để ngăn chặn tư tưởng ỷ lại vì người ta đã quen với nếp nghĩ :"học từ xa khó khăn hơn l học tập trung nên phải được chiếu cố, châm chước khi thi cử thì mới công bằng". Chính tư tưởng ỷ lại v o sự chiếu cố, châm chước, đã l m cho "chuyên tu", "tại chức" thất bại (dốt như chuyên tu, ngu như tại chức). Cũng có thi chung như thê thì mới lấy hệ tập trung, chính quy l m đối chứng được. Các kỳ thi tốt nghiệp đã được tổ chức chung cho hai hệ một cách rất nghiêm túc, tránh bất cứ điều gì có thể l m cho người ta nghi ngờ tính chất khách quan của kết quả. Sau bảy khóa thi tốt nghiệp chung như vậy, so sánh với đối chứng thì kết quả không thua kém, bên tám lạng, bên nửa cân. Kết quả còn đáng phấn khởi hơn nữa khi theo dõi số giáo viên tốt nghiệp ra trường. Những người tốt nghiệp khóa sau cùng v o năm 1988 đến nay đã công tác được 12 năm. Khoảng 2.000 giáo viên đã được đ o tạo theo hình thức n y. Cho đến nay, chưa nghe tiếng chê n o nhưng tiếng khen thì nhiều m biểu hiện rất cụ thể : một số trong họ đã l tiến sĩ, được đưa lên dạy cao đẳng, đại học. Số thạc sĩ nhiều hơn. Có những người đã tỏ lòng biết ơn hình thức đ o tạo n y, như hai bức thư dưới đâu đã in trong "Luận b n v kinh nghiệm về tự học" (Nguyễn Cảnh To n - Nh xuất bản giáo dục 1999).

Thư thứ nhất

Thanh Hóa ng y 4 tháng 1 năm 1993


Giáo sư thân mến!

Chắc l giáo sư rất ngạc nhiên khi cầm lá thư n y. Để tiện em xin tự giới thiệu : em l Nguyễn Kim tiến (nay đã l tiến sĩ, đang dạy ở Đại học Hồng Đức) học viên lớp Sinh học - Kỹ thuật nông nghiệp khoá I hệ vừa học vừa l m của Thanh Hóa.

Thưa giáo sư! Em vô cùng phấn khởi báo tin cho thầy l em đã trúng truyển kỳ thi tuyển sinh v o khóa 3 cao học của trường ĐHSP H Nội I. Có được kết quả đó l do được trang bị phương pháp tự học, tự nghiên cứu m phương thức đ o tạo VHVL đã mang lại cho em. Em rất tự h o về hệ đ o tạo của mình vì cái m người ta cần l phương pháp học tập, tính cần cù v ham hiểu biết. Đó cũng l tất cả những gì m hệ VHVL đã rèn luyện, đ o tạo nên chúng em ng y nay.

Thư thứ hai

H Nội ng y 2 tháng 10 năm 1993


Giáo sư Nguyễn Cảnh To n kính mến!

Em rất vui mừng v muốn thông báo cho giáo sư biết rằng sau khi bảo vệ xuất sắc luận văn cao học v o tháng 3-1993, em đã ôn thi đạt kết quả tốt trong kỳ thi tuyển nghiên cứu sinh Toán tại Đại học sư phạm H Nội I. Em vừa nhận được quyết định của Bộ v trường ĐHSP H Nội I bắt đầu l m nghiên cứu sinh từ tháng 9-1993 tại ĐHSP H Nội I trong thời gian 4 năm. Thưa giáo sự, em muốn b y tỏ sự biết ơn sâu sắc tới giáo sư đã giúp em, các bạn của em trong hệ VHVL học tập, nghiên cứu để dần chiếm lĩnh những đỉnh cap trong khoa học...

Học trò của giáo sư Trần Hữu Nam (nay đã l tiến sĩ, hiện đang công tác ở Viện nghiên cứu phát triển giáo dục)

Cho nên, tôi không nhất trí với GS Tuấn ở câu : "sự xa cách, lại trong ho n cảnh thiếu Internet, thiếu điện thoại, khiến cho sự đối thoại hai chiều rất khó v do đó việc học từ xa trở th nh vỏn vẹn thầy nói trò nghe, trò l m thầy chấm". Có cách đọc sách thụ động, có cách đọc sách tích cực. Thầy ẩn trong sách. Đọc sách tích cực chính l một sự đối thoại ngầm hai chiều : tự đ o sâu, mở rộng những điều m sách nói có khi còn tích cực hơn l hỏi thầy có mặt ở đó v thầy trả lời. Đằng n y, chính mình phải động não để tự tìm câu trả lời. Có người còn đọc sách tích cực đến mức l đọc đến một mức n o đó rồi tự mình phát triển tiếp để thử sức mình, sau đó mới đối chiếu với phần sách phát triển tiếp để tìm ra chỗ mạnh, chỗ yếu trong tư duy của mình. Sự thắng lợi của hình thức đ o tạo từ xa kể trên l một minh chứng. Giáo sư Tuân chỉ nhìn thấy có mặt tiêu cực trong sự "xa thầy". Trái lại, tôi đã thực tế thấy sự trưởng th nh về cách học của số sinh viên n y: năm đầu, họ bỡ ngỡ, lúng túng vì khi học phổ thông, chưa ai chuẩn bị cho họ cách tự học với sách. Một số rất ít đã rơi rụng. Đa số bám trụ được. Họ mò mẫm cách tự học tối ưu đối với mình. Sang năm thứ hai, họ đã tự tin hơn rồi vững chãi dần trong cách sử dụng sách giáo khoa v các t i liệu khác để tự học, tự kiểm tra. Đến khi tốt nghiệp thì họ đã vững chãi lắm rồi. Nhờ vậy m , tuy lúc đầu, họ l những học sinh thi hỏng v o đại học, nhưng khi thi tốt nghiệp, cũng có người đỗ đầu, có người l m luận văn xuất sắc. Ngay trong quá trình học đã có hiện tượng sau đây: mỗi lần sinh viên hệ n y về tập trung ở ĐHSP một tháng thì nhân viên thư viện đều nhất trí cho rằng sinh viên hệ n y ham đến thư viện l m việc độc lập với sách hơn l sinh viên hệ chính quy. Các thầy cũng nhất trí với nhau rằng sinh viên hệ n y ham tìm gặp thầy để đặt ra những câu hỏi đáng giá, không tầm thường. Hai hiện tượng đó chứng tỏ lúc học xa thư viện, xa thầy họ đã trăn trở, đọng não nhiều m vẫn chưa thoả man vã điều đó gây ra sự "đói sách", "đói thầy". Sinh viên hệ chính quy, do học trong điều kiện cách dạy chưa đổi mới, nên ở cạnh thư viện, cạnh thầy m ít "đói sách", "đói thầy". Sinh viên hệ n y do vậy m quý sách nên người n o, trong quá trình học, cũng lo xây dựng riêng cho mình một tủ sách để dùng riêng. Hiện tượng n y ít thấy ở sinh viên hệ chính quy.

