Chào bác, trông cái mặt bác quen quen ( Đăng nhập | Đăng ký tạm trú )

7 Trang  1 2 3 > »  

· [ ] ·

 Truyện Ngắn - Nguyễn Văn Thọ

post Jan 18 2002, 10:14 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #1




Nhóm:
Số bài viết: 0
Tham gia từ: --
Thành viên thứ: 0

Nói bậy: (0%) -----


Đọc thơ trong ngày giỗ Phùng Quán
Tùy bút

Tôi thuộc lớp người mới lớn đã phải tham gia chiến tranh nên chẳng được đọc nhiều thơ văn lớp của đàn anh. Đọc Phùng Quán thì càng ít, dù rằng tên tuổi của ông đã ghi đậm trong tâm khảm tôi từ lúc còn thơ. ấy là năm 60,62 gì đó, tôi lục trong tủ sách của cha tôi tìm được cuốn Vượt Côn Đảo. Khi ấy cuốn sách của ông Phùng Quán viết đã cuốn hút tôi bởi cái bất khuất của những người tù. Tuổi thơ, không hiểu biết lắm về văn chương, tôi cứ đinh ninh Phùng Quán là người tù Côn Đảo. Hoặc ít ra thì đời ông cũng nếm náp tù đày. Thế rồi, chiến tranh. Trong chiến trường, chúng tôi càng không có điều kiện để đọc. Tôi có ngờ đâu rằng, có bài thơ anh em lính tráng Hà Nội đọc truyền khẩu cho nhau, ngâm đến thuộc nhàu, như bài Hôn, lại là thơ Phùng Quán. Hầu hết anh em trong đại đội chúng tôi cũng không hiểu gì về ông. Có lẽ họ giống tôi, chỉ biết đến Phùng Quán với tư cách một nhà văn qua cuốn Vượt Côn Đảo. Và thoáng đâu đó, nghe nói, ông ta trong nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm chống đảng. Chống đảng thì tệ hại quá rồi, nhất là trong hoàn cảnh bấy giờ và ở môi trường quân đội. Thời gian trôi đi, người ta không mấy ai công khai nhắc tới lớp người như Phùng Quán. Sách của những tác gi như ông thì tuyệt đối không có in. Vì thế, sau chiến tranh, mười năm sống giữa Hà Nội, tôi chỉ loáng thoáng đọc ông, không hệ thống và rất ít.
Năm 1997 tôi về thăm quê. Khi trở lại nước Đức tôi có mang theo cuốn Thơ Phùng Quán (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn-1995). Xuân 97 đến muộn. Tuyết rơi trắng trời. Một đêm, tôi nhớ tới cuốn thơ của ông, lần đọc. Đêm ấy, cuốn Thơ PQ như có ma lực cuốn hút tôi kỳ lạ. Tôi đọc thâu đêm. Đọc đi đọc lại và không khỏi nhiều lần âm thầm rơi lệ. Những bài thơ của ông như: Di chúc chiến sĩ, Đất, Chống tham ô lãng phí, Lời mẹ dặn, Say...trong đêm ấy, cho tôi có cảm giác như Phùng Quán lúc như đối diện với tôi, lúc như đâu đó, gần lắm, rõ ràng lắm, đang nói cho riêng tôi nghe, thì thào vào tai tôi. Ông hiện ra trong gió , tuyết trắng xoá cứ ào ào bay ngang cửa sổ.
Thì ra, Phùng Quán đã hành quân suốt với chúng tôi trong những năm chiến tranh mà tôi không biết. Thì ra, nhà thơ, nhà văn ấy, con người ta, suốt cả cuộc đời dâng hiến mà sợi dây oan nghiệt cứ buộc vào. Mấy ngày sau đó, tôi cứ luôn vơ vẩn nghĩ đến ông và trong một đêm không cầm lòng, tôi viết không một lần sửa chữa, một hơi, bài thơ: Đọc Thơ Phùng Quán.
Mùa xuân 98, tôi lại về thăm quê. Đến thăm gia đình M.L người bạn của tôi. Thật không ngờ, cả hai ông bà Cao Nhị, gia đình M.L lại là bạn rất thân của ông Phùng Quán. Hai ông bà liền rủ tôi đến ăn giỗ lần giỗ thứ ba của cố thi sỹ. Tôi nhận lời ngay. Tôi muốn đến thắp một nén hương cho người mà tôi thương vọng.
Tới ngày giỗ. Ông bà Cao Nhị đưa tôi đến cái ngõ nhỏ cạnh trường Chu Văn An. Bằng sự liên tưởng của mình từ những bài viết của Phùng Quán, tôi hăm hở rảo bước. Trước mặt tôi, Tây hồ hiện ra mênh mông sóng, lấp lánh..Mùa xuân, cỏ ven hồ xanh mướt. Một dãy nhà hàng san sát trông ra hồ. Nhao nhác người chào mời vào quán xá. Chúng tôi tới một ngôi nhà hai tầng, vật liệu chủ yếu bằng tranh, tre, gỗ, lá. Phùng Quán từng ở đây ư? Ngôi nhà ngóng sóng đây ư? Tôi chợt hỏi. Bây giờ phong cảnh chẳng còn thơ mộng như thơ ông nữa. Không khí chẳng còn đầy ngún không gian thơ. Tôi ngắm, nghe. ồn ào, xô bồ cạnh Tây hồ rộng phẳng. Cuộc sống đã đòi hỏi nhiều gia đình biến nơi đây thành tụ điểm kiếm sống.
Chúng tôi vào trong nhà. Đã có nhiều khách của gia đình có mặt. Bà Phùng Quán, người nhỏ bé, gầy gò, ra đón chúng tôi, rước tới bên một bàn nhỏ kê trước hương án của nhà thơ. Đến cùng với chúng tôi khi ấy, còn có vợ của cố thi sỹ Trần Dần, nhà soạn kịch kiêm họa sỹ Phan Tại đã ngồi sẵn, chòm râu bạc lơ phơ, phì phèo cái tẩu thuốc. Ông bà Cao Nhị ngồi chưa ấm chỗ đã giới thiệu tôi với bà Phùng Quán và mọi người, nói: “ Hôm nay chúng tôi có mang theo một người bạn của con tôi bên Đức. Cháu rất mến mộ anh Phùng Quán và cháu có viết một bài thơ về anh nhà ta đấy“. Tôi không biết tới thái độ của mọi người nữa. Đôi mắt tôi dán chặt vào hương án của cố thi sỹ. Tấm nhà nhà thơ, chòm râu cước bạc, ung dung ngồi viết, lờ mờ trong hương trầm nghi ngút. Rất nhiều thơ từ, điện của thân bằng cố hữu từ nhiều miền đất nước và thế giới gửi tới nhân ngày giỗ của ông, được bà Phùng Quán bày trân trọng trên hương án. Tôi nghĩ: Trên đời, cái gì cũng thật có duyên mới nên. Khi ông Quán còn sống, mình cũng sờ sờ ở đây, đôi lần đến quanh đây mà chẳng khi nào được hội kiến. Ngay cả thơ ông cũng không được đọc hết. Đến giờ, phiêu bạt xứ người, lại gặp gỡ ông tận ở Đức. Khóc ông ở bên đấy. Xa lắm, nhưng vẫn còn là gặp, là may.
Tôi ngỏ lời với bà Quán muốn thắp hương cho cố thi sỹ. Thấy vậy, bà Cao Nhị nhắc ngay: “ Cháu nó có thơ viết cho ông Quán!“ Tôi trộm nghĩ, thơ tôi viết, hay hay dở, cái đó là thuộc quyền của bạn đọc. Nhưng một điều tôi biết chắc chắn là, tôi viết bài thơ ấy trong trạng thái không thể gì cưỡng được của tình tôi với cá nhân ông Phùng Quán. Trước bàn thờ đây, có khôn thiêng thế nào ông cũng về. Đây là dịp tôi muốn và có thể chia sẻ với ông. Không lưỡng lự, tôi lần kẹp bản thảo, tìm bài thơ đã viết. Tôi quay lại nói với bà Quán, bấy giờ đã đứng rất nghiêm cẩn cạnh tôi: “Thưa bà! Cháu có bài thơ này, gọi là như nén hương lòng gửi tới nhà thơ“. Nói xong, tôi thắp ba nén hương khấn anh hồn thi sỹ rồi chậm trãi đọc bài thơ của mình trước bàn thờ và tất cả mọi người.
Tôi là người thường hay xúc động. Đọc thơ của mình trước hương án ông hôm ấy, tôi không sao cầm được nước mắt thương cảm. Cuộc đời Phùng Quán trước tôi một thế hệ, nhưng các thế hệ bước vào chiến tranh vệ quốc đôi khi có nét trùng hợp. Ông, 16 tuổi cầm súng đánh pháp. Tôi, 16 tuổi cầm súng đánh Mỹ. Ông, đeo tiểu liên Sten báng xếp trực tiếp công đồn. Tôi, cũng 12 năm trời AK báng gập trực tiếp chiến đấu... Chỉ có điều, ông tài năng và lận đận. Chỉ có điều, tấm lòng rất trong sáng thẳng ngay của ông, cả đời lẫn thơ như quả Cà Hết Xanh Lại Tím, đều mang một nhân cách lớn, song điều ấy chẳng cho ông hạnh phúc. Ngược lại, ông một thời là: “Tai họa kết là lính quay giáo“ (Thơ Tào Mạt tặng Phùng Quán). Nhân cách thơ của ông, biết yêu và dám sống, cả dám chết, như ông viết: “ Trước mặt lán, sát bờ vực suối, tôi đào một cái huyệt dài hai mét, rộng một mét, sâu một mét rưỡi. Tôi nguyền, nếu không tìm thấy thơ, tôi sẽ lăn xuống đó, thế là xong một đời..“ (Trăng hoàng cung, Phùng Quán). Cuộc đời tôi và nhiều người khác không dấn thân được như ông. Cuộc sống có quá nhiều cám dỗ, cạm bẫy để nhiều khi quay giáo lại chính mình.
Đọc xong bài thơ, tôi châm lửa hoá lập tức. Tôi quay lại, không ngờ là tất cả khách khứa có mặt bấy giờ đều đứng dậy. Tôi lau nước mắt. Bà Phùng Quán cũng rưng rưng cám ơn tôi, ngỏ lời xin bài thơ làm kỷ niệm. Tôi đành hẹn, khi nào thơ đăng, sẽ mang tới biếu bà, còn hiện tại bản thảo duy nhất mang theo đã gửi cho ông Phùng Quán rồi.
Ngay sau đó, tôi được biết rằng, bạn bè của cố thi sỹ hôm đó, những ai còn sống đều tới đông đủ. Thấy ông Dương Tường, ông Lê Đạt và các bà quả phụ.
Bữa ăn hôm ấy, được ngồi chung với các bậc cha chú, đàn anh, bạn cũ của ông nên tôi được hóng thêm vài điều về Phùng Quán. Chính vì thế, có chuyện; khi khởi bút bài thơ Đọc thơ Phùng Quán, tôi đã viết: Mày là ai?/ Tử tế thẳng ngay / Ti tiện một lũ giòi / Văng vẳng tiếng ông quát, hỏi. Bữa ấy, ông Cao nhị nhẩn nha nói: “ Phùng Quán không nói chữ Mày đâu! Anh ấy tử tế, tình cảm, tốt với bè bạn lắm.“ Bà Cao Nhị đế theo: “Nhà bị hỏng mái, dột, chả ai dám leo lên chữa. Phùng Quán đến, thấy, phăm phăm leo lên mái dưới trời mưa gió, rọi lại chỗ dột..“ Tôi lắng nghe từng khúc, từng khúc, chậm rãi uống hết ly này đến ly khác. Tận say. Đêm về, suy nghĩ lại, tôi sửa: Anh là ai...Văng vẳng tiếng ông nói, hỏi.
Sau bữa ấy, tôi còn nán lại Hà Nội mấy ngày. Sau, một vài người bạn văn chương có đọc bài thơ của tôi và có người nói: “PQ làm gì đến độ thơ hay như mày tưởng!“ Lại có người bảo: “Ông Quán cuối đời, suốt ngày say sưa...!“ Có người rỉ tai tôi: “úi trời! Cũng ghê lắm! Sửa sai rồi, ông ấy còn cho ông X một trận ra trò.“
Tôi nghe vậy mà giận dữ im lặng. Tôi đâu có tưởng! Tôi vẫn giữ nguyên những tình cảm tốt đẹp của tôi đối với thi sỹ Phùng Quán cũng như giữ nguyên những dòng thơ từ trái tim tôi với nhà thơ đã mất. Thế! Cứ cho là có một người ngất ngưởng say ở hè phố Hà Nội hay cố đô Huế đi. ừ! Cứ cho là đã có lần có ai đó động chạm tới ông X đi. Nhưng điều ấy có hề chi? Có hề chi! Đấy là chỉ có Phùng Quán... Cũng như trăm ngàn vị anh hùng khác trên đời này, ở họ thiếu gì những cái bóng đời thường, thậm chí lại phi thường hơn, khi ta nhận ra một cái bóng chập chờn cuối đường ám ảnh bên ông, lởn vởn bên ông, bao dầy vò, đau đớn đến cùng cực. Còn nguyên hình ông? Những dòng thơ khi nào cũng chao chát, hôi hổi mỗi khi tôi đọc, kể cả những bài thơ, theo tôi còn nguyên hơi thở của những khẩu hiệu viết trên tường, nhưng lại viết bằng chính dòng máu sạch, tươi rói, yêu da diết tiết tháo, òa ra từ trái tim thơ ngây của ông. Không phải giả dối, không có thương vay khóc mướn, không phải dùng kỹ sảo ngôn từ để lừa mị...Trong tôi không có gì thay đổi cả! Ông là Người Lính, Nhà Thơ, Con Người mà tôi mến mộ. Nhân cách thi văn ấy sừng sững! Tôi lại nhìn thấy, trong đời sống tinh thần của tôi, thêm một con người tha thiết yêu, yêu cay đắng như li rượu từ lá Khổ Sâm: Tự mình cất li rượu uống.../ Đắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian (Lá Khổ Sâm, Th Phùng Quán) và người như ông, hẳn luôn suy nghĩ dằn vặt để sống thật trong sạch, thủy chung, thanh tao như những dòng thơ ông hạ. Công bằng như bạn ông, Tào Mạt, từng viết: “ Lòng trong sạch tự chiết xuất ra văn.“
Con người ta, dù có lúc kiệt sức, tưởng muốn ngã; song lại quyết tự tôi đứng thẳng, cũng như ông viết: “Có những phút ngã lòng“. Và ông đã trung thành với nàng Thơ đến phút cuối cùng, giây chót của cuộc sống. ở đây, cái cần thiết của một con người cho ra Người là: “Tôi vịn vào thơ mà đứng dậy“. Trên đời, đã mấy ai biết vịn vào cái gì mà đứng dậy? Mấy ai biết vịn vào cái cao đẹp thờ phụng mà đứng dậy! ấy nữa là, tôi nghĩ, ông chẳng bao giờ có lỗi với riêng ai. Và khi đã đứng lên như thế, thì người ấy đáng đời đời để cho ta yêu vọng lắm chứ?
Con Người Phùng Quán, hẳn khi ông mất kia, ông bay lên cao, lên cõi thăm thẳm xanh, làm vì sao hai tám!
tháng 7-98



User is offline
Go to the top of the page
+
Thích ăn kem
post Jan 19 2002, 05:03 AM    
Đường dẫn tới bài viết này #2

Advanced Member


Nhóm: Dân làng Ven
Số bài viết: 416
Tham gia từ: 19-January 02
Đến từ: Chân trời góc bể
Thành viên thứ: 10

Tiền mặt hiện có : 918$
Số tuần chưa đóng thuế : 0

Bình chọn :



Đọc cái này của bác Thọ thật cảm động. Tôi chẳng được đọc thơ của Phùng Quán, chỉ biết mỗi "Tuổi thơ dữ dội" qua 2 tập truyện có chữ ký của ông. Hồi đó còn nhỏ nhưng đọc nó vẫn cảm được một chút về tình yêu tổ quốc cũng như sự hy sinh mất mát trong chiến tranh mà ít người đề cập tới. Lớn lên một chút đọc lại càng thấm. Con người như Phùng Quán, theo như tôi hiểu qua truyện của ông, có thể cũng có một số phận "dữ dội" nhưng sẽ không bao giờ không yêu đất nước, yêu con người VN. "Nhân văn giai phẩm" đã đi vào quá khứ, tôi thì không biết và có lẽ ít người muốn nhắc tới nó. Không dám bàn đúng sai, nhưng dù thế nào tôi sẽ vẫn luôn kính trọng một người ít nhất đã viết lên "Tuổi thơ dữ dội" đó.


--------------------

Kem ngon quá, nhem nhem ;)



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Webmaster
post Feb 1 2002, 05:06 AM    
Đường dẫn tới bài viết này #3

Unregistered









Tôi yêu


Tôi yêu em
chưa một lần định trước
chẳng hẹn hò, chẳng ràng buộc. Xiềng gông!
Tôi yêu em.
Như ai thở ngày ngày
như cười khóc, thoát thai bụng mẹ

Tôi yêu em
không một lời thề thốt
Nhưng với em, tôi tất cả dám làm
Và tôi chỉ,
như chiếc bình dễ vỡ
qua lửa nhiều, màu đất ánh nguyên sơ

Tôi yêu em
Không một ai chứng dám
Giữa bầu trời kiêu hãnh miết mi bay
đêm từng đêm
Tình tôi hóa sao đầy
Tôi biến gió thầm mong em yên giấc

Tôi yêu em
nếu ngày mai tôi mất
Lẽ tự nhiên!
Vỡ nát.
Hết duyên rồi
Xin hãy để trăm mảnh hồn về đất
Nhớ em đành, nâng nhẹ gót chân thôi

2002



Go to the top of the page
+
Webmaster
post Feb 1 2002, 05:10 AM    
Đường dẫn tới bài viết này #4

Unregistered









Nguyễn Văn Thọ

Thử Nhìn Vào Ca Từ Mai Lâm


Năm ngoái, khi nhạc sỹ Trịnh Công Sơn mất, bên cạnh tình cảm tiếc thương một nhạc sỹ lớn, rất nhiều tác giả trong và ngoài nước bàn về giá trị tư tưởng và nghệ thuật trong ca khúc của TCS. Không ai phủ nhận được những đóng góp của TCS với nền âm nhạc Việt Nam thời kỳ vừa qua. Và, cũng nhiều ý kiến cho rằng, bên cạnh thành công về nhạc, Trịnh Công Sơn còn với tư cách một thi sỹ. Thực ra, việc tìm tiếng nói chung giữa lời với nhạc trong ca khúc để nhận diện một tác giả là một việc hữu duyên, nhưng đánh giá phần lời của TCS, theo dạng tách bạch, để nói phần nhạc TCS quá giản đơn là vô duyên; bởi vì đã là ca khúc thì lời và nhạc như xương với thịt, cái nọ nương nhờ cái kia, cho dù bản thân một ca khúc khi phổ thơ chẳng hạn, thì phần lời trước đó, đã đứng độc lập (với tư cách là nghệ thuật) ở một hình thái khác. Trong việc sáng tạo nghệ thuật - ca khúc, khi có hai bộ phận thì việc xem xét và nghiên cứu vai trò của từng cái một cũng là điều hết sức thú vị. Có những nhạc phẩm của TCS chẳng hạn, liệu rằng ông có định làm thơ khi đặt bút viết một ca khúc? Dẫu sau đó, người đời lại thấy ca từ của ông như thơ hoặc là thơ hiện đại. Tôi thiển nghĩ, ở những nhạc sỹ ấy, phẩm chất thi sỹ và nhạc sỹ khó phân định rạch ròi và chính điều ấy có thể là một trong yếu tố làm nên thành công ở họ. Rất tiếc rằng số nhạc sỹ ở ta, khi viết ca khúc mang phẩm chất, chất liệu thơ trong nhạc và nhạc trong thơ được như Văn Cao, Trịnh Công Sn....quá hiếm. Những tác giả gần đây viết ca khúc có tiếng vang cũng là một phần nhờ vào cái hay về phần lời của người khác và rồi những bài th được phổ, lại nhờ nhạc sỹ chắp thêm cánh bay xa hơn. Ví dụ như bài Khúc Quan Họ của thi sỹ Nguyễn Phan Hách được nhạc sỹ Nguyễn Trọng tạo phổ nhạc; Hà Nội Đêm Trở Gió , thơ Chu Lai được Trọng Đài phổ v..v... Trên thực tế những ca khúc có chất lượng cao như vậy được mọi tầng lớp nồng nhiệt yêu mến. Riêng tôi, thực cảm khoái mênh mang khi nhạc đã hay mà lời lại sâu sắc, ý nghĩa.
Có thể xuất phát từ xu hướng thẩm mỹ ấy, nhạc sỹ Mai Lâm, một người đang sống ở Đức viết mấy chục ca khúc trong bốn năm nay đã rất chú ý tới ca từ. Trừ một hai bài thơ của bè bạn, được anh yêu thích mà phổ, như ca khúc 81 của Bế Kiến Quốc, Vĩ Cầm - thơ Nguyễn văn Thọ, còn toàn bộ ca từ Mai Lâm từ CD Thiên Đường ( CD nhóm nhạc Anh Em) tới hai CD gần đây của Mai Lâm, Hà Nội Mùa Thu Sớm và Từ Xa Hà Nội phát hành trong nước đều do Mai Lâm dày công thực hiện.
Thử nhìn vào ca từ Mai Lâm xem nó có là một bộ phận nghệ thuật - ngôn ngữ, mang nhiều công sức, tâm huyết, lao động nghiêm túc chưa?
Trong băng CD đầu tay, ca khúc Đàn Vỡ, đứng độc lập là một bài thơ hoàn chỉnh. Thậm chí, có thể nói Đàn Vỡ có chữ nghĩa điệu đàng chẳng kém một nhà thơ chuyên nghiệp:
-Vỡ rồi cây đàn ghi ta/ ai làm nên nông nỗi/ dây đàn sợi co sợi ruỗi..
-Đàn ơi có đau lắm không/ khi tiếng cuối cùng vụt vỡ/ điệu nào còn ngân dang dở/ nhịp nào chưa reo bao giờ?
Tất nhiên không đòi hỏi ca từ ở mỗi bài hát phải khổ công từng câu từng từ như một bài thơ hoàn chỉnh. Bởi khi có sự liên quan tới nhạc, trong một tổng thể, ca từ dẫu phải mang một ý nghĩa thẩm mỹ nào đó vẫn cho phép nhạc sỹ có thể dùng từ mà ở thi ca bị liệt là sáo. Hoặc phải sử dụng nhiều từ nêm, từ đệm. Nhưng dẫu lệ thuộc như vậy, Mai Lâm vẫn cố gắng viết lời thể hiện đào sâu tìm tòi. Và, quan trọng là toàn bài bao giờ cũng mang một ý nghĩa nội dung nào đấy gửi gấm cho người nghe thấy rõ tấm lòng của anh với cuộc sống và tình yêu.
Người ta viết về em và trăng rất nhiều. Con trăng và người tình của Mai Lâm được mô phỏng không chỉ cái tâm trạng cá biệt của người xa xứ, mà còn tinh tế khái quát cái tình nam nữ vốn thơ mộng mà vẫn bám sát cuộc sống thực:
-Em vừa gần vừa xa như trăng
Ngay cách nói về Hà Nội, cũng thực khó khi đã đã có những nhạc phẩm thành công rực rỡ của người đi trước, mang dấu ấn sâu đậm vào người nghe như Người Hà Nội, Em ơi Hà Nội Phố, ...Mai lâm vẽ Hà Nội của anh, rất riêng và mộc mạc chân thành:
Hà Nội nơi nhọc nhằn, mẹ nuôi tôi bao năm tháng/ Bạn bè tôi chân thành/ Tình yêu tôi ban đầu.
Rõ ràng là tâm trạng nuối tiếc của một người yêu Hà Nội, lại do khó khăn nào đó, thấy Hà Nội xa xôi cách trở, nhưng vẫn khôn nguôi niềm nhớ thưng và có thể nói tâm tư ấy không chỉ riêng anh mà còn là tình yêu, kỷ niệm của vạn triệu kẻ tha hương.
Lắng nghe ca từ Mai Lâm, người ta đều có thể tha hồ chọn ra trong mỗi bài hát một số câu nào đó khá đẹp. Cái đẹp mà không phải bất kỳ nhạc sỹ chuyên nghiệp nào dễ dàng hạ bút viết nên. Những câu ấy, bản thân ngay trong ngôn ngữ đã có nhạc và giầu chất tưởng tượng. Trong ca khúc Hà Nội Mùa Thu Sớm, có câu: Nghe heo may nói thầm điều chi đó. Vội vàng lá chín đỏ trên cành. Do liên quan tới nhạc, người viết buộc phải thêm từ Nghe, Ta hãy cắt từ ấy đi thì lập tức có hai câu thơ rất động và tình:
Heo may nói thầm điều chi đó
Vội vàng lá chín đỏ trên cành.
Cũng như thế, trong bài Tìm Em Mùa Xuân, người ta cũng bắt gặp những câu thơ duyên ngọt :
Tưởng rằng xuân tới, áo trao nhau
Mà người năm ngoái có thấy đâu
Cũng đôi khi xuất phát từ thân phận của chính anh, Mai Lâm gửi theo suy nghĩ mang tính triết lý, nhưng không phải lối nói rẻ tiền mà thực sự mang tâm trạng của người viết có cân nhắc, suy tư sâu xa:
-Nhịp cầu Thê Húc trầm mặc
(Bên) Tháp Rùa
Để ngàn mây trắng về soi trong nước hồ
hay:
-Vỉa hè vắng/ lắng nghe chiều rơi
Hoặc:
-Chợt ngiêng lòng chén
Chiều phai hết chiều
-Nhìn vào lòng tôi
Cạn từ lâu rồi?
Những ai từng có thú chi đào phai hẳn biết loại đào phai cách kép. Nhưng có ai chú ý, khi lớp cánh ngoài vừa tàn úa phai màu, lớp khác lại hiện ra với cái độ mầu vừa chín. Cứ thế, theo thời gian, lớp này tàn, lớp khác xuất hiện tới khi rụng hết hoa thì cái noãn bên trong lại xanh nhú một trái đào bé xíu và cũng là lúc xuân rộ nồng nàn bên hiên nhà. ở Đức hoa đào tới muộn. Tháng ba tuyết còn rơi, nhưng khi đào chín rồi tàn thì nắng xuân rực rỡ tiễn mùa đông băng giá, đóng cửa biệt ly. Chu chuyển thời gian ấy theo như thuyết của nhà Phật, sinh và diệt, tan và hợp, trong cái nọ có nhân của cái kia được Mai lâm gửi vào chỉ hai câu ngắn :
Chiều nay nhìn cánh đào phai trong gió xuân
Lặng nghe sóng vỗ luân hồi.
Sóng ở đây là con sóng thời gian hay còn là con sóng lòng người trước thiên nhiên bỗng xôn xao?
Là người theo bước chân Mai Lâm trên xứ người, tôi biết ở nhiều bài hát, anh trăn trở từng câu. Có khi chỉ là một từ đo xuôi hay ngược để tăng thêm ý nghĩa, sức nặng cảm xúc cho người nghe, tạo nên sự phối ngẫu giữa lời và nhạc. Ví dụ như khi viết bài Chia Tay Hà Nội có câu “Mình chia tay để bạn một mình ngồi ..” Cụm từ “một mình ngồi”, nguyên văn khi trước là “ngồi một mình”. Để như cũ, khi đi với nhạc không thấy hết cái cô quạnh trống vắng của ly biệt, M. Lâm đổi lại nghe hiệu quả hẳn lên.
Nhạc sỹ Mai Lâm viết nhạc muộn. Tôi chưa dám nói rằng ca khúc của anh đạt tới một độ thẩm mỹ cao trong nhạc, nhưng về ca từ có thể khẳng định những cố gắng của anh mang lại những giá trị thẩm mỹ nhất định rất đáng khích lệ, nhất là khi do cơ chế thị trường hiện nay, sự tự do bội sinh nhiều ca khúc viết rất tùy tiện, dễ dãi. Nó không những không đóng góp cho sự phát triển của nền âm nhạc Việt nam, mà còn có tác dụng đẩy thêm thẩm mỹ vốn thấp kém của nhiều người xuống vị trí thấp hơn nữa trong sự thẩm âm. Nhìn vào một sạp bán băng, vô khối những bài hát như thế, với những câu phản mỹ học và những tên bài hát giật gân, câu khách đến mức độ nhố nhăng mà vẫn được giới trẻ ngước cặp mắt thơ ngây, lắng tai như bị thôi miên, mất hết hồn vía!
Viết về những dòng này tôi chợt nhớ tới một người mà trước đó ít người biết tới, nhưng nhờ ca từ, ông đã đạt tới quang vinh, cả thế giới biết đến qua việc viết lời cho ca khúc Tears in heaven - của anh hùng ghi ta* Eric Clapton và đặc biệt mười một Oscar cho phim Titanic, trong đó có đóng góp của ông với ca khúc mà phần lời bài My heart will go on đặt tên tuổi Will Jennings đứng cạnh tên các đạo diễn, nhạc sỹ, diễn viên cả thế giới hâm mộ.
Nước Đức, xuân 2002.
NVT

* danh hiệu thế giới âm nhạc phong cho nghệ sỹ, ca sỹ E.Clapton



Go to the top of the page
+
Hưng
post Oct 25 2002, 06:19 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #5

Unregistered









Nỗi Đau Chàng Kỵ Sỹ

Đã ngã ngựa,
Ngực chàng đẫm máu
Mũi tên thưong
Bắn trúng trái tim chàng
Thế là hết
Trước mặt chàng gió thổi
Mây vẫn trôi và mặt trời vu+à lên.