Tôi đồng ý với GS Tuấn rằng nếu sinh viên h ng ng y gần thầy không phải để nghe thầy giảng một cách thụ động, m để thầy có những cách khơi dậy tính tự lực, tính chủ động, suy nghĩ độc lập, thì nhất rồi. Nhưng phải thấy, hiện nay ở các hệ tập trung, chính quy của các trường đại học trong nước chưa được như vậy, m giá có phấn đấu tính cực để sớm được như vậy, thì hệ tập trung, chính quy ở ta cũng không thể phát triển mạnh được vì những hạn chế trước hết l về đầu tư; dù cho nh nước v cả nhân dân cố gắng hơn nữa thì đầu tư cho giáo dục vẫn có cái giới hạn do khả năng của nền kinh tế của đất nước.

Đánh giá đúng năng lực v nguyện vọng của sinh viên Việt Nam

Ở phần n y, GS Tuấn có những ý kiến m tôi đồng ý như đầu tư xứng đáng, triệt hạ tham nhũng, ngưng lạm phát bằng cấp, kiểm tra chăt lượng, v.v...v bản thân cũng đương mong mỏi những điều đó. Nhưng cũng phải thấy rằng các biện pháp đó hoặc l có giới hạn của nó (ví dụ đầu tư không thể vượt qua khả năng m nền kinh tế cho phép) hoặc l không thể ng y một, ng y hai m l m được (tính triệt hạ tham nhũng). Đúng l khó khăn, tốn kém, lâu d i. Nhưng nhu cầu CNH, HĐH đất nước thì nó không đợi chúng ta. Vậy phải l m gì đây? Đến đây thì tôi hết nhất trí với GS Tuấn. Thế n o l duy ý chí? Khi Nguyễn Trãi nói: "lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều" l duy ý chí chăng? Không, đó l khoa học vì đó l phép biện chứng đã đưa đến kế sách Bình Ngô thắng lợi: trong cái mạnh của địch ông đã nhìn thấy cái yếu, trong cái yếu của ta ông đã nhìn thấy cái mạnh. Khi Hồ Chí Minh nói :"Khó vạn lần dân liệu cũng xong" l khẩu hiệu chẳng? Thì chính chúng ta đã thắng hai đế quốc to khi m về vũ khí v tiền bạc, ta còn thua họ rất xa nhờ ta đã tổ chức được một cuộc chiến tranh nhân dân m kẻ địch cũng phải thừa nhận l v o "bậc thầy". Chẳng nói đâu xa, trong chiến tranh ở Việt Nam, tất cả các trường đại học đều sơ tán về nông thôn. L m sao sơ tán nổi nếu thầy, trò không v o ở trong nh dân v dân lại lấy tiền thuê nh .v.v..Nói riêng việc thử đ o tạo giáo viên từ xa nói trên, thì thằng lợi ở đây cũng có nguồn gốc từ phép biện chứng :"thuận lợi của hệ chính quy có thể chuyển hoá th nh khó khăn nếu người quản lý để cho sự "gần thầy" biến th nh sự ỷ lại v o thầy; khó khăn của hệ từ xa l một thuận lợi khi coi "xa thầy" l một cơ chế hiệu nghiệm để chống lại sự ỷ lại v o thầy". Thắng lợi ở đây cũng có nguồn gốc từ "dân". Sinh viên phân tán về các trường PTTH thì trọ ở đâu? Trong nh dân chung quanh trường, học ở đâu?- Ở trong mái trường PTTH, nơi học của con em nhân dân. Chính nhờ vậy m đ o tạo được ngót 2000 giáo viên có chất lượng m Nh nước không phải xây thêm mét vuông n o cho trường ĐHSP. Việc l m thử thắng lợi trên một mẫu mực thực nghiệm không nhỏ (ngót 2000) phân bố trên đủ các loại địa b n (th nh thị, nông thôn, miền núi), có đủ các loại khoa học tự nhiên, xã hội có hai trường ĐHSP tham gia, một mạnh (H Nội), một yếu (Việt Bắc), kéo d i trong 11 năm. Từ thực tiễn đó, chúng tôi rút ra quy luật sao đây gọi l quy luật năng động thích nghi :