Đôi mắt ngước, mỉm cười ngạo nghễ
Lẽ thường tình, sống chết vẫn thuờng khinh
Chàng ngã xuống
Bàn tay vươn phía trước
Mắt trân trân khao khát bình minh

Ngã xuống rồi
Mặt trời vừa rạng rỡ
tia nắng đầu soi rõ bóng kình nhân
đường gươm ấy, đâu đường gươm mong đợi
mũi tên ngầm bắn lén rất gần

Trái tim, ôi trái tim kỵ sỹ
Nát tan rồi, một trận chiến thấp hèn
Máu đã đổ vụt biến thành nhũ thạch
Nhát cắt chạy dài vết nhục khôn khuây

Mặt đất lại bình yên
Hoa cỏ vẫn sắc dầy
Gió vẫn nhắc bài tình ca man dại
Chàng kỵ sỹ của tôi cơn mơ dài yêu quái
Vết bi thương chắc hẳn còn dài.

Xuân 2001



Go to the top of the page
+
Toanli
post Dec 19 2002, 08:36 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #6

Regular Member


Nhóm: Dân làng Ven
Số bài viết: 222
Tham gia từ: 4-December 02
Thành viên thứ: 606

Tiền mặt hiện có : 913$
Số tuần chưa đóng thuế : 4

Bình chọn :



Phải rồi, gã đấy
Bây giờ gã đang viết: Mười hai lăng kính.
Vàng Xưa vài bữa nữa in xong ở VNQD thì gã cho em gửi lên đây chị ạ.
Gã bảo, chờ một tẹo..Chị xem, Vàng Xưa cái tên ấy gợi không?
Cũng như em ngó vào cuốn vở điện tử của gã thấy đang viết Mươi Hai Lăng kính, hắn hỏi: Cậu có biết tên ai la Tử Diệp không?
-Không!.
Có biết loài hoa nào la Tử Diệp ko?
-Có! Em bảo.
Hắn cười hô hố: " Màu chi?"
- Vàng- Khốn nạn em vưa nhìn trộm vào một đoạn.
Làm Đ...gì có Tử Diệp. Tớ bịa ra loài hoa đấy.
Thế- Chị bảo hắn có xỏ lá ba que ko? Dám lừa cả em, hàng xóm hắn.... :laugh.gif
Đã thế em chả xin phép hắn nữa, em là thănghời bị được ở cái khoản chôm chỉa trong Conbuuter, Em bẻ khóa, nhẩy phóc vào, cướp hai phân nhỏ cho cả làng biết hắn đang viết dở dang cái gì đây.
Đây chị xem:

Mười Hai LănG kính
U1-Nàng.
Cô gái tên là Tử Diệp. Đấy là danh tính giao dịch trên cavísit, hoặc đại loại một cái nick trong những lá thư, diễn đàn cô cậu hay tán tỉnh, trao đổi với nhau qua mạng. Không, nó lại là tên thật, dẫu cái tên ấy điệu, gợi và bị cắt đi chữ Trần. Thoạt tiên. cô ấy chẳng có gì hấp dẫn cả. Trừ ra đôi môi. Môi dưới mọng , môi trên cong một chút.
Hãy thử nghĩ xem, một người đàn bà khuôn mặt hài hòa tới mấy mà ngồi như chết thì sẽ giống cái gì? Chúng ta quan sát tất cả mọi người xung quanh, ngắm họ, đều trong động thái của ngừoi ta đấy chứ. Này nhé, ngoáy mông, uỡn vú, trả vờ chơm chớp mắt...hay thậm chí cười xoe xóe, ta nghĩ đồ vô duyên, bọn dỏm. Vậy nên, biết nhau hai năm rồi mà thấy cũng như không, lạnh như kem. Bởi tất cả những lần gặp, toàn trong hội nghị, dù ngồi đối diện, cô ta- tuy bé tuổi- mà nghiêm như tượng. Cô gái gỗ! Lại còn tóc hơi ngả vàng nữa chứ. Những lọn tóc mà ta hay gặp trên những cánh đồng, trên đầu bọn trẻ suốt ngày nhẩy tung tăng bên con trâu rỡn nắng.
Trước tết hơn tháng, theo ý của xếp, cô ấy cần bài nói về cánh rừng của tôi cho tờ báo nơi cô ấy làm việc. Việc gấp. Anh giúp nhé! Lại trêu nhau, giọng trẻ trung. Dẫu bận lắm, tôi vẫn thu xếp cho cô ấy mãn nguyện. Tôi viết về cánh rừng quốc gia của chúng tôi, về môi sinh, về những con vọc bạc má vừa được phối giống...Cô ấy phấn khởi lắm vì xếp khen. Khen tôi tức là khen cô ấy, vì tờ báo vốn chết lên chết xuống, giờ có biên tập viên năng động, chịu giao dịch, nhặt bài. Công cô ấy chứ ai?
Chúng tôi bắt đầu là thi thong viết cho nhau. Những thư trên hộp thư, Fax, thư tay dầy lên. Hãy hiểu cho tôi. Chỗ tôi thực buồn. Ngoài tình yêu với công việc. Rừng , gió, mây và hoa, chả có ai trò chuyện dài dài. Cũng nhiều khi nói chuyện với con khỉ, tôi đặt tên cho nó là Kiều Tuấn. Một con khỉ cái nghịch, già, quyền thế nhưng ngu dốt nhất đàn. Chồ tôi, khỉ ho cò gáy. Mùa du lịch thì ồn ào đôi tí, rồi đâu vào đấy, mưa âm thầm rơi... Phòng nghiên cứu bảo tồn thường vắng teo. Lão phụ trách cung ứng sống cách một bức tường nhưng rất khó tính. Thoắt một cái vù ngay về thị trấn gần đó hú hí với vợ lén. Chị giúp việc tôi mau miệng. Hay cười. Nhưng chi thích nói chuyện về rau, về thịt, về ti vi và ngôi nhà sẽ xây! Còn chuyện của cô ấy thì miên man. Những lá thư thưa, dầy nhưng miên man...Chuyện từ khi học phổ thông. Cái miền duyên hi rất đẹp. Những chíec bánh tráng mà cô ta gọi là bánh Mị Nưong, những điều vặt vãnh về gia đình. Cả chuyện cô phải phấn đấu thế nào để trụ lại Hà Nội. Em học cả Carate cho có sức mà đi lại anh ạ. Cô ấy khoe vậy. Trời ơi, hai cái bằng rồi lại định làm võ sư nữa. Tôi trêu thế.
Cô bảo, cô tên như vậy, nhưng thực ra chưa bao giờ nhìn thấy hoa tử Diệp Tôi kể về hoa ấy. Trong trong rừng tôi quản lý, mùa thu, hoa Tử Diệp vàng ươm. Chiều chiều, có gió đông, cả thềm Tử Diệp uốn lượn như sóng vàng. Thế là tình cảm cứ lớn lên như những chồi non trong rừng vào mùa xuân. Mọc mãi âm thầm trong đất ẩm, mọc mãi thành đọt cây vươn khỏi mặt đất, khoe dăm cái nõn lá biêng biếc. Tôi thấy thương và nhớ, nhớ cô còn ở nhà trọ. Chuột chạy rào rào suốt đêm. trần tôn sát đầu hay đại loại vài điều vụn vặt như vậy.
Tôi mời cô ấy có dịp rẽ vào chỗ chúng tôi. Thực may, thư viết được một tuần thì cô ấy nhận lời. Em sẽ qua anh nhé. Tuần này xuống làm việc với ủy ban về trồng cây bo hộ ven biển.
OK! Tôi chuẩn bị diết dóng. Bày lại ni làm việc cho gọn, hoa rừng, thực phẩm, c nuớc uống hi sang một chút. Như vậy.

U2-Ông ấy.
Một tuần thực thú vị. Sao lại còn người đam mê với rừng như thế. Ông ấy tường tận rừng như người ta tường tận từng góc nhà của mình. Ông ấy cũng dạn. Yêu hai ba lần nên dạn là phải. Dám nói : Tôi mê loại hoa này lắm. Một nhà hoa tên mình, góc nào cùng cắm hoa, độc một loại hoa tên mình. Cũng khoái, đừng vờ vẫn. Nói thực đi, con gái mà, ai ch thích. Hừ, mình hư thật. Mặc kệ
Giá như anh ấy học được chút ít về phong thái của ông ta nhỉ. Giá như, anh ấy quan tâm tới mình như ông ta nhỉ. Đi một tuần mà cũng chẳng thèm gọi điện. Chẳng thèm đoái hoài gì. Khỉ! Mình không được nghĩ lung tung. Nguy hiểm đấy. ông ta gấp đôi tuổi, lại từng có gia đình rồi. Người như thế nhiều mưu mẹo lắm. Biết đâu một cái bẫy của một cuộc chi. Đời mà.Cnh giác! Thế nhưng qu thực thực thú vị khi đi chi với ông ta trong rừng. Cũng thực thà chứ không điêu chác gì. Yêu rừng như thế, mà khi hỏi, ông yêu rừng lắm à? Ông chẳng ngần ngừ bảo, cùng chả yêu lắm đâu. Nhiều công việc vì cơm áo gạo tiền mà người ta phải làm thôi. Còn yêu ư? Thực là yêu thì cần cũng giám chết vì yêu. Tôi chưa thể giám chết vì rừng! Ô, như thế thực!.
Còn anh ấy ử? Anh ấy có giám chết vì em không? Cũng khó! Mình dám chết vì anh ấy không? Có mà dở hơi! Phải cẩn thận. Mày còn trẻ. Còn công việc. Còn kế hoạch sắp cưới của hai gia đình nữa. Bận sau, không tới nữa. Sao lúc chia tay mắt ông ấy buồn thế?
Mình nhìn thấy ông ấy ở bến xe mà ái ngại. Ngược về hơn hai chục cây đi bộ, đi đò, đi ngược núi. Chà, cũng giỏi, thui thủi hơn được hản hai chục năm như vậy cũng đáng khâm phục. Lại viết khối công trình đáng đọc ra phết. Người ta bảo, thời buổi này chồ nào quang thì đi, rậm thì tránh. ông ấy là bụi rậm. Tránh ra....

;D



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Toanli
post Apr 6 2003, 05:09 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #7

Regular Member


Nhóm: Dân làng Ven
Số bài viết: 222
Tham gia từ: 4-December 02
Thành viên thứ: 606

Tiền mặt hiện có : 913$
Số tuần chưa đóng thuế : 4

Bình chọn :



Các bạn trẻ thân mến,
Tôi về Việt Nam. Chơi, uống , tán phét với bè bạn và viết.
Nay trở lại Đức, xin giới thiệu chương 1 của tiểu thuiyết đang viết: Phố Cũ
Cuốn tiểu thuyết này, mỗi chương độc lập với tư cách một truyện ngắn hoànchỉnh. Nó sẽ bao gồm 14 chưong. Bạn có thể đọc nó từ bất cứ chương nào hay từ cuối lên đầu. Nếu ai có thời gian có thể đọc tất sẽ đọc từ chương 1 tới hết để biết đời một cô gái Hà Nội từ khi1 3 tuổi tới 28 tuổi.
Nay xin giới thiệu chương 1. Tha hồ bình loạn nếu ai muốn.

- Nguyễn Văn Thọ
Phố cũ

Tôi tên là Hương. Năm qua, tôi tròn mười sáu tuổi. Tôi là đứa con gái nhan sắc bình thường, học bình thường, hạnh kiểm bình thường. Tôi không có tài lẻ như bè bạn cùng lứa. Ví dụ như con Diệp, quê Thành Nam, đã xinh lại nói chuyện có duyên và viết hai truyện ngắn được đăng trên báo Hoa Học Trò, như thằng Trình mũi đỏ, người làng Cổ Nhuế, nhẩy Disco rất giỏi, lại có giọng hát mn man hệt siêu sao Lam Trường, để khối đứa con gái ngắm nó đăm đắm! Tôi bình thường! Một cô gái bình thường ở phố Hàng Đào, nhưng không hề xúc cảm với giọng hát như thế. Tôi tự đánh giá như vậy, cách đây ba năm, từ khi 13 tuổi.
Tuổi mười ba, hồi ấy, khi người ta từ con trẻ vụt biến thành thiếu nữ, buộc phi soi gương nhiều hơn trong tuần và bắt đầu lơ mơ ý thức nghiêm túc hơn về mình. Theo tôi, đấy là một ngày đặc biệt! Một ngày như dấu mốc loang đỏ, mờ đóng lên làn da trắng muốt của người con gái. Thú thực, ban đầu tôi rất sợ hãi, bất ngờ về sự kiện này. Tôi thng thốt, trân trân nhìn khi thấy máu rỉ ra từ chính thân xác. Cả ngày chờ mẹ, lòng dạ bỏng rát. Hệt như khi ta xem phim, thấy người nung đỏ sắt, sèo sèo đóng vào bắp thịt con vật sắp cho xuất xưởng. Tôi chỉ trấn an được khi mẹ trở về. Đúng hơn là khi nói rõ niềm kinh sợ ấy và cảm thấy đỡ sợ khi mẹ ôm tôi vào lòng, lúc da thịt bà còn sực mùi ngan và hành tỏi. Bà bo: “Trời sinh ra như vậy! Con đừng sợ!” Nói rồi bà lại ôm chặt tôi vào lòng. Khi ấy, tôi không hiểu được, vì sao mắt mẹ vừa chợt long lanh như hoan đón điều gì, lại vụt tắt và, bà khóc. Mãi cho tới sau này, khi tôi đã qua tuổi mười sáu, tri qua bao sự kiện, mới dần nhận ra ý nghĩa của những cử chỉ ấy. Nó là niềm hoan lạc của mẹ thấy con mình đã lớn, là sự lo lắng của mẹ trước bước đi vào đời sắp tới của con, của kiếp người, như mẹ phải trải qua, như mẹ nói: “Đời làm đàn bà có hạnh phúc nhưng vất vả lắm con ạ!” Tôi tin ở bà, như tất cả những đứa trẻ tin ở mẹ. Lại nữa là, theo thời gian, việc ấy đều đặn trong từng tháng. Với lại trong nhà, mẹ tôi là người có tri thức nhất, dù cha tôi hơn mẹ những bốn tuổi. Ông từng tri qua sự tham gia bốn năm chiến đấu ngoài mặt trận. Sự từng trải ở chiến trường, trong rừng, những câu chuyện của ông giữa đạn bom, giờ đây theo mẹ tôi chẳng còn hữu dụng. Tính cả là ông đã hai lần bị thưng, tôi vẫn đánh giá mẹ tôi cao hơn. Hơn nữa, học lực cha tôi chỉ hết 10, mẹ học vấn đại học sư phạm. Đáng nói hn nữa, sự sống của bà thực kiên nhẫn, chịu đựng tới khắc nghiệt, từ khi phi đứng mũi chịu sào, lo toan cho bốn miệng ăn. Điều ấy hiển nhiên, cha tôi cũng công nhận. Nhất là, khi đồng lương không đủ sống, buộc bỏ nghề dạy học, mẹ trở thành bà bán bún ngan khi bà nội tôi mất. “Không thể để mất ni kinh doanh đã nhiều đời nay, nơi kiếm nồi cm miếng thịt của c nhà ta!” Bà nội trối trăng. Vâng, từ đó mẹ tôi kế tục nghề bà tôi. Còn cha, hưu trí một cục, trở thành người phụ giúp. Ông trông giữ xe máy của thực khách khi mẹ tôi chan, xóc bún, thái, xé, pha và nếm từ bốn giờ sớm tới tận tối mịt, đánh vật với các món thịt chặt và xé, tiết canh, xáo măng, hoàn thành xuất sắc vai trò bà bán bún ngan gia truyền nổi tiếng khắp phố cổ. Điều mẹ nói ra, là sự trấn an tôi, nhưng biểu lộ lo lắng của bà cũng là sự dự báo để tôi có thể, dù lơ mơ, nhận ra điều tất yếu phi tới. Điều ấy, dẫu là không rõ ràng, còn bao hàm một sự bí mật nào đó, để tôi suy nghĩ và chợt lóe lên một câu hỏi, rằng tại sao tôi không phi đàn ông để thoát khỏi sự đau khổ mà chỉ đàn bà gánh chịu? Và cũng từ đó, tôi tự cấm tiệt tôi tắm truồng cùng với thằng Tâm mới 12 tuổi cùng nhà. Nó ở tận cùng xóm, phòng cạnh cái hố xí thùng, người luôn ám mùi ẩm thấp rất khó tả. Nó rất tệ. Hình như cứ chờ lúc tôi đi tắm là chạy ra cầm cái xô vục nước hối h, làm tôi không thể kết thúc nhanh công việc vệ sinh, giặt, tắm. Tệ hn nữa, nó cứ nhy tưng tưng, nhơn nhơn cạnh bể nước để con cu nó cũng tưng tưng bật theo. Cố ý dùng cái lò xo ấy vẩy nước bừa bãi vào tôi. Sự phản ứng của tôi, bắt nguồn từ ý thức biết mình là đàn bà chứ không xuất phát từ một cảm giác nào trước hành vi của thằng oắt Tâm. Bởi vì hình hài của nó chẳng hề làm tôi suy nghĩ. Nó quá quen thuộc với tôi từ bao năm nay. Điều đó, cũng như khi tất cả mọi người trong xóm nhìn thấy mẹ tôi cũng tắm ở đó. Cái quần đen ướt nhượt kéo lên ngang ngực, nước trắng xóa òa òa xối xuống, không che hết đôi cặp vú còn mẩy, ngần như ngó cần của bà. Điều ấy, cũng tự nhiên giống như cha tôi và nhiều người đàn ông cũng tắm ở đó. Sự tự nhiên của cả xóm để đôi khi, ông mặc quần đùi trắng tắm thì cũng giống như không mặc gì. Thậm chí họ, khi đã là đàn ông, được quyền tự nhiên thay quần giữa ánh mặt trời. Họ chả thèm quay mặt đi. Tự nhiên kì, móc, dội nước qua cạp chun quần đùi được kéo rộng ra. Tự nhiên gãi xoàn xoạt tới mức tiếng gãi vọng lên cả cửa sổ tôi ngồi học.
Sự hồn nhiên sống của cả xóm tôi như vậy làm tôi không thể trách giận thằng Tâm. Điều ấy cũng giống như bọn con Hoài, con Thư, con Linh trong ngõ cứ thơ thới cặp đùi nơi bể nước. Những cặp đùi cong, gầy hay mũm mĩm của chúng, vẫn là đùi vế của thiếu nữ. Sự hồn nhiên sống của cả xóm để cho chú Minh Kha, người có quầy sửa đồng hồ ở lối vào, nói: ‘‘Việc quái gì phi đi Đồ Sn để ngắm ngực, ngắm đùi!’’ Thú thực, ban đầu tôi không tin lời thằng Tâm, rằng chính chú Minh Kha nói câu ấy. Bởi vì, lúc vắng khách, có lần chú còn đọc cho tôi nghe nhiều câu thơ, mà chú khoe đấy là Dòng thi ca mạnh dạn cách tân. Tôi không tin, tâm hồn của một thi sỹ lại chứa chấp lời lẽ dung tục như vậy. Tâm hồn của người đã đẻ ra những câu như: ‘‘Hồn phố liêu xiêu/ Em đi/ vàng bến đợi…’’ Nhưng một lần chú lại đọc: chúng tôi đây một loài thi sỹ/ yêu bằng thơ, ấy bậy bằng mồm, thì tôi hiểu, thằng Tâm không nói ngoa. Và, những điều đại loại như thế, cùng năm tháng chung đụng, quen thuộc quá, để không ai bận tâm về các sự chuyện, hình như như trên. Tôi nhắc lại, nơi bể tắm, nó là chỗ duy nhất, ni có luồng sáng duy nhất, trong ngôi nhà như cái ống dài ngoẵng của chúng tôi, chứa 13 hộ. Thứ ánh sáng thực sự là ánh sáng, khác hẳn các gian phòng, hốc hẻm, nơi hơn sáu chục người chui rúc, luôn có thứ ánh sáng nhập nhoạng, nhm nhớp. Ngày chẳng ra ngày, đêm chẳng ra đêm ! Vâng, tôi chỉ đáng khiêm nhường và không có điều gì tự hào, dẫu là tôi đã ý thức mình là thiếu nữ.
Nhưng con người ta nhất quyết phi có điều gì để mà sỹ diện. Giống như hiệu đồng hồ trước ngõ, tuy quầy hàng chỉ nửa mét và hàng hóa, đồ lề, công xưởng trói gọn trong lồng kính cũng hãnh diện đề chữ hiệu: Minh Kha chữa đồng hồ gia truyền. (Tôi xin mách, rằng chú vừa khoe hai loại cạc vi sít. Một, in dòng chữ Minh Kha chữa đồng hồ gia truyền. Hai, đề: thi sỹ tự do Minh kha. Sao cái thứ hai không đề Minh Kha thi sỹ gia truyền? Như thế hợp lí hơn, vì nghe nói, bố chú ngày xưa chuyên bốc mộ dưới Văn Điển, cũng làm thơ!) Bên kia đường có hiệu đồ Nữ trang gia truyền. Cũng như hôm nào đó, cha tôi lẳng lặng lấy sn đen bôi lên tường ngõ hẹp bên kia đường, ni mẹ tôi bán bún ngan dòng chữ: Bún ngan gia truyền! Phố cổ gia truyền, hàng quán gia truyền! Cả nước bảng hiệu gia truyền lây lan như bệnh cúm không có nước tỏi nào chẩn trị. Niềm tự hào tưởng như vĩnh cửu, bây giờ có dịp mọc tóe lên hết nấm tháng ba.
Chính vì thế, tôi nhất quyết tìm ra sự tự hào ở ngoài tôi ra. Đó là lòng kiêu hãnh của đứa con Hà Nội, về nơi tôi sinh ra, lớn lên. Mới tuần vừa qua đây, tôi đã thể hiện điều ấy trong trại hè lần thứ nhất của học sinh trường tôi tại Huế. Một thằng con trai kém tôi những hai tuổi, từ miền nam ra - tuy nó để đầu ngôi giữa và nhuộm một nhúm tóc vàng, nhưng với lũ con gái lớp 11A chúng tôi thì nó còn thò lò mũi xanh lắm - đã phi trợn mắt khi nghe tôi kể về khu phố và ngôi nhà tôi ở. Tất nhiên tôi không thể kể với nó tất cả. Tôi nói với nó, rằng Hà Nội có ba sáu phố phường là điều ai cũng biết. Tôi bo nó, rằng chị ở sống trong Phố Cổ, nhà chị trong Phố Cổ, bốn năm đời nhà chị ở Phố Cổ. “Vậy chị là người Hà Nội gốc?” Nó hỏi. ừ, chị là người Hà Nội gốc! Tôi vênh mặt lên, thổi phù lọn tóc vưng trên trán. Thực ra, khi trả lời câu hỏi ấy, tôi có nghĩ tới ngôi nhà hình ống của chúng tôi. Nhưng không nên nói kỹ về ngôi nhà, vì thằng ngôi giữa ấy chưa từng sống, không thể hình dung nổi! Vả lại, tốt đẹp phô phang, xấu xa đậy điệm, chả nhẽ lại kể c về cái chuồng xí công cộng cạnh nhà thằng oắt con Tâm. Cái chuồng xí luôn rỉ từ vách tường ra thứ nước đen tanh lờm lợm và chàn chạt đám bọ lổm nhổm trên nền xi măng vào ngày quá nóng hay mưa nhiều! Tôi kể cho nó nghe về khu phố nườm nượp người đi. Dãy phố hàng hóa như nêm cối! Đường phố đầy những biển hiệu, quảng cáo lắm mầu, lắm tấm kính trong như pha lê, mà bất cứ người nhà quê nào lên đây cũng phi đặt chân tới, dù họ chẳng mua bán gì ở đó. Nó hiện diện trong tâm tưởng của người Hà Nội chúng tôi, bên những địa danh quen thuộc như Bờ Hồ, cầu Thê Húc, Ô Quan Chưởng, cầu Long Biên, chợ Đồng Xuân hay đại loại cái gì đó thuộc về lịch sử cổ kính của Hà Nội. Thú thực, khi đó tôi chợt nhớ tới gian phòng của mình. Tôi nhớ tới cái ống nước cụt ở ngay trên nóc nhà tôi. Cái ống nước ấy không hiểu sao lại sát trên nóc nhà và bị cụt. Theo như cha tôi dự đoán, ngôi nhà này đã được sửa chữa rất nhiều lần và bị chia cắt thành nhiều nhà nhỏ qua nhiều thay đổi của lịch sử, thời gian. Đoạn ống nước ấy có thể dẫn tới buồng tắm nào đó của quá khứ chăng? Còn hiện tại, tôi đã nhìn thấy rất nhiều lứa chuột nhô đầu ra ở ống cụt. Chúng ban đầu thì rụt rè. Sau thấy tôi không có gì đe dọa, lại bỏ cm nguội cho chúng ăn ngay trên sàn gỗ, chúng lập tức kéo ra một đàn. Những con chuột mượt lông và những con chuột lù xù sơ xác. Có một lần, còn rơi ra ba bốn con chuột còn đỏ hỏn. Tôi đoán, đó là ni cư trú một tập đoàn chuột, một dòng họ chuột. Ngay đêm ấy, tôi nằm mơ tới được sống trong nhà mình, hít thở thứ không khí mười sáu năm qua, để lúc tỉnh dậy, chợt muốn quay về lập tức với mẹ.