Đối với người tự học có hướng dẫn một chương trình n o đó thì hoặc l họ sớm tự đ o thải, hai l họ sẽ năng động thích nghi với cách học đó v thắng lợi. Điều kiện cần v đủ để thắng lợi l :

- Người học có đủ trình độ học chương trình (vì vậy m không tuyển sinh bừa bãi, chỉ tuyển những người, tuy thi hỏng đại học, nhưng đạt điểm "học được").
- Người học có động lực thúc đẩy học học tập (cho nên người học phải tự nguyện, không ai bắt ép. Một số học do gia đình bắt ép đã sớm bỏ cuộc).
- Có đủ điều kiện tối thiểu về giáo trình, t i liệu để tự học.
- Cơ chế chính sách phải khuyến khích việc tự học, tránh những chủ trương gây ỷ lại cho người học (ví dụ cho thi riêng cho châm chước, chiếu cố).

Gửi bởi: koibeto81 vào hồi Dec 1 2002, 08:25 PM

Trong quy luật nói trên, yếu tố "thầy" nằm trong hai chữ "t i liệu". Chúng tôi không ghi "phải có t i liệu hướng dẫn tự học" thật tốt vì trong điều kiện thực tế của việc l m thử nói trên, ngay các thầy giỏi cũng chưa có kinh nghiệm viết hướng dẫn tự học từ xa. Điều n y chứng tỏ rằng nội lực tự học, tự nghiên cứu l quyết định, ngoại lực hướng dẫn, tuy rất quan trọng, chỉ giữ vai trò "xúc tác". Thầy giỏi, có khoa học sư phạm từ xa thì sức xúc tác sẽ lớn.

GS Tuấn cho rằng dân ta hiếu bằng cấp chứ không phải hiếu học. Như vậy l lẫn lộn giữa bản chất v hiện tượng. Tôi thừa nhận l hiện tượng lạm phát bằng cấp, bằng rởm nhiều. Nhưng đó chỉ l hiện tượng nhất thời, do quản lý lỏng lẻo. Còn như trong việc đ o tạo từ xa ngót 2000 giáo viên nói trên thì quản lý thi cử rất chặt, "sản phẩm" ra trường được đánh giá tốt thì l m sao có thể quy tội sinh viên l hiếu bằng cấp vì cái bằng ở đây ít hấp dẫn : phải học d i thêm 1 năm, về nông thôn l chính l để tự học, lại phải thực tập nghề nghiệp nhiều m đến khi có bằng lại mang tiếng l bằng phi chính quy. Nhưng tuyệt đại đa số đã học đến nơi đến chốn, thắng lợi, l m sao có thể nói l hiếu bằng cấp. Bằng cấp chính đáng l chuyện bình thường ở mọi nơi, ở mọi thời đại. Phấn đấu học để thi đỗ, có một cái bằng xứng đáng với t i năng cũng l một động lực đáng kể thúc đẩy người ta học. Nhiều người ng y n y, đã có một bằng đại học rồi, còn học thêm một v i bằng đại học khác l để có năng lực l m việc chứ không phải vì bằng cấp bởi, nếu thế, họ phải chạy theo bằng cao hơn. Ng y xưa, nhiều người nghèo cũng cố để cho con đi học để, như họ nói, "ăm m y một ít chữ Thánh", nghĩa l để biết chút ít đạo lý l m người chứ họ cũng biết thân phận, không dám mong con sẽ l ông nghè, ông cống, trừ trường hợp rất cá biệt con có biểu hiện thần đồng.

GS Tuấn nói rằng sống với người phương Tây mấy chục năm nay, GS không hề thấy người Việt Nam hơn họ chút n o về phương diện học hỏi để thực sự hiểu biết v để l m cái gì nên chuyện. Có lẽ đó l thực tế sống của GS. Nhưng những người Việt Nam m giáo sư tiếp xúc rồi so sánh với người Tây, liệu có đại diện cho dân tộc Việt Nam được không? Riêng tôi, tiếp xúc với nhiều người Việt Nam, tôi thấy nhiều người Việt Nam l m được những việc như người phương Tây trong những điều kiện khó khăn, thiếu thốn hơn nhiều. Các học sinh ta, đi thi quốc tế, đạt kết quả như thế n o v các em được học h nh trong những điều kiện như thế n o so với các bạn mình ở phương Tây l một ví dụ. Chúng ta đã bắn rơi B52 chỉ bằng Sam 2, đến nay người phương Tây vẫn chưa hiểu l m sao ta bắn được. Nói như vậy l để thấy rằng dân tộc Việt Nam quả có thông minh, quả có hiếu học. Nhưng tôi cũng thấy người Việt Nam có những nhược điểm, ví dụ thiếu tác phong công nghiệp. Điều đó cũng dễ hiểu vì nước ta bây giờ mới bắt đầu sự nghiệp công nghiệp hóa. Giáo dục phải l m sao thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa bằng cách giáo dục được tác phong công nghiệp cho học sinh, sinh viên. Chúng tôi đã l m thử việc sử dụng học sinh phổ thông l m cộng tác viên cho các đề t i khoa học của các trường đại học với những đề t i thích hợp về điều tra cơ bản v triển khai các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông, lâm, nghiệp. Tôi thấy đó l một điều khả thi v rất có tác dụng rèn luyện tư duy khoa học v tác phong công nghiệp. Qua đây cũng thấy các em học sinh ta l hiếu học (các em tham gia say sưa lắm) m không hiếu bằng (vì việc tham gia l m cộng tác viên không giúp gì cho thi cử). Hiện tượng "luyện thi" hiện nay đúng l bệnh hoạn, nhưng nó không phải l mặt bản chất, có thể sửa được v nhất định phải sửa.