Trong giấc mơ, tôi đã m thấy cái phòng duy nhất của gia đình tôi. Cái phòng xưa lát gỗ đen nhánh, rộng gần chín mét vuông. Thời mở cửa, người ta thi nhau lên tầng và sửa nhà, cha tôi đã thuê thợ tháo gỗ ra bán và lát trên sườn gỗ, vữa những viên đá hoa mát lạnh. Tiền bán gỗ, lát đá thừa ra, mua đủ nửa cái tủ lạnh cũ. Mẹ tôi bù tiền. Tủ đem về không biết kê vào đâu. Cha tôi dùng cái ròng rọc treo tủ lạnh lên cao, sát nóc nhà và mỗi khi cần lấy tiết đánh tiết canh, các thứ đồ ướp, gia giảm của món “bún ngan gia truyền”, lại phi hạ tủ xuống bằng ròng rọc. Khi đó, nhà tôi vang lên tiếng rin rít của những bánh xe khô dầu. Tôi nhận ra, đúng ba giờ chiều, khu nhà tôi yên tĩnh tới có thể nghe thấy tiếng bước chân rón rén của bà già mù cũng tên Hưng, sống ở tầng nóc nhà tôi. Mỗi khi muốn lên đấy, tôi phải vòng sang ngõ hẹp bên cạnh, chui qua cái cửa rất thấp và người ta đồn rằng, đó là cái lỗ mà tự vệ thủ đô đã đục thông các nhà để gìn giữ từng mét đất Hà Nội. Rồi ngày nào cũng vậy, đúng ba giờ gì đó, tôi nghe tiếng nước chẩy lóc róc. Có một lần, tôi đã chạy thốc tháo sang nhà bà già mù ấy để nhận ra, tiếng róc róc nhát gừng kia, phát lên khi bà trong tư thế lưng cong, chân dạng ra, hi cúi xuống, đứng ở chỗ hiên chìa ra chừng hai gang. Cạnh đó, chỗ bà khom khom lưng, chú Long đặt hai cái bếp dầu. Mặc dầu không nhìn rõ tất cả, tôi đoán bà đang làm việc gì và cm thấy xấu hổ, quay phắt xuống. Tôi đã khám phá ra tiếng nước bí mật kia! Sau đó, tôi vẫn không hề thiếu tôn trọng bà. Trong ngôi nhà này, ngoài mẹ tôi ra, bà Hương mù lòa ấy hiểu và yêu thưng tôi nhất. Bằng chứng là tôi còn tấm ảnh bà bế tôi hồi bé xíu, và tới tận hôm nay, vẫn ôm ấp, vuốt ve tôi mà kể về khu phố khi còn cha mẹ bà. Một khu phố hiền lành, yên tĩnh không chật hẹp như hôm nay và đầy những món ăn tuy không biển gia truyền nhưng nhiều cám dỗ của người Tầu. Bà mù nhưng khéo. Bà lấy bột nếp rây nhỏ, hòa nước, tráng bánh rồi phi trên cái nóc nhà sát bên cửa sổ. Lúc trời se se, lành lạnh, bà sai tôi quạt hồng than trong cái hộp sắt cũ có in hình bà đầm Pháp. Bà gọi nó là bánh Mị Châu. Bánh Mị Châu dẻo, lại trong trắng. Khi có hơi than nóng, chợt phồng lớn bất ngờ và có sắc hồng phớt như khuôn mặt thiếu nữ đang xuân. Nó thơm tinh khiết, để lại vị ngọt hậu rất lâu trong họng. Nhất là khi nhấm nó, chiêu một ngụm nước vối ướp hoa cúc vàng, hãm sẵn trong chiếc ấm tích cổ của bà. Tôi ngồi ăn bánh Mị Châu để bà lần sờ bàn tay trên da mặt tôi: “Cháu bà xinh ra rồi đấy!” Xinh ra rồi đấy! Nghe lời khen, tôi bỗng hít vào thật mạnh và thở ra. Tôi cm thấy đôi vú nhu nhú quả cau của tôi cũng thở hít và ngưa ngứa đụng vào làn áo mỏng. Sau đấy, bà lần tới bên cửa sổ, với cái thanh tre già nâu mầu thời gian, kê lên đùi làm phách và hát. Tôi không thích lắm điệu hát ấy. Lũ con gái chúng tôi thuộc lòng bài hát If you had my love (1) nhanh hơn tất c các bài hát của bà Hưng. Nhưng tôi vẫn nhận ra bà Hương có giọng hay và rất rõ lời. Đôi khi bà Hương không hát. Bà lấy cái máy nhạc cũ bỏ vào băng cassette rồi lim rim đôi mắt lòa để thưởng thức “giọng ca của cụ Quách Thị Hồ, người ca nữ còn sót lại, độc nhất vô nhị!” ấy là theo lời bà Hương. Tôi không hiểu Thời Quân Thượng Thiếu (2) có ý nghĩa thế nào. Cũng không hề biết thưởng thức, bà Hồ hát hay tới đâu cho bà Hưng nghe lại mỗi lần vẫn ngẹn ngào. Một bữa, trong tiếng mưa giọt giọt rơi trên mái tôn, trong khí lạnh chầm chậm như sương khói lùa qua khe cửa chiều đông, bà Hưng bật băng nhạc ấy lên và hỏi: “Cháu có nghe thấy gì ở trên cao không?” Không! Tôi nói. Cháu không nghe thấy ư? Đâu phải tiếng hát bình thường. Chỉ có bốn nhạc khí và ba người thôi mà là c dàn thanh âm giao nhau của trời đất đấy! Tôi lắng nghe lời có đoạn: Đàn ai một tiếng Dưng Tranh (3), chỉ thấy nao nao. Nhưng bà Hương cứ nhất quyết bảo, rằng đó là tiếng thần nữ từ cao thăm thẳm dội tới. Có thật không, ở gian nhà thoang thong hi rêu ẩm mốc của bà? Tôi không hiểu thứ nhạc cổ ấy lắm. Tôi tìm đọc sách báo thấy người ta viết, đó là thứ nhạc nhã xa lông, quý tộc! Quý tộc nào? Bà Hương là người dân dã. Mà nếu có thứ nghệ thuật cho mọi đẳng cấp thì tất là siêu cao rồi. Lại nữa, tôi thêm tin điều bà Hưng tin, khi nhìn vào đôi mắt như hai lỗ dế của bà Hương. Hai lỗ dế khô khốc, giờ đây vắt ứa ra hai giọt trong vắt. Và có phải chăng vì thế, sau lần ấy, khi nghe lại vài lần bài hát bà Hưng yêu quý, tôi cảm nhận có điều gì đó, dẫu là sự cảm nhận còn mơ hồ, lãng đãng, trong tiếng đàn nhẩn nháy, đôi khi dấm dẳng hòa với tiếng dồn của sênh, của phách ròn rã, là tiếng cao hơn, nhẹ hơn, đầy đặn hơn, tiếng hát rất tròn trịa rõ ràng của bà ca kĩ đệ nhất. Tôi cũng nhắm mắt. Lim dim. Mãi rồi cũng tưởng ra non nớt trên cao lắm có thanh âm rộn ràng nào đó làm tôi lãng đãng bay lên, bay lên cao vút…Từ đó, tôi cho là, những làn điệu cổ xưa kia không hề chứa đựng nỗi sầu thm. Nó chứa chất điều gì, cất giấu, mang linh hồn nào đó, xa lắc trên cao của riêng bà, thế hệ bà. Những cảm xúc ấy không chỉ từ lời ca, làn điệu của đàn, phách và xênh, nó dường như cộng hưởng, thăng hoa bởi tiếng rơi chỉ tôi nghe thấy. Khi những giọt nhựa trong suốt tự hai lỗ dế kia vắt ra, rớt nhanh, thấm vào sàn gỗ. Có lẽ hai nhăm năm vừa qua, sàn gỗ nhà bà đen hơn bởi những giọt nhựa ấy chăng? Tôi cũng không thể cắt nghĩa nổi, rằng vì sao tôi có tất cả cảm giác như vậy. Những điều mỗi ngày hé nở dần ra, ở người con gái thơ trinh như tôi. Khi ấy, miếng bánh Mị Châu ướt thêm nước miếng và nước vối hoa cúc ngọt hn chăng?
Tôi còn nhớ, có lần bà nói: “Tên Hương là khổ lắm. Bà mong cháu lớn lên không khổ”. Bà khổ thì rõ ràng rồi, vì bà mù lòa. Mẹ tôi bảo, hai nhăm nay bà Hương già vẫn như thế. Ông Hương mất từ lâu rồi. Bà ở vậy với chú Long và khi chú lấy vợ thì cả hai vợ chồng vẫn ngủ chung với bà trên cái sàn gỗ rộng khoảng tám mét vuông. Vợ chồng chú Long không có con. Có lần tôi hỏi: “Cô Tuyết có thích trẻ con không?” Cô ấy cười bí hiểm. Bà Hương nghe rõ tôi hỏi mà chẳng bo gì. Lát sau, ghé vào tai tôi thì thầm: “Bà mong có cháu bế lắm. Nó cũng muốn có con nhưng sợ bà nằm chật! Khốn nạn! Chật một tẹo có sao đâu! Rộng lòng còn hn rộng nhà, rộng cửa!” Như vậy mà tôi vẫn thích leo lên nhà đó vào những đêm đông sướt mướt. Mưa lanh canh gõ lên tấm tôn chìa bên cửa sổ trông xuống bể tắm. Tôi lên. Gõ vào tấm ván trên đầu rồi gọi: vừng ơi mở cửa ra. Số là bà còn ba người con gái nữa. Cô Điệp, cô Hà và cô Huyền út ít. Gian phòng ấy không đủ chỗ ngủ cho năm mạng người! Cho sáu mạng người từ khi chú Long lấy vợ nữa. Chiều cao của gian phòng không đủ làm cái gác xép. Ông Hương, ngày còn sống, đã đục xẻ hai bên tường, làm hai rãnh để đỡ những tấm ván tạo một gác lửng cơ động chỉ hình thành vào đêm. Mỗi khi người cuối cùng về muộn, muốn chui lên đấy, phi gõ vào một tấm ván và người bên trên tháo nó ra, rồi lại đóng nó lại, mới đủ chỗ cho người thứ ba. Tôi chen giữa các cô, ép thân như nèn cá. Để đôi vú còn săn chắc của họ cọ vào lưng. Nghe bà Hương rì rầm nói vọng lên trong bóng tối. Rằng chúng mày cứ béo trưng xác ra để chật chội nóng nực thế này! Rằng có chó nào nó lấy cho ế sưng ế xỉa! Tôi biết đấy là khi gian nhà bỗng nóng lên cả trong mùa đông và tôi vội tháo tấm ván chui xuống nằm bên bà, mong bà trở lại hiền hòa như ban ngày và lần mò trong đêm, dúi vào tay tôi miếng kẹo gừng cay cay ngòn ngọt rồi bà nói: “Tao đưa con Hưng một thằng Trọng Thủy để mày ngậm kì tan, rồi xéo ngay khỏi đây cho rộng chỗ!” Những khi ấy, tôi ôm riết bộ xưng còm cõi của bà. Tôi biết, bà vì duyên cớ khác mà mắng yêu tôi. Bà hờn với vợ chồng chú Long. Trong đêm, cô Tuyết, vợ chú ngủ quá say, đã lăn sang đè đứt cả giây màn của bà. Muỗi vo ve bay vào cả đàn, đốt đỏ cổ chân bà. Tất nhiên là tôi không khóc khi vuốt ve chỗ muỗi đốt vào sớm hôm sau, lúc bà bôi dấm lên đám nốt đo đỏ li ti. Tôi cũng không giận cô ấy. Thậm chí cảm thấy thương khi bà Hưng giận cô. Thật vậy, người ta thực khó chịu cứ phải chen chúc giữa những chiếc màn sàn sạt!
Tháng mười một. Mẹ tôi ốm. Tội quá, mẹ tôi ở nhà không ra chợ, vẫn tham công tiếc việc, ngồi mạng lại đôi tất nâu cho cha tôi. Mưa dâm dứt không ngừng ri và mặt trời lờ mờ ong ong giấu mình trong những đám mây xám nặng nề trôi ngang thành phố. Gánh bún ngan của mẹ tôi không dám ngừng hoạt động vì sợ mất khách. Cha tôi đành mượn cô Công từ làng Lủ ra trợ sức. Tất nhiên, mẹ tôi vẫn phi gượng dậy, tra tra, nếm nếm nỗi xáo. Tất nhiên, người bán hàng sành điệu, dứt khoát không chỉ là nước dùng hay thịt mềm hay cứng. Còn cả kỹ nghệ chan rưới, làm nóng, xóc bún thế nào, ngâm ớt, ướp tỏi, gừng tẩy hi hôi, lại pha chế nước chấm ngay trên thực địa, tùy theo khẩu vị quen thuộc của từng mặt khách ra sao? Điều ấy chỉ có mẹ tôi là thuộc lòng. Tất nhiên, vì thế mà mới có hai ngày đã khối người bỏ đi hàng khác ăn. Tôi phụ giúp cha tôi rửa bát và chỉ chỗ cho khách để xe máy. Việc đang tồi đi như thế thì may sao mẹ tôi gượng dậy, nhưng không bán muộn như trước.
Thứ bẩy. Tám giờ tối. Tôi tới nhà con Vân Hàng Trống mượn vở ghi bài tập vật lý. Tôi rất thích ngôi nhà của Vân. Không phi nó rộng rãi, lại vừa lắp hai tấm kính sáng choang thay cánh cửa gỗ cũ kỹ. Sự thích thú của tôi từ hồi còn được bên cha nó. Nhìn người đàn ông có bộ râu đen pha bạc dài tới ngang ngực, bôi bôi, phết phết trong xưởng nhỏ sau nhà, in trên những mảnh giấy mịn, mỏng tang, nhiều bức tranh ngộ nghĩnh. Nơi đấy, từ khi cha nó mất, vắng lặng như nhà mồ. Hai đứa cười rúc rích và bật nhạc nghe choang choang cũng chả ảnh hưởng tới ai. Bảo yên tĩnh như nhà mồ cũng không quá lắm, vì chẳng ai ngó tới đó, chúng tôi ngỗi học giữa những đống khuôn tranh không nói của cha nó để lại. Những bộ khuôn từ khi chủ mất đi không còn sơn mực, khô đi và dần phủ lớp bụi dầy. Nhiều tấm dựng sát tường. Mỗi khi mất điện, âm bn khắc gỗ hắt lên mầu và khối rất kỳ ảo, rập rờn trong ánh nến. Những người và thú như ở cõi nào chập chờn hiện về!
Hôm nay nhà Vân không vui. Ông anh nó đòi bán bộ cổ tập khắc gỗ ấy để mua một con A Còng(4) . Nhưng mẹ Vân dứt khoát không nghe. “Bây giờ còn có kẻ cần và người ta ở tận Pháp về xin chết mà mẹ không bán đi thì mất c hội đấy!” “Tao để đấy ch thối được! Mày không muốn làm nghề cha mày thì cứ mặc xác nó đấy, cho cha mày yên lành dưới đó!” “Mẹ tưởng sau này, con cháu nó quay lại cái nghề cổ lỗ sĩ ấy à?” Yên lặng một lát, lại nghe: “Rồi chính phủ sẽ có ngày phi mang lọng tới rước những bộ ván này!” “Hực, hực!” Có tiếng cười gằn. “Rước vào mắt! Người ta bỏ c vài tỉ ra trùng tu ngõ Cấm Chỉ và biến thành Phố Cổ ẩm thực và khối kẻ vì thế mà có tiền. Hỏi ai đầu tư vài trăm triệu mua bộ ván mục này?” “Kệ đấy! Tao van mày! Mày cho tao và những tấm gỗ được yên!” “Mẹ bảo thủ lắm! Con không làm! Con con sẽ không làm! Cháu con sẽ không làm cái nghề chẳng bao giờ đủ ăn ấy của cha!”
Con Vân tiễn tôi ra ngõ rơm rơm nước mắt. Nó bảo, sao cái đống ván khắc ấy không biến mất đi sau một đêm? Năm nào cũng vài thằng chỉ trỏ mang vài lão tây tới hỏi đống ván đen đúa xam xám ấy. Năm nào mẹ tao và anh ấy cũng cãi vã như vậy.