GS Tuấn cho rằng tôi đưa ra những biện pháp "đi tắt, nhảy vọt" rẻ tiền, cố lợi dụng những ưu điểm như thông minh v hiếu học m chưa ai chứng minh hay đo lường được...Rẻ tiền thì có rẻ tiền thật, chẳng hạn, chúng tôi đã đ o tạo ngót 2000 giáo viên m nh nước không phải xây thêm mét vuông n o cho trườn DH Sư Phạm, mỗi sinh viên lại ở gần nh m học, không phải ra H Nội học h nh tốn kém như hiện nay. M của rẻ ở đây không phải l của ôi như trên đã nói. Ta mở cửa, cạnh tranh với các nước l chấp nhận một cuộc chiến đấu không cân sức nếu xét về điểm xuất phát v vốn đầu tư. Ta đã đi sau, lạc hậu m vốn đầu tư lại quá ít. Nhiều cái ta phải học họ nhưng nếu chỉ có thế thì suốt đời ta lẽo đẽo theo sau họ, họ c ng ng y c ng bỏ xa tụt hậu lại phía sau. Vậy ta phải tìm cho ra cái gì ta hơn họ. Trong chiến tranh, ta đã tìm ra v nhờ vậy m ta đã thắng hai đế quốc to dù rằng về mặt tiền bạc v vũ khí ta thua xa họ. Nay, l m giáo dục cũng phải vậy thôi. Liệu chúng ta có khả năng l m giáo dục từ xa hơn các nước phát triển hay không? - Nếu, v o năm 1944, khi mơi lập ra đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân 32 người, ai m nói ta sẽ l m quân sự giỏi hơn Pháp v Mỹ thì nhiều người không tin. Nhưng đến năm 1975 thì cả thế giới coi Việt Nam l bậc thầy về chiến tranh nhân dân. Bây giờ cũng vậy thôi, nói ta sẽ l m giáo dục từ xa hơn các nước phát triển thì đó không phải l chuyện hoang đường. Nếu ta chỉ biết bắt chước họ thì đúng l hoang đường. Ta sẽ cố thu hút lấy cái tinh hoa của họ, ví dụ dùng Internet, đồng thời ta khuếch trương thế mạnh của ta. Tôi muốn nói đến Sư Phạm từ xa v Sư Phạm gia đình l những thứ không đòi hỏi gì lắm về tiền của m đòi hỏi cái tâm, cái trí, cái truyền thống. Ví dụ, theo điều tra của Bộ Lao động - Thương binh v Xã hội, thì ở Việt Nam 95% người gi sống chung với con cái, 97% người gi được con cái chăm sóc. Đó l điều khác biệt với các gia đình ở phương Tây. Vì vậy hội khuyến học dự kiến sẽ có mảng đề t i nghiên cứu về ông, b , cha, mẹ giúp con, cháu trong gia đình học tập, bổ sung thêm v o những điều m dù có Internet cũng không l m được. Nói dự kiến sẽ có nhưng thực ra đã có ở quy mô còn rất nhỏ, mang lại hiệu quả dáng khích lệ. Rất tiếc l GS Tuấn không có điều kiện dự cuộc gặp mặt giữa những đơn vị l m khuyến học giỏi, trong đó có cả chùa chiền, thánh thất, để hình dung sức mạnh của phong tr o. Rồi đây sẽ phải l m cho phong tr o quyện với khoa học, khoa học sư phạm từ xa, khoa học sư phạm gia đình v khoa học về tin học, viến thông. Giáo dục nước ta sẽ gồm có một bộ phận tập trung, chính quy, ít (ta không thể l m nhiều vì kinh tế không cho phép) m tinh, không kém gì quốc tế, để l m xương sống v một bộ phận dân dã, rẻ tiền nhưng có chất lượng, chủ yếu l giáo dục từ xa.

3.L m sao để phát triển khoa học tư duy trong giáo dục?

Về cơ bản, GS Tuấn đã hiểu đúng ý tôi. Tôi muốn nói thêm rằng : thế giới tự nhiên, xã hội lo i người v tư duy con người l những đối tượng của khoa học. Ai cũng tư duy nhưng ít người biết tư duy một cách khoa học. Cách đây nửa thế kỷ, người ta hay nói đến hai loại tư duy: tư duy hình học v tư duy tế nhị. Bây giờ sự phân biệt đi v o chiều sâu hơn: ngo i hai loại tư duy trên(bây giờ gọi l tư duy lôgic v tư duy hình tượng) còn có tư duy biện chứng, tư duy quản lý, tư duy kinh tế, tư duy thuật toán. Thật khó m nói một con người hiện đại cần đến những tư duy gì, hầu như tất cả, tuy liều lượng có khác nhau tuỳ theo đặc điểm ng nh, nghề, ví dụ toán học v nói rộng ra l các khoa học chính xác cần nhiều đến tư duy logic nhưng cũng cần đến tư duy hình tượng vì muốn sáng tạo trong các lĩnh vực n y cần có cảm xúc trước cái đẹp, cái gọn ghẽ, cái tiết kiệm, cần có trí tưởng tượng dồi d o, c ng cần đến tư duy biện chứng để phát hiện ra vând đền v tìm được hướng giải quyết vấn đề; các nh văn, nh thơ cần nhiều đến tư duy hình tượng nhưng cũng phải rất logic trong bố cục, trong ngôn ngữ, trong tính cách nhân vật v.v... Nói đến sáng tạo thì cốt lõi l tư duy biện chứng vì nó phủ định luật b i trung: nó thừa nhận rằng A vừa l A vừa không phải l A. Nếu A l A (luật b i trung) thì giỏi lắm cũng chỉ quanh quẩn trong A. Vừa không phải l A chính l lực nội sinh để chuyển từ A sang một cái mới, khác A. Cách suy nghĩ n y thật l lợi hại, trong việc nhỏ cũng như trong việc lơn. Việc lớn thì khó có điều kiện đển nói ở đây, nhưng việc nhỏ thì có thể dẫn ra đây một ví dụ. Hình thoi l trường hợp riêng của hình bình h nh;Có cô giáo bảo : vì vậy, nó có tất cả các tính chất của hình bình h nh; nhưng nó còn có những tính chất m hình bình h nh không có, ví dụ "hai đường chéo vuông góc với nhau".Nếu dừng ở đó thì hết chuyện. Nhưng nếu dạy cho học sinh cách suy nghĩ: tính chất đó nói lên sự khác nhau giữa hình thoi v hình bình h nh (không phải hình thoi) nhưng nếu xét về mặt giống nhau giữa hình thoi v hình bình h nh (không phải hình thoi) nhưng nếu xét về mặt giống nhau giữa hình thoi v hình bình h nh thì phải nghĩ rằng : nói hình bình h nh không có tính chất đó chưa thật đúng m phải nghĩ rằng tính chất đó chỉ l trường hợp đặc biệt của nhiều tính chất tổng quát hơn trong hình bình h nh. Vậy có câu hỏi : những tính chất tổng quát hơn đó l những tính chất gì? Học sinh m tự đặt đuwọc câu hỏi như vậy thì quý quá. Đó l năng lực phát hiện vấn đề, mở đầu cho sự tìm tòi ra cái mới (ít ra l mới đối với học sinh). Vấn đề không phải l lập ra một v i phân khoa khoa học tư duy, m lông ngay v o việc dạy kiến thức, v dạy theo cách đó thì từ một kiến thức học sinh sẽ bằng năng lực phát hiện vấn đề m tự mình tìm ra nhiều kiến thức mới (đối với mình). Tôi đã viết hai quyển sách :"Phương pháp luận duy vật biện chứng với việc học, dạy v nghiên cứu toán học" 340 trang, dùng cho giáo viên, sinh viên v nghiên cứu sinh về toán học v triết học, v :"Tập cho học sinh giỏi toán l m quen dần với nghiên cứu toán học" 220 trang, dùng cho học sinh phổ thông yêu toán. Qua hai quyển sách n y thì thấy rõ cái cách truyền đạt tư duy biện chứng đến người học l thông qua những b i toán, vấn đề to n học rất cụ thể chứ không phải bằng lý luận khô khan.

4.Về vị trí của phương thức giáo dục từ xa trong cơ cấu của nền giáo dục to n dân

Mỗi nước có ho n cảnh riêng để chọn cái gì l ưu tiên. UNESCO đã cho rằng giáo dục tập trung chính quy l vương giả, nghĩa l tốn kém. Ta cũng cần có để dễ tiếp cận với hiện đại để l m chuẩn mực; nó phải l cái xương sống của nền giáo dục. Nhưng ta nghèo không sức đâu m chạy đua với các nước gi u có về số lượng các trường chính quy, tập trung, l m nhiều thì bôi bác. Nhưng ở thời đại ng y nay khi ta muốn "ai nấy cũng được học h nh"v phải "học suốt đời" thì phải dùng con đường dân dã, rẻ tiền, nhưng cũng bảo đảm chất lượng. Muốn thế, phải có con mắt nhìn cả hai mặt "thuận lợi" v "khó khăn" của hai hình thức đ o tạo tập trung v từ xa trong sự thống nhất biện chứng v có thể chuyển hóa lẫn nhau để tận dụng tối đa mặt thuận lợi, cảnh giác với việc thuận lợi có thể chuyển hóa thánh khó khăn, né tránh bớt khó khăn nếu như chưa chuyển hóa được th nh thuận lợi. Theo phương châm n y, chúng tôi đã chỉ đạo việc đ o tạo giáo viên từ xa thắng lợi.

Nước ta sắp sửa có 80 triệu dân. Trừ đi những người gi yếu, ốm đau, t n tật v trẻ em còn quá nhỏ (đối với họ, vấn đề học không đặt ra, trừ cá biệt), thì ta cũng phải lo học cho 60 triệu. Hiện nay các trường lớp tập trung, chính quy mới thu nạp được khoảng 20 triệu (m nhiều nơi còn khó khăn lắm), vậy 40 triệu cần học, vừa l m vừa học, m không đến trường. Chỉ có giáo dục từ xa mới đáp ứng được nhu cầu đó vì nó rẻ tiền, dễ linh hoạ, nơi xa xôi hẻo lánh cũng học được. Hiện nay, ta mới đặt vấn đề phổ cập THCS l muộn so với xu thể chung của thế giới. Một nước như Ma-rốc đã đặt vấn đề phổ cập THCS từ lâu. Nếu muốn sớm phổ cập PTTH thì ít nhất cũng phải 50% theo con đường vừa l m vừa học (dĩ nhiên l học từ xa theo từng cụm chứng chỉ). Có GDTX, vấn đề giao viên cho các nơi xa xôi hẻo lánh cũng dễ giải quyết. Vấn đề học của những người phải lưu động cũng thế v.v v v.v...