Buổi tối. Phố phường quanh khu tôi vẫn nhộn nhịp như ban ngày tới khuya. Tôi buồn. Tôi vòng qua phố Lưng Văn Can, vòng qua hai ba cái phố nhỏ mà chẳng biết đi đâu. Thực chất, những phố phường của chúng tôi chẳng còn làng nghề, trừ phố Lò Rèn và Hàng Bạc. Thời gian đã, đang làm thay đổi bao điều theo nhịp sống mới. Đang suy nghĩ miên man tôi chợt thấy bóng cha tôi vội vã rẽ vào một ngách nhỏ. Tôi gọi giật giọng nhưng có thể tiếng tôi nhỏ nên ông không nghe thấy. Không hiểu sao khi ấy tôi bước theo ông. Ngõ quành quéo lắm lối. Tại đây, không hề có ai quen biết của gia đình tôi. Vậy ông đi đâu? Tới cái ngõ cụt, những nóc nhà liên tiếp vẩy cá, mờ mờ trong sưng khói bng lng. Tôi hồi hộp tiến vào sau cánh cửa, nơi ông vừa biến vào. Ai đã nói với tôi, đây có ba bốn phòng trọ? Tôi vừa định quay về thì từ cánh cửa sổ bên trái vọng ra tiếng nói quen thuộc của cha tôi. Tôi dừng lại. Cửa rất kín. Bên trái, trên cao có lỗ thông khí. Tôi tìm thấy chiếc ghế thấp bên hiên, kê dưới cái lỗ, bước lên kiễng chân nhìn. Tôi lờ mờ thấy chỉ hai nửa thân người trần truồng nhấp nhổm. Tôi thụp xuống, tim đập nhanh. Sự tò mò lại thôi thúc tôi kiễng lên một lần nữa. Lần này, họ đã xoay đi hướng khác. Góc nhìn hẹp, chỉ thấy bốn bàn chân ngọ nguậy liên tục dưới ánh sáng cây đèn ngủ hắt trúng vào đó. Tôi cố mở to mắt. Trời ơi, đấy là đôi chân mang đôi tất có vết mạng khác mầu của cha tôi. Tôi cố kiễng lên. Không thể nhầm lẫn được! Chính xác đôi tất tự tay mẹ đã mạng, bằng chỉ khác mầu, hôm mẹ nằm ốm ở nhà. Tôi bỏ chạy. Tôi khóc nức nở suốt dọc đường về, tận khi leo tới gác, ngã vào lòng mẹ.
Sự việc thực khủng khiếp! Những hình tượng tử tế, vụng về, chân chất nhưng thân thuộc tới đẹp đẽ của cha tôi hoàn toàn đổ sụp. Tôi nức nở, đứt đoạn kể cho mẹ toàn bộ những điều trông thấy. Thú thực, khi đó tôi không chỉ ghê tởm mà còn căm thù cha tôi. Lòng căm thù người này có thể xuất phát từ tình yêu đối với kẻ khác và đó là một điều gin đn. Tôi được mẹ lau sạch mặt sau khi để tôi khóc no nê và khi tôi ngước lên, lại thấy khuôn mặt bà vô cm, hóa đá! Câu chuyện có thể gây lên cú sốc rất lớn với người đàn bà làm vợ khác và họ thường quác ầm lên như ngỗng, giống cô Yến đánh ghen năm ngoái trong xóm tôi.
Cho tới bây giờ, tôi hoàn toàn hiểu được những lý do tạo nên khuôn mặt đá ấy. Cho tới bây giờ, tôi hoàn toàn hiểu được câu an ủi duy nhất của mẹ lúc đó: “Mẹ thương con gái lắm!” Ngoài ra, bà không có biểu hiện, một tẹo nào tỏ ra tự thưng lấy bà. Giá như bà khóc! Đôi mắt đẹp của mẹ tôi chẳng hề một giọt lệ. Nó xa xôi, mơ hồ, mênh mông, khó hiểu. Dường như câu chuyện của tôi không mảy may làm bà cảm thấy đường đột. Có nghĩa là bà đã biết được tất cả chăng? Tôi ngạc nhiên hn nữa khi sau đó, bà lẩm nhẩm nói như chẳng với tôi, rằng cha tôi còn rất yêu mẹ. Rằng, mẹ còn rất yêu... Tại sao như vậy? Tôi gặng. Mẹ tôi cứ xoa mái tóc của tôi suốt mà không hề nói rõ thêm một chút nào. Mãi sau này, sự chuyện sáng ra khi có lần bà bâng quơ: nhiều người đàn ông bị đẩy vào sai lầm, nhất là khi họ còn rất sung sức! Còn khi ấy, tôi đau đớn ngạc nhiên lau nước mắt ngước lên nhìn bà. Suýt nữa tôi chuyển sang căm thù cả trạng thái ấy của mẹ tôi nữa, nếu tôi không nghe và đếm từng tiếng chân quen thuộc của cha tôi, 13 bước, lên nhà. Ông vô tư oang oang cười, nói. Tớn tẩy như con chó nhà con Xim đầu ngách, nhẩy lên choi choi, sủa vang, sau khi thỏa mãn no nê những miếng xưng ngan mẹ tôi thẩy cho. Chỉ khi thấy hai mẹ con yên lặng, nhìn ông lạ lẫm, ông mới tẽn tò nằm xẹp bên góc nhà để nhường chỗ mọi khi của hai chúng tôi.
Đêm ấy, khuya lắm, tôi chợt thức dậy khi nghe tiếng khóc. Sờ sang, thấy bên trống trn và nhận ra nh hình lờ mờ của mẹ trong vòng tay của cha tôi sát mép tường bên kia.
“Anh có lỗi. Để con biết chuyện này!” Tiếng khóc bị lèn giờ rức lên. Tôi hé mắt. Hình như cha tôi xiết chặt mẹ hn. ‘‘Anh càng thương em! Từ sớm tới khuya..Thương anh. Con Hương, từ khi nó lớn…’’ Giọng cha tôi nghèn nghẹt. Yên lặng. Tôi cảm giác lơ mơ thân xác mẹ tôi rung lên trong tiếng nấc, trong vòng tay mờ mờ, mà trong nhập nhoạng, càng làm nổi rõ hơn hình khối bắp tay, bắp vai chuyển động rất chậm, cuồn cuộn của cha. ‘‘Hãy tha thứ cho anh!’’ Tiếng cha tôi trầm nhẹ, thì thào. “Yên nào, kẻo con lại thức!” Khi ấy, rõ ràng mẹ quay mặt sang tôi. Tôi nhận ra, trong màn đen, nổi lên hai con mắt mở to, trắng, đen, thăm thẳm, loang loáng, có lẽ còn ngập tràn nước mắt, nhờ ánh sáng từ vòm trời đầy sao phn chiếu. Tôi muốn khóc thành tiếng mà không thể được. Cổ họng tôi chèn cứng một cục đá và nước mắt tôi cứ chan hòa chy ra ướt đầm cả gối. Lát sau có tiếng rung nhẹ của sàn. Mẹ tôi bước qua tôi và nằm đúng ở vị trí như hồi tối. Bà vòng tay qua ôm người tôi. Tôi rất sợ bà sờ lên mặt tôi hay đụng vào gối đã ướt nhèm. Tôi tr vờ nói mơ và xoay mình tránh vòng tay của bà.
Đêm. Lặng. Có tiếng rinh rích của bầy chuột trên đoạn ống nước cụt. Bây giờ bật đèn, nhìn lên sẽ thấy cả đàn, cả họ chúng nó kéo ra. Chuột có hôn hít loạn sị như con người không?
Sớm hôm sau. Vẫn như một sớm bình thường. Mẹ tôi dậy từ bốn giờ và gánh bún ngan sang bên ngõ khi bẩy giờ. Cha tôi thức lúc sáu giờ thì phi. Một ngày bình thường của chúng tôi lại bắt đầu. Tôi đi học mà chẳng nghe được điều gì. Chiều về, tôi một mình lần mò trong phòng nhỏ. Tôi thấy nhói thưng cho bọn chuột khi nhận ra có những con chuột thân hình vừa khít với cái ống nước nhỏ xíu. Tôi xuống cầu thang. Lần đầu tiên, tôi có cm giác ghê sợ cái nhớp nháp của tay vịn, đã mười sáu năm nay chưa bao giờ, chưa khi nào có cm giác ấy. Tôi nhìn, thấy ghê tởm thứ ánh sáng nhập nhòa, ngày không ra ngày, đêm chẳng ra đêm. Đi qua bể tắm, thằng nhóc Tâm cười choe choét như mọi lần và bắt đầu ra dáng chờ tôi. Tôi soi nó không chớp mắt. Tôi quay mặt đi, dù khi ấy nó còn mặc nguyên c áo quần. “Tao ghê tởm cả mày và tao!” Tôi thốt lên và đi ra phố.
Tôi ra Bờ Hồ. Có thể tôi phải học thực giỏi hay đại loại kiếm một công việc nào đó nhiều tiền để rời xa ngôi nhà này? Phải rời xa nó thôi vì tôi không thể gia truyền bán bún ngan như mẹ và cam nhẫn sống với một tình yêu khủng khiếp như vậy. Tôi vào thang máy lên tháp Cá Mập, gọi một li cà fê đắng ngắt. Có thể một người con gái Hà Nội bắt đầu sa đọa từ li nước đắng này hay không? Tôi muốn đập phá. Tôi muốn gào thét. Tôi muốn thứ nhạc thật loạn, điệu Ráp hay tiếng vỡ, nghiến, va đập nào đó có thể nghiền vụn, xé tan tất c các mạch máu của tôi. Tôi khóc. Trời sắp có giông, từ tầng cao có tia sét chớp nhằng, rọi sáng xanh cả trời và sấm. Gió mát nổi lên. Tự nhiên tôi nhớ tới bà Hưng. Không! Tôi không thể sa đọa, phản bội thành phố này. Thành phố còn có bao điều tự hào bên cạnh biết bao điều khủng khiếp, bắt đầu từ đêm qua tôi nhìn rõ hn về nó. Nhìn rõ hơn từ chính những điều quen thuộc, thân yêu nhất, ghê sợ nhất trong chính ngôi nhà của tôi. Tôi khóc câm lặng. Mây lại dần quang đi. Hồ Gưm hiện ra phẳng như một tấm gưng khổng lồ dưới kia. Hỡi cô gái 16 tuổi, mi hãy bay lên để soi rõ mặt mi vào tấm gương ấy. Soi cho rõ, cùng mọi nh nhuốc để tâm hồn mi thanh thản, lắng lại những gì thanh khiết, trong trắng nhất của một người con gái Hà Nội! Gió mưn man trên làn da con gái, già 16 tuổi của tôi. Sương tơ giăng, bắt đầu lan ra, trùm lên dáng liêu xiêu của trăm ngàn ngôi nhà. Từ trên cao, nhìn xuyên màn đêm mà tưởng thấy: con người lúc nhúc chuyển dịch trong nó bé như những con bọ. Nói thực, khi ấy tôi đã không vì hèn nhát mà khóc.
Sau những sự kiện ấy. Cuối tháng sáu, bà Hưng mất đột ngột. Chú Long bảo, hình như bà biết trước. “Không biết trước sao mẹ tôi sai con Huyền đun một nồi nước thơm lá hương nhu. Tắm xong bà lên giường nằm rồi đi”. Tôi đã nghe lỏm khi chú kể vậy với mẹ tôi. Tôi nhìn vào chiếc quan tài bằng gỗ sn đỏ chót, có những con rồng vàng nhe răng ngoặm lấy quả cầu đỏ. Nếu bà Hưng sống lại? Tôi tưởng tượng thấy bà bước ra khỏi quan tài, sờ sẫm đi về góc nhà. Thấy bà hát, thấy móm mém cười và trao cho tôi chiếc bánh Mị Nương, cái kẹo đắng Trọng Thủy. Khi đấy, lũ con gái của bà, cô Điệp quá thì, Cô Hà già lứa, kéo về đâu một đống những tay đàn nhị, kèn, sáo và họ ngồi chật ngoài rạp bắt đầu chi thứ nhạc bắt chước tiếng khóc leo lẻo của cô Huyền út ít, thông minh và ngoan nhất nhà đang ngồi bên quan tài mẹ. Tiếng nhạc ma bay trượt lên quan tài, loang trên khắp mặt phố, muốn cố cắt đứt những dòng suy nghĩ của tôi. “Sống dầu đèn chết kèn trống cháu ạ!” Chú Long nói với tôi khi thấy tôi nhăn mặt. Tôi nhắm mắt lại, cố gắng hất văng tiếng khóc giả vờ của kèn sáo kia…
Sớm đưa bà Hương, người ta không thể khênh quan tài xuống theo cái ngõ quá hẹp, lắm vòng gấp. Quan tài được đưa qua cửa sổ, qua nóc nhà bên và từ đó hạ xuống mặt đất bằng ròng rọc. Tôi đứng dưới đường hồi hộp nhìn lên. Mặt trời sáng chói đúng vào hướng quan tài th xuống. Không nhìn thấy giây ròng rọc buông quan tài vì ngược sáng. Chỉ thấy lơ lửng chiếc quan tài đỏ chói, vẽ con rồng ngậm cầu đỏ, chao xuống mặt đất như bay chậm. Quan tài bà hồng rực lên trong nắng, chầm chậm trôi xuống mặt phố, hệt như con vật nào mầu đỏ đang tiếp đất. Lúc hạ, hàng chục người dân phố vưn bao nhiêu cánh tay gầy guộc, gân guốc đỡ lấy con vật đỏ như vụt mọc ra mấy chục cái chân. Tôi theo bà tới tận Bờ Hồ. Tiễn biệt, trời trở nên quang trắng long lanh, phắt chuyển gió, xanh thẳm như bầu trời của mùa thu. Tôi nhớ bà có lần nói: “Bà tuổi rồng. Cháu tuổi rồng. Những con rồng Hương! Bà mong con rồng Hương nhỏ hạnh phúc!” Người ta có linh hồn không? Nếu có linh hồn thì linh hồn bà có phi dáng rồng mà bay đi không? Con rồng mang linh hồn bà liệu không mù lòa như khi bà còn sống để được nhìn thành phố và phố cổ, nhìn lại một lần ngôi nhà của chúng tôi không? Còn thành phố, còn khu phố, còn ngôi nhà hình ống của chúng tôi, chúng có linh hồn không? Và nếu có, chúng mang hình hài nào trong mười hai con vật?
Tôi trở về nhà. Người ta cũng chỉ tranh thủ đưa tang bà để tiếp tục nhao ra phố, kịp đua tranh kiếm sống trên các đường phố luôn ù ù điên loạn như trong một cối xay gió khổng lồ. Chẳng còn ai ở nhà, và lại đúng ba giờ, tr lại sự yên tĩnh như tờ cho ngôi nhà. Tôi lắng nghe. Không còn gì nữa! Tôi rờ tay lên mặt sàn đá nhẵn, ni bố và mẹ tôi nằm. Tôi thấy mồ hôi nhà lan lạnh trên những ngón tay của tôi. Tôi chợt nhớ tới phiên bn bức tranh Phố Phái, định gửi cho cái thằng tóc chẻ ngôi giữa. Tôi lấy bút xóa đi dòng chữ hôm trước tôi ghi: Phố Cổ. Tôi yên lặng nửa giờ để cảm nhận lại toàn bộ mọi sự kiện kiện. Tính tháng, tôi đã hơn mười sáu tuổi. Tôi nắn nót viết hai chữ rất đẹp Phố Cũ thay lên dòng chữ Phố Cổ. Chiều. Tôi ra bưu điện gửi bức tranh cho thằng bạn. Lòng nhẹ như vừa nhẩy qua một con suối rộng.
Tháng tám năm sau, mẹ tôi vui vẻ báo cho c nhà, sẽ dồn tiền để mua một căn hộ ni chung cư mới xây ở ngoại thành.
Tháng tám. Đêm ấy mẹ tôi thì thầm nói với cha tôi:
-Vợ chú Long vô sinh rồi. Lớn tuổi quá, ung thư dạ con, bây giờ muốn sinh một mụn con mà chẳng có được!
Hà Nội- Xuân 2003
NVT
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Chú thích :
1-Tên một bài hát của nữ ca sỹ đang được giới trẻ ưa chuộng Jennifer Lopez.
2-Dưng Tranh - Đàn Đáy- Đàn dưng. Đàn Nguyệt là đàn âm
3-Lời trong một điệu hát ca trù nổi tiếng : Hồng Hồng Tuyết Tuyết.
4- Loại xe đời mới nhất rất đắt đang là moden tại Việt nam



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Toanli
post Apr 6 2003, 05:20 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #8

Regular Member


Nhóm: Dân làng Ven
Số bài viết: 222
Tham gia từ: 4-December 02
Thành viên thứ: 606

Tiền mặt hiện có : 913$
Số tuần chưa đóng thuế : 4

Bình chọn :



trong chùm thơ của Giăng

Tôi đi xa ba tháng
về mang theo mùa hạ
cả nỗi buồn,
em nhớ thưng tôi?

Tôi về lại căn phòng cũ
Một dòng sông dâng lên như cũ
Vẫn ba giờ
tìm ấm pha trà
tìm bút
tìm dòng thư hôm nào viết dở

Tôi tự nhủ
Bây giờ mày già rồi
Sống hơn năm mươi năm
hơn ba mươi năm thân cò lặn lội
thuyền sông nước mắt yêu thương phản bội
thất bại tôi nhiều chiến công tôi ít
hoa tôi nở gai qua từng lỗ chân lông
Đừng khóc nữa
dẫu nơi đây tôi ít
thèm cả kẻ thù mắng chửi
thèm cả lời ru đêm tối
thèm một câu nói dối lỡ buổi hẹn hò...

Tôi lại
Ba giờ sáng
Máu ở đâu loang chuyện bâng quơ
Những câu chuyện qua con mắt rắn
Nhạt phèo vô vị…

Nhưng tôi biết hay còn em biết?
một lời rơi
câu tan nát - ngọc bên lề...


tháng 4



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Toanli
post Apr 8 2003, 11:02 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #9

Regular Member


Nhóm: Dân làng Ven
Số bài viết: 222
Tham gia từ: 4-December 02
Thành viên thứ: 606

Tiền mặt hiện có : 913$
Số tuần chưa đóng thuế : 4

Bình chọn :