Cho nên, ho n cảnh của nước ta không cho phép coi giáo dục từ xa l phụ được. Nó l một vế của nền giáo dục nhân dân m vế kia l hệ thống giáo dục tập trung, chính quy, hai bên hỗ trợ nhau, xâm nhập lẫn nhau ở chỗ mỗi người, tuỳ theo ho n cảnh có thê khi thì học hệ n y, khi thì học hệ kia v tổ chức phải l m sao cho hai hệ liên thông với nhau; trong trường hợp có cấp bằng thì Nh nước tôt chức những kì thi quốc gia thật nghiêm chỉnh, không để lọt lưới những của rởm, nhưng ai học hệ gì cũng được thi. Một nền giáo dục Nhân Dân không thể coi giáo dục từ xa l phụ cũng như một quân đội Nhân Dân không thể coi bộ đội địa phương v dân quân du kích l phụ. Một nền giáo dục m có giáo dục từ xa sẽ như con sông đã thủy lợi hóa : khi hệ tập trung quá tải thì tr n v o hệ từ xa, khi bộ phận n o đó của hệ tập trung không có đủ chỉ tiêu đ o tạo thì công việc bồi dưỡng v đ o tạo từ xa vẫn có thể duy trì bộ máy đ o tạo, không để cho nó rã rời.

GS Tuấn cho rằng GDTX có thể được coi l biện pháp tăng cường hệ thống đ o tạo tại chức, góp phần nâng cao dân trí. Từ thực tế của việc l m thử đ o tạo giáo viên từ xa, tôi thấy rộng hơn : nó có thể đ o tạo các nh bác học vì trong thực tế cuộc sống đã có những nh bác học không học tập trung, cũng không học từ xa, chỉ một mình với sách. Điều quan trọng l ở nội lực tự học, tự nghiên cứu của mỗi người.

Giáo sư Nguyễn Cảnh To n.

Gửi bởi: koibeto81 vào hồi Dec 14 2002, 04:39 PM

Đ o tạo từ xa không thể l giải pháp lâu d i


Xin trân trọng cảm ơn GS Nguyễn Cảnh To n đã có nhã ý đọc v trả lời b i viết của tôi. Trên quan điểm đối thoại xây dựng những người quan tâm đến giáo dục, tôi xin đóng góp thêm một v i ý kiến.

Thực ra GS Nguyễn Cảnh To n v tôi đều đồng ý rằng giáo dục từ xa (GDTX) l một bộ phận cần có của nền giáo dục quốc gia, v có lẽ chỉ khác ý về quy mô, m căn nguyên l do đánh giá khác nhau về vai trò của GDTX. GS Nguyễn Cảnh To n cho GDTX một vai trò rất lớn có chức năng đối trọng v bổ khuyết cho giáo dục chính quy. Ông cho rằng giáo dục chính quy (trong tình trạng hiện nay) dẫn đến ỷ lại, không thể sửa chữa được, phải dùng GDTX để chữa bệnh ỷ lại (nhưng sau đó GS lại nói rằng giáo dục chính quy phải được coi l xương sống để tiếp cận với hiện đại, điều n y có phần phản bác điều kia). Dưới đây, chúng tôi xin phân tích một số quan điểm của GS m chúng tôi chưa nhất trí.

GS Nguyễn Cảnh To n lấy kinh nghiệm v th nh quả thời chiến tranh đánh Pháp, Mỹ để chứng tỏ rằng ta có thể l m được những cái phi thường bằng những phương tiện khác người v , trong lập luận thấy rõ giáo sư đã đem mô hình tổ chức quân đội ra l m mô hình tổ chức nền giáo dục quốc gia trong đó GDTX đóng vái trò như bộ đội địa phương v dân quân du kích. Tôi e rằng lý lẽ n y không có sức thuyết phục vì nó vừa phi lịch sử, vừa bất cập so với đặc thù công việc cũng như thực tế đời sống tâm lý xã hội v xu thế chính quy hóa trên mọi lĩnh vực của cuộc sống Việt Nam hôm nay.

Quả thật lịch sử Việt Nam đã nhiều lần chứng minh rằng người Việt có khả năng l m những việc vĩ đại l m cho thế giới sửng sốt : bắn rơi B52 bằng SAM 2, đuổi Pháp, Mỹ, chiến thắng Nam Hán, Tống, Minh, Nguyên Mông, đại phá 20 vạn quân Thanh. Những th nh tích đó chứng tỏ dân Việt Nam ta có một chí hy sinh, can đảm, sáng tạo rất lớn, có thể l m những việc phi thường nếu được động viên, tổ chức. Tuy nhiên cần đền ý l tất cả những chuyện xuất sắc ở tầm vóc v quy mô tương tự trong thời bình. Không thiếu ví dụ cho thấy nhiều cố gắng động viên sự hy sinh đó trong thời gian bình, gần đây, đã dẫn tới sự tê liệt cả một hệ thống kinh tế trong thời gian trước Đổi Mới. Lý do cũng không có gì khó hiểu : khi Tổ Quốc bị xâm lăng, lòng yêu nước của dân ta được phát huy cao độ v họ sẵn s ng hy sinh tất cả, t i sản, sinh mạng, tương lai cá nhân, để cứu nước. Dù có sai lầm thất bại, họ cũng sẵn s ng hy sinh tiếp cho đến chiến thắng cuối cùng. Họ sẵn s ng chia cơm sẻ áo với đồng b o trong gian khổ. Trong thời bình thì không thế, người dân trở lại với lối suy nghĩ thường ng y v động lực h nh động của họ cũng không có gì l phi thường, họ nghĩ đến cơm ăn áo mặc, tương lai con cái, cũng như tất cả mọi người bình thường khác trên thế giới. Mọi điều kiện tâm lý xã hội để l m nên chiến tranh nhân dân hiện nay đã không còn được như xưa, ngo i các chương trình từ thiện ra, không thể dựa quá nhiều v o sức dân để l m việc nước như trước nữa. Mặt khác, trong tình hình chúng ta đầu tư h ng nghì tỷ đồng cho những dự án lớn không quan trọng bằng giáo dục, thì việc bắt đại đa số dân nghèo, dân ở vùng sâu vùng xa phải chấp nhận bỏ tiền ra để được hưởng nền giáo dục hạng hai l thiếu công bằng.

Có những dân tộc hay lãnh thổ th nh tích chẳng có gì để hãnh diện trong những cuộc chiến trước đây, như Malaysia, Singapore, H n Quốc, Đ i Loan, m lúc ho bình họ vượt hơn ta gấp bội. Trái lại, Indonesia l một quốc gia đã gi nh độc lập bằng một cuộc chiến đầy hy sinh đẫm máu như ta, thì sang thời bình th nh tích phi thường trong cuộc chiến để l m vật thế chấp cho những dự án trong thời bình, có liên quan đến mở mang kinh tế, giáo dục v.v. m phải áp dụng những luận cứ khách quan v khoa học, tránh duy ý chí. Còn quan điểm cho rằng không được coi GDTX l phụ vì giáo dục của ta l giáo dục Nhân dân, tổ chức GDTX cũng tương tự như phát động cuộc chiến tranh du kích trước đây, tôi xin miễn b n vì tôi không thấy được sự tương đồng giữa chiến tranh du kích v GDTX.

Tôi nghĩ rằng GDTX có vai trò của nó trong những trường hợp nhất định v ở những phạm vi nhất định GDTX có thể dùng l m một biện pháp tạm thời trong những trường hợp cấp bách, bất khả kháng. Tôi xin hoan nghênh cố gắng rất đáng kể của GS Nguyễn Cảnh To n trong việc đ o tạo 2000 giáo viên bằng GDTX trong thời kì 1977-1988. Đây l một trường hợp tiêu biểu m GDTX cần được áp dụng, vì đó l trong một khung cảnh cực kỳ thiếu thôn, nhu cầu vô cùng cấp bách, không l m không được. Tuy nhiên th nh công tới mức n o về mặt chất lượng thì khó xác định chính xác. Những thư cám ơn của học sinh cũng như nhận xét chung chung về GDTX như so với đ o tạo chính quy thì "bên tám lạng, người nửa cân", "chưa nghe chê", "nhiều người khen" v.v.. không cho một hình ảnh chính xác về khả năng chuyên môn của những vị tốt nghiệp đại học hệ tại chức, chuyên tu, học tắt v.v.. có thể l trong nhóm đó không có những học sinh của GS Nguyễn Cảnh To n nhưng nó cũng cho thấy cái tiêu cực, cái hạn chế vủa GDTX nói chung).

Dẫu sao, trong tình thế lúc đó, GDTX l việc cần l m v GS Nguyễn Cảnh To n đã có đóng góp rất lớn. Nhưng để mở rộng th nh một quốc sách thì không phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước. Hơn nữa, có nhiều công tác l m rất th nh công trong giai đoạn thử nghiệm nhưng lại thất bại khi đem ra áp dụng đại quy mô. Khi thử nghiệm, công việc hầu như ho n to n nằm trong sự kiểm soát của một số nhỏ những người có nhiệt tình v khả năng (như GS Nguyễn Cảnh To n), nhưng lúc áp dụng ra to n quốc thì vì thiếu người, thiếu kiểm soát v kiểm tra chất lượng nên mục tiêu dễ bị lệch lạc đi v tiêu cực xảy ra. Điều n y đã xảy ra rất nhiều trong mọi lĩnh vực ở Việt Nam, thiết tưởng không cần nói nhiều. Ngay cả trong đ o tạo chính quy, nếu chỉ lập ra một đại học nhỏ với khoảng dưới 200 sinh viên mỗi năm (tính trung bình 2000 sinh viên trong 12 năm) thì GS Nguyễn Cảnh To n cũng như nhiều người khác ở Việt Nam ho n to n có khả năng l m cho nó th nh một đại học có tiểu chuẩn quốc tế không kém gì Australia, Nhật Bản. Vậy m tại sao nền giáo dục chính quy của ta đã (theo lời GS Nguyễn Cảnh To n) trở th nh dở đến nỗi gây sự ỷ lại trong sinh viên, khiến cho th nh quả không hơn gì những người thi trượt v o đại học m học h m thụ? Đó chẳng phải l tại quy mô quá lớn nên lượng đánh đổ chất hay sao. Chính GS Nguyễn Cảnh To n cũng đã nói vậy khi GS viết (về giáo dục chính quy ) l “l m nhiều thì bôi bác”. L m sao để GDTX cũng đừng “l m nhiều thì bôi bác”, khi kinh nghiệm thực tế cho thấy khả năng bôi bác trong phương thức đ o tạo chính quy, thậm chí th nh những nh bác học (theo lời GS Nguyễn Cảnh To n) thì có lẽ ta nên thi tuyển sinh viên v o GDTX trước v cho những người thi trượt đi học chính quy!

GS Nguyễn Cảnh To n có cho rằng giáo dục chính quy phải được coi l xương sống để tiếp cận với hiện đại. Nhưng bên cạnh đó, GS vẫn coi giáo dục chính quy l “vương giả” v tạo cho GDTX có một vị trí dường như tranh chấp trong cơ cấu nền giáo dục quốc dân. Điều đó vừa mâu thuẫn vừa lúng túng trong việc xác định một mục tiêu khả thi cho nền giáo dục nước nh .