Chương II Phố cũ

Bạn có vui không, nếu hôm nay là ngày nhận bằng tốt nghiệp tú tài và bạn bắt đầu bước vào tuổi mười tám? Đa số đám nữ sinh mặc tà áo dài trắng muốt, sẽ tr lời tăm tắp mấy ông phóng viên báo Hoa Học Trò, rằng chúng tôi sẽ vui cực và cười như hoa nở khi dứt nồm.
Tôi bình thản báo tin tốt nghiệp cho cha mẹ và là thực kỹ chiếc áo dài lụa trắng vào đêm trước. Mẹ tôi bảo, Hương à, từ mai con thực sự là người lớn rồi đấy!
Mắt bà đầy trìu mến, mở to, sáng và tôi có cảm giác truyền sang tôi sự ấm áp, hạnh phúc. Cha tôi dúi vào tay tôi tờ giấy hai chục ngàn còn láng coóng, rồi bĩu môi với mẹ: “Khi mười tám tuổi, anh đã đánh hn ba mưi trận và đào hố chôn tới tám thằng bạn!’’
Tôi không dám cãi cha tôi. Tự dưng tôi nhớ lời thầy Vương khi thầy kể về các danh nhân: “Moda viết nhạc khi sáu tuổi. Vũ Trọng Phụng trình làng tiểu thuyết khi ông mười bẩy tuổi...’’ Và, cô ca sỹ Lopez thần tượng của lũ con gái chúng tôi, nổi tiếng khắp thế giới khi chưa đầy mười sáu. Thế hệ cha tôi? Đi trận. Giết giặc. Gìn giữ một bờ cõi thống nhất của đất nước...Biết bao gian khổ hy sinh để “Những kinh nghiệm, vốn sống chẳng còn hữu dụng trong thời bình” Theo đánh giá của mẹ tôi. Còn lũ chúng tôi? Ăn hại?!Trẻ ranh!? Tôi nhói tim, thấy thương ông và thương mình.
Quả là buổi nhận bằng hôm đó tại sân trường nhộn nhịp hơn ngày thường. Sau vài tháng bận cấp tập học, luyện và thi, giờ được nhìn lại nhau kỹ một chút. Những đứa con trai đứng khoanh tay, có đứa hôm nay tự nhiên ria mép lún phún và chỉ trỏ, chân đứng dạng, tỏ vẻ đăm chiêu. Lũ con gái túm tụm thành từng nhóm và bình luận, thằng này tồ, thằng kia quá lố và có đứa nhăn mũi khi đi qua mấy thằng con nhà mới phất lên cứ ra cái điều khi tới trường lấy bằng với mấy chiếc Dylan(1) A Còng láng nhẫy.
Tôi chợt buồn.
Thế là vĩnh viễn không còn tuổi học trò và rồi sau đây lại lao vào học thi như điên để kiếm một chỗ nào đó trong trường đại học cho mình và thỏa lòng mong muốn của cha mẹ. Con Vân, bạn thân tôi liếm môi, làm ánh thêm chút màu son nâu: “Vô tư đi mày!” Nó cười, nói rổn rảng, không hề có khuôn mặt đưa đám của lũ bạn cùng lớp. Đêm qua hai đứa đi uống nước trên Hồ Tây, nó ch bo, tao sẽ lấy chồng, tao sẽ sinh con, tao sẽ mở một tiệm gia truyền bán đồ lưu niệm cho mấy thằng tây ba lô và thế là tàn hết đời!
Tôi nhìn chòng chọc xuống mặt hồ tây lấp lánh dưới vòm trời đầy sao và trăng, bao la xanh đen, sóng bạc cao lên trong gió, hình dung thấy cái tiệm bán đồ lưu niệm của Chương, anh Vân. Những mặt nạ, người, thú, đen, đỏ, trắng, vàng v…v…Tôi tiếc cho anh Chương. Đã có thời, anh nó là thần tượng của tôi và Vân. Đẹp trai, học giỏi. Tốt nghiệp mỹ thuật công nghiệp loại bằng đỏ chót và cái gì cũng biết. Thế nhưng anh Chương mải chi lắm. Hai năm liền làm việc ở đâu cũng chỉ độ ba bốn tháng lại bỏ. “Mẹ tao khóc hết c nước mắt”. Cũng qua Vân, anh Chương biến chứng từ khi cặp bồ với Huynh râu dê, dân làng chơi Hàng Bạc. Tôi nhớ, có lần anh Chưong nói, cuộc đời khó nhất là nghề chơi! Bọn nghệ sỹ mới có tí, tưởng là ngang được vương bá với vương quyền là thứ ngu nhất hạng. Tất cả bị đè bẹp bởi vương tiền!
Điều anh Chưong nói, với tôi, tối nghĩa, khó hiểu, nhưng xem ra anh có ý trí kiếm nhiều tiền ghê gớm. Thoắt một cái, anh bỏ chơi bời, nhậu nhẹt, chăm bẵm làm ăn xoay đổi xoành xoạch, cải tạo nhà thành cửa hiệu. Tôi và Vân từ xưa như con chấy cắn đôi, có lẽ từ năm nay là kỳ điểm trời bắt mỗi người mỗi hướng. Ba tháng nay, mẹ nó ốm liệt giường, không thể hỏi nó sẽ thi vào trường nào. Hai đứa yên lặng tới nửa tiếng cho mỗi đứa đuổi theo một ý nghĩ. Rồi con Vân bộc lộ hết mọi sự suy nghĩ. Giọng nó lạnh tanh. Tôi lặng nghe nó nhẩm tính rằng, nhà chỉ có hai anh em. Anh nó dứt khoát sẽ chiếm cái nhà có mặt tiền rộng nhất. Nó sẽ ở gian nhà xưởng phía sau với những tấm gỗ khắc âm bản câm cha nó để lại và có chái mặt tiền nhỏ, ngang ba mét nhưng mỗi mét những bốn nhăm cây vàng chứ chả kém hn một phân! Đấy là sự thật. Sự thật thì có thể xy ra và xy ra nhan nhn ở khắp mọi phố ngõ quanh chúng tôi. Tôi yêu một phần, một phần muốn lảng tránh, kinh tởm và khinh bỉ, còn Vân thì nhơn nhơn nhìn vào tất cả. Kháng cự? Con Vân lại chấp nhận nó và chuẩn bị sẵn thái độ. Đứa nào đúng? Năm tháng hay điều gì làm mỗi lứa người có những điểm khác nhau?
Thời kỳ cha mẹ tôi, cứ như họ kể lại, sớm vất vả, chinh chiến, nhưng không nhiều lo toan, lòng trong sáng. Chúng tôi có thể không như vậy! Cha tôi thường bo: bọn mày sướng lắm! Thời tao, cái quần lành không có mà mặc. Vâng, bây giờ chúng tôi gần xênh sang, no đủ. Nhưng hình như con Vân suốt ngày kêu Vô tư đi mà tôi ch thấy vô tư chút nào?
Tôi buồn. Chẳng nhẽ con người ta sinh ra rồi đi theo đúng những con đường tẻ nhạt và chết đi đúng hạn kì, làm mồi cho giun dế? Tôi chợt nghĩ tới bà Hưng mù. Bà già hàng xóm trên nóc nhà tôi năm nào, hay hát và yêu tiếng hát của bà Hồ. Tính ra, bà ấy sống bảy nhăm tuổi. Hai nhăm năm mù lòa. Ô, thế là bà già lòa ấy đã đi hơn năm rồi. Người ta có linh hồn! Nếu theo cuốn sách Quan niệm triết học đông phương cơ bản tôi vừa đọc, thì linh hồn bà đã tới kỳ bước vào tầng Sát na nào, hay còn chờ đợi ở cõi đất âm u và giá lạnh để cầu mong mỗi lần giỗ, một vài tuần hưng của con trai bà, chú Long và mâm cỗ ê hề thịt, chả, xôi, đôi khi cả xúc xích tây, vài bó đô la Mỹ âm phủ?
Tôi năm nay đã mười tám tuổi. Làn da mịn màng như rắc phấn và cặp vú chẳng còn chum chủm qu cau nữa. Đôi khi tắm, tôi nhìn vào gưng rồi nhìn xuống và chợt nhận ra tôi đang đẹp. Hôm nào, sinh nhật thứ mười bẩy, chú Minh Kha, chữa đồng hồ gia truyền đầu nhà, dạo này không làm th mà chuyển sang chụp nh nghệ thuật cứ mời tôi có dịp về nhà cũ, lên phòng chú, để chú chụp tôi một pô. Tôi hay ngượng. Đứa con gái nào mười bẩy chả hay ngượng, nhất là khi đôi mắt chú cứ xoay xoáy nhìn… Chú Minh Kha nói như dọa: “Chụp một cái nh để lưu giữ cái đẹp. Nay mai già không có cái mà khoe lại tiếc. Hay cháu sợ?” Tôi có sợ gì đâu. Nhưng thú thực, không tin vào tay nghề những nghệ sỹ lắm nghề như chú. Vả lại, những kiểu ảnh xi nê ấy tôi không thích lắm, cho là nó chụp trong các hiệu tân thời hôm nay, nhan nhản Studio khắp Hà Nội nữa là. Thế nhưng chú Kha có lý. Ai chẳng sẽ già đi! Vậy cái đẹp tới và sẽ ra đi một cách vô nghĩa trong lối vết của một con đường cố định chăng? Tôi xoa ngón tay lên môi đang tươi, lên má như rắc phấn hồng, di ngón tay vẽ lên bộ ngực hồng trắng ngần của tôi những vệt ngoằn ngoèo. Còn vẻ đẹp nào trong mi chẳng già nua, chẳng tàn phai?
Gia đình tôi từ khi rời phố cũ. Mẹ, vẫn bà bán bún ngan gia truyền đã thuê cửa hàng ở phố Hàng Cân và căn hộ ngoại ô chúng tôi có những hai phòng, dù cũ, nhưng cũng tránh đi sự chật chội, chung đụng có thể bội sinh lòng yêu trộn trong sự ghê sợ một cách bột phát như tôi hồi mười sáu tuổi!
Hôm quay lại thăm nhà cũ, cái ống bớt đi bốn hộ, bớt đi mười ba nhân khẩu chẳng thấy rộng ra mấy như trong tâm tưởng. Vẫn ánh sáng nhập nhoạng, ngày chẳng ra ngày, đêm chẳng ra đêm. Cái bể nước đứng trơ vơ dưới luồng sáng duy nhất giữa ống nhà, vắng tanh, không có thằng oắt Tâm đứng vầy cu như hồi nó còn mười hai mười ba. Cái ngõ ra vào dường như hẹp hơn trước. Tôi lên thắp hương cho bà Hương lòa. Nhìn lên tấm ảnh. Tấm ảnh chú Long nhờ cửa hàng vi tính sửa lại, xóa đi hai lỗ dế, tạo thành hai con mắt. Đôi mắt của máy vi tính trao cho bà cứ trân trân nhìn tôi, dại và lạ. Trong bóng kính và nến, mắt vẫn như tứa ra hai giọt nước nhựa long lanh! Bọn chuột thấy người quen tới, rinh rích chạy làm đong đưa ban thờ, tấm gỗ nhỏ, hai góc có hai sợi giây thép néo vào tường. Tôi nhìn thấy cái máy nghe nhạc của bà Hương ngày xưa vẫn nghe ca trù, nay chú Long vứt bên hiên. Từ cái máy cũ này, suốt bao năm vẫn phát ra giọng hát của kì nữ bậc nhất vô nhị đây. Tôi vô tình bật vào ổ xả để chiếc băng nhạc Sony nhô ra. Tôi đi xuống đường qua cái cửa hẹp, cái lỗ tự vệ thành Thăng Long ngày xưa đã đục ra giữ gìn từng mét đất Hà Nội. Trong túi có cái băng nhạc vừa xin được. Chú Long bo, ừ, cháu lấy đi, ở nhà này ch ai nghe thứ ấy! Nghe nói, cô Huyền út ít của bà Hưng lòa vừa lấy chồng. Cô lấy một ông tây nào đó trong công ty X phi chính phủ, nghiên cứu giúp ta về phòng chống Hiv. Dù sao cũng hơn thân phận hai cô Điệp và Hà “ế xưng ế xỉa”, thoát cảnh phải ngủ trên những tấm ván nhét vào hai kẽ tường chỉ hình thành vào đêm, trong gian phòng chật thấp của vợ chồng chú Long. Nhưng cô Huyền có buồn không, khi phải ở tận úc một mình? Chắc là buồn! Là càng nhớ tới phố phường Hà Nội, cho dù chưa bao giờ tráng lệ như Mel của cô.
Tới cửa, ánh sáng bừng ra chói lòa cả mắt, y trang thể vừa chui ra khỏi đường hầm thì gặp thằng Tâm oắt ngày nào. “Hê, Hương, mày lặn đâu mà lâu lắm tao mới trông thấy?” Thằng Tâm oắt hất đầu hỏi. Nó đã lớn, trông già hơn tuổi mười sáu. Nghe nói, nó bỏ học, đứng trông gian hàng khô cho mẹ nó trong chợ Đồng Xuân. Tôi cười, không nói, lướt qua mặt nó. Nó mặc chiếc quần Jin, áo phông có con đại bàng xòe cánh. Cái đầu phun đẫm keo ướt nhượt, vài sợi vàng hoe như râu ngô.
Bye! Nó chữa ngượng, đuổi theo tôi bằng một lời chào! Tôi có cảm giác khi đi qua nó, vẫn cái mùi âm ẩm do nhà cu cậu đứng vần bên cạnh hố xí chung! Cô Tuyết vợ chú Long, khi nãy bảo : ‘‘Hơn xưa rồi! Đỡ đi nhiều, bớt cảnh vò giấy, ho giục giã hồi nào cháu ạ!’’ Vâng, tôi hiểu, người ta đã xây hai hố xí tự hoại cho ngôi nhà và bốn hộ đã tự xây chỗ vệ sinh riêng.
Tôi rẽ sang phố Hàng Trống định thăm mẹ con Vân thì chợt nhớ việc nhờ thầy Vương chủ nhiệm mười hai B chúng tôi. Nhà thầy ở phố Hàng Bông! Căn hộ nằm trên một tiệm bán mũ. Tôi bước lên cầu thang và thấy thầy đang tưới chậu hoa mộc. Mấy chậu hoa dành dành làm không khí ngọt ngào, thm mát. ‘‘Em chào thầy!’’ ‘‘Lên đây Hương! Thầy đã mượn cho em tất cả tài liệu ôn thi, các đề thi mới nhất rồi’’ Tôi bước vào gian nhà mười sáu mét vuông của người đàn ông độc thân. Thầy Vương năm nay đã hn bốn chục tuổi. Nhà thầy đúng là gia truyền dạy học chứ không phi gia truyền kèm học sinh ôn thi đại học hay tốt nghiệp. Tôi đã ba lần bước lên ngôi nhà này. Lần thứ nhất trong Ngày nhà giáo, lần thứ hai là ngày sinh nhật thầy. Hôm nay, lần thứ ba! Thú thực, đây là người duy nhất trong trường, học sinh trung học chúng tôi tin cậy và yêu quý. Thầy dạy văn kiêm giáo viên chủ nhiệm lớp. Sự tin cậy người đời của mẹ, nhất là của cha tôi, nhiều khi bắt nguồn từ những điều vớ vẩn cảm tính. Sự tin cậy người đời của lũ chúng tôi hôm nay không hẳn như vậy. Thầy là người duy nhất nhắc lũ chúng tôi mang ba cân táo Mỹ biếu thầy là bất hợp lý trong dịp Ngày nhà giáo. Lại cười độ lượng, sau khi nhận bó hoa tươi thắm của lũ con gái nhất quỷ nhì ma, chia cho mỗi đứa một đóa hoa făng đỏ ấm mà thầy giới thiệu: ‘‘Hoa này của một người lính tận hải đảo vừa về thăm thầy’’. Thầy dạy hay. Rất dề tiếp thu và hấp dẫn (theo tôi, việc gì trên đời cũng cần hấp dẫn. ‘‘Hấp dẫn đẩy công việc đến nghề nghiệp, tới nghệ thuật’’Ai đã nói vậy nhỉ ?) Chính do vậy, tôi hiểu rằng, người mặc áo dài màu nâu có bộ râu dài kia là ông thầy; người mang bộ com lê trắng là thân sinh ra thầy và kế bên là nh thờ mẹ thầy. Một người có khuôn mặt rất đẹp, phúc hậu giống hệt bà nội tôi. Họ bên nhau trên ban thờ, yên lặng bao lâu rồi, trong mùi trầm? Trên tường không hề có chứng chỉ nhà giáo ưu tú như nhà các thầy cô khác mà sự tin tưởng của học trò chúng tôi vẫn ăm ắp vì mấy duyên cớ cụ thể đại loại như vậy. Có thể vì thế tôi tự tin lên nhà thầy? Hay nữa là thầy là người duy nhất tin tưởng và động viên tôi tự tôi vượt cạn ở kỳ thi tốt nghiệp vừa qua và kỳ thi đại học kỳ này? Việc này lại có liên quan tới cha mẹ tôi. Khi mẹ tôi nói, Hương ơi, con đã là người lớn rồi đấy nhưng mẹ tôi vẫn luôn lo sợ mỗi khi tôi tự mình làm việc gì. Với cha, ông rõ ràng coi tôi vẫn là trẻ ranh nứt mắt. Chính vì thế, tôi biết, cha mẹ tôi vẫn cho tiền để học thêm như mọi đứa nếu tôi vòi. Nhưng sau những sự kiện xảy ra ở tuổi mười sáu và khi biết mẹ tôi còn gánh nợ những hai nhăm triệu khi bán phòng ở phố cũ mua nhà ngoại ô, thì tôi quyết tự học để vào đại học. Nhưng cả cha và mẹ không tin vào sự quyết tâm của tôi. “Cả thiên hạ học kèm và học thi còn trượt oành oạch ra đấy con ạ!” “Cứ chủ quan. Cha không cần tiết kiệm!” Những lời như vậy thi thong vang lên, còn tôi thì cam chịu là đứa con bướng bỉnh. Đứa trẻ bướng bỉnh, không muốn tự mình hoen ố và lấy những giọt mồ hôi của chính mẹ làm hồ xây nấc thanh học vấn cho mình!
Mùa ôn thi năm ấy trôi đi căng thẳng hết chỗ nói. Tôi học bò trên sàn đá hoa nhơm nhớp mồ hôi. Tôi cần phải chứng tỏ bản thân mình hơn là tránh đi cái nhìn ngờ vực của cha khi thấy tôi thi thỏang tư lự. Sự vật lộn có thể thái quá hay cn áp thấp nhiệt đới số by ùa tới bất ngờ làm tôi lăn ra ốm mất đúng một tuần. Con Vân, tuần trước còn cười ngặt nghẽo mấy lần, khi chớp nhoàng tới chi, thấy tôi nằm bò trên sàn đá viết viết, chép chép, thì tuần này mất hút. Tôi ốm ngày thứ ba biết nguyên do nó không tới. Mẹ nó đang hấp hối trong bệnh viện. Ngày thứ bốn, mẹ nó mất. Anh nó báo qua điện thoại.
Mẹ Vân mất ư? Tôi ốm, sốt hơn ba chín độ, không tới đưa bà như đã đưa tang bà Hương lòa. Nghĩa tử là nghĩa tận! Cha tôi thay mặt gia đình tới phúng mẹ Vân. Sau này tôi được nghe kể lại, rằng đám tang mẹ Vân vắng. Nhiều người bạn bè bà đã ra đi trước đó. Dân phố gốc Hàng Trống cũng thưa dần, nhường chỗ cho đám người từ đâu, mới giầu lên, nên không mấy ai biết bà. “Tới chia buồn thì đông nhưng đưa đám thì lèo tèo, ba chục người gì đó.” Tôi vẫn hâm hấp sốt. Tôi nằm mà thương cho Vân. Nó giờ này chắc buồn vô tận vì từ ngày cha nó mất, mẹ nó chính là ni dựa dẫm duy nhất của nó về mọi mặt. Từ nay, nó sống với ông Chương quyết chí ham giầu ấy, không biết sẽ ra sao? Tối. Tôi thiếp đi sau khi uống thuốc sau khi mẹ bắt xông trong cái chăn trùm kín và bị ép uống ngay một cốc nước lá xông cực nóng, đắng trào nước mắt. Tối đó, ngủ êm nhưng gần sáng lại m một giấc m thực lạ. Tôi m thấy tôi đi trong đám tang của mẹ Vân. Đám tang rồng rắn lượn từ Hàng Trống ra Bờ Hồ như đám rước lân rằm tháng tám. Đám tang không kèn trống, lại có nhã nhạc tưng bừng như điệu ca trù bà Hương mù hay hát. Và, không thể tin là trong mơ, vì sao tôi toàn thấy những con thú theo sau đám quan tài mẹ Vân. Cạnh tôi và Vân, một đoàn chuột cầm lọng và chú mèo đi ngênh ngang, vịn vào quan tài. Một đàn gà trống đông vô kể, đuôi cong sặc sỡ và nhiều chú lợn có những khoanh vòng xoắn…tất cả đều là xúc vật, trừ bẩy người khuân quan tài lại là những đứa trẻ đóng khố và để tóc trái đào. Chúng tôi bồng bềnh đi sau mẹ vân làm tôi sợ hãi rú lên để tỉnh lại. Tới sáng, tôi nhớ lại, chúng rõ, cái đám tang rõ ràng bước ra từ đám ván tranh gỗ khắc âm bản của tổ tiên Vân để lại. Đám ván khắc không nói, chết lặng bấy nay ở xưởng sau nhà, những buổi tối khi tôi và Vân mới mười sáu tuổi, thấy chúng chập chờn, kì ảo trong những đêm mất điện, bên những cây nến thắp lung linh.
Ngày sau, tôi dứt đau đầu và tới thắp hương cho mẹ Vân. Thực bất ngờ, gian phòng mặt tiền nhà Vân đã sơn sửa trắng lốp tự khi nào, làm ngôi nhà lạ lẫm sáng bừng lên, sau tấm kính thay cửa lớn trong suốt như pha lê. Tôi bước vào ngỡ ngàng khi thấy hơn một trăm bức ván cũ, những tấm khắc in tranh âm bản xưa phủ đầy bụi giờ được lau chùi và hình như còn quang một lớp dầu mỏng. Chúng được bầy biện khắp ơni một cách kỳ khu. Những người lạ tíu tít ra vào và anh Vân đi đi, lại lại, chắp tay sau đít mồm ngậm thuốc Siga Mor dáng đăm chiêu. “Vân đâu anh?’’ Anh Vân không thèm nhìn, hất hàm chỉ vào nhà sau. Tôi xuống nhà qua cái sân gạch Bát Tràng đã được lau kỹ, sáng màu nâu óng. Nhiều chậu cây khuân về từ đâu tạo thành vẻ lịch lãm hết nói. Chái xưởng sau cũng hồng lên bởi nước sơn ngoại. Con Vân đang đứng trước gưng và cạnh nó một đống áo dài, váy đầm. “Sao thế mày?’’ Tôi hỏi, tay khư khư bó hưng và buộc hoa huệ, loại hoa mà tôi biết, mẹ Vân thường mua cắm trên ban thờ cha Vân. ‘‘Có sao đâu. Ngày mai anh tao mở triển lãm, Maketinh toàn bộ đám gỗ mục kia!’’ Con Vân vẫn chăm chú nhìn vào gương không chớp mắt. Nó thực lộng lễnh trong chiếc váy phớt tím như ngày hội hóa trang. Nó là nàng Jenny! ‘‘Mày thấy thế nào?’’ ‘‘Thấy thế nào. Bàn thờ mẹ đâu?’’ ‘‘Dưới bếp ấy. Anh tao vừa dọn tạm xuống đó!’’
Tôi xuống bếp. Bàn thờ cha và mẹ Vân kê trên chiếc tủ cũ chen giữa đám xoong, nồi, cho và vài thứ đồ cũ lỉnh kỉnh la liệt. Đám tường, mồ hóng và nước ẩm mốc bao nhiêu năm như một bức tranh siêu thực, giờ đây tạm làm phông cho hai chiếc ảnh như đang quở mắng trong ánh mắt nhìn thẳng vào tôi của cha, mẹ Vân. Tôi thắp hưng. Nhắm mắt. Lầm rầm khấn. Mồm khấn nhưng trong óc lại lầm thầm vọt ra ý nghĩ, ta phải đỗ, ta phải học thực giỏi. Ta phải kiếm thực nhiều tiền! Xin rồi mà tâm tôi khi ấy chả yên lành chút nào. Tự nhiên như văng vẳng đâu, như từ tiềm thức xa vời của tôi:
…Mới ngày nào chẳng biết cái chi chi….(2)
Tom… Tom… Tom…..
Tôi lên nhà: “Tao không hiểu cái gì!”. “Hư, tao chán ngấy cái cảnh lại cãi nhau với anh tao như mẹ với ông Chưng hồi nào. Mày biết đấy, để ông ấy bán quách đi cho rồi. Bọn họa sỹ bè bạn anh tao bảo, những gần năm chục ngàn đô đấy. Hic! Thôi để tao yên. Đằng nào tao chẳng thi trượt! Mà có đỗ thì cũng về nhà buôn bán thôi. Tao không có kiên nhẫn để đi xin việc khắp ni và quỵ lụy trước các tân ông chủ nhà nước hay tư nhân như đám tỉnh lẻ cam chịu.”
Vân đi ra sân. Tôi theo nó. Đám khách lạ ùa ra và một gã râu ria lồm sồm, đầu lại trọc lốc như bọn phát xít mới từ đâu ra xoắn lấy Vân. Tất nhiên hắn có liếc xéo sang tôi.
Tôi về. Rẽ qua nhà thầy Vương. Hừ, trong đầu tôi khi ấy cứ vang lên lời anh Vân nói:
-Cô tưởng là những tấm gỗ này tồn tại mãi trong nghèo nàn ư? Cô tưởng là chỉ mình cô yêu những mảnh ván