Để lập mục tiêu khả thi cho giáo dục quốc gia v đi tới những biện pháp hợp lý, ta nên nhìn v o kinh nghiệm mở mang của các nước khác trong thời bình v đừng sợ rằng học theo họ thì không bao giờ hơn họ. Chỉ trong vòng sáu năm sau khi chiến tranh Triều Tiên chấm dứt, v vẫn còn nguy cơ bùng nổ trở lại, H n Quốc đã liên tục chi tiêu từ 15 tới 25% ngân sách quốc gia mỗi năm v o giáo dục. Chính phủ họ đã chi tiêu như vậy m không hề tiếc rẻ, họ không viện cớ rằng dân của họ vốn thông minh hiếu học v có truyền thống gắn bó gia đình để người lớn, người gi giúp đỡ động viên con trẻ, tuy rằng H n Quốc cũng chẳng kém gì Việt Nam về những phương diện n y v cũng có một truyền thống “hiếu học” hay “hiếu bằng cấp” (tuỳ theo quan điểm mỗi người) như Việt Nam. Họ tránh những biện pháp nhảy vọt, đi tắt, v lấy đ o tạo chính quy l m chủ yếu. Năm 1966, tức l 13 năm sau chiến tranh, họ đạt 100% phổ cập trung học cấp một v 80% phổ cập trung học cấp hai. Ng y nay, gần 50 năm sau chiến tranh, họ đã có một hệ thống giáo dục chính quy tuiyệt vời cho to n thể dân chúng. (Những số liệu n y lấy từ t i liệu có tên Reviews of National Policies for Education : Korea” do OECD phát h nh năm 1998).

Một nước đã phải lệ thuộc v o đế quốc như H n Quốc m còn l m được như vậy, chẳng nhẽ dân tộc ta đã thắng Mỹ m không l m được sao? Chiến tranh đã kết thúc 25 năm v kể về thời gian phát triển thì ta đi sau H n Quốc 22 năm, vậy thì có gì không thực tế đâu nếu ta cứ việc bình tĩnh v tuần tự theo đuổi những mục tiêu chính quy “vương giả” (chữ của GS Nguyễn Cảnh To n) trong giáo dục? Vấn đề l ngân sách giáo dục của ta vẫn quá thấo, 25 năm sau chiến tranh m chỉ có 11% tổng ngân sách quốc gia. Chính phủ mới loan báo l sẽ nâng dần lên 15%, đây l một bước đầu đáng kể v l một biện pháp thực sự nghiêm túc, không chắp vá.

Để kết luận xin nói ngắn gọn như sau : GDTX có thể được coi l một giải pháp tạm thời trong một số địa hạt thích hợp để giúp giải quyết nhu cầu cấp bách của xã hội trong một v i năm, nhưng không thể coi l một giải pháp lâu d i v tương đương về tầm cỡ với giáo dục chính quy. Trọng tâm của chính sách giáo dục quốc gia vẫn cần phải đặt v o sự cải tiến giáo dục chính quy về chất v mở mang về lượng, m trong đó phần chất cần quan quan tâm hơn lượng. Ta phải có một kế hoạch lâu d i v có những chỉ số rõ r ng chính xác, với những chỉ tiêu cụ thể : ngân sách quốc gia phải d nh bao nhiêu phần trăm v o giáo dục nói chung (cần tăng 15-20% của tổng ngân sách quốc gia để tương đương với các nước trong khu vực hiện thời cũng trong thời gian phát triển của họ), cần chi tiêu bao nhiêu phần trăm v o GDTX v trong thời gian mấy năm, áp dụng GDTX v o những địa hạt n o, có thể thay GDTX bằng chế độ n o trong giáo dục chính quy không (chẳng hạn chỉ dùng GDTX cho những người học thêm để lấy bằng đại học thứ hai, hoặc có chính sách t i trợ giáo dục cho những người ở vùng sâu vùng xa đi học chính quy). Không có trước những kế hoạch v chỉ tiêu cụ thể v rõ r ng, sẽ có nguy cơ nh hữu trách dùng GDTX để tránh né trách nhiệm, lấy Lượng thay cho Chất, lấy thống kê l m th nh quả, vì GDTX m l m ở quy mô lớn sẽ dễ bị lạm dụng để sản xuất những con số rất đẹp trên giấy tờ như ta thường thấy trong thời “l m láo báo cáo hay” (v nay vẫn còn hay thấy). Đó l chưa kể, mô hình GDTX dễ trở th nh mảnh đất cho nạn mua bán bằng cấp phát sinh v phát triển, như b o Người Lao Động gần đây đã cho biết rằng trong mười lớp của Viện Đại học mở H Nội thì tám lớp có trường hợp văn bằng bất hợp pháp. Trong khi đó, những nhu cầu v yếu kém thật sự như ngân quỹ, chất lượng, phương pháp v trình độ sư phạm trong giáo dục chính quy không được để ý đúng mức.

GS-TS Phạm Quang Tuấn.

Gửi bởi: root vào hồi Apr 6 2021, 10:16 AM

Chủ đề này có từ 20 năm trước, nay lại phải câu lên để mọi người nhìn lại.
Nếu không có covid thì việc giáo dục từ xa khó lòng mà được chú trọng như ngày nay!
Xã hội muốn tiến bộ, nhưng lại bị kéo lùi bởi những tư tưởng bảo thủ. Những người sợ hãi xã hội tiến bộ, bởi vì sợ mất vị trí của mình!

Powered by Invision Power Board (http://www.invisionboard.com)
© Invision Power Services (http://www.invisionpower.com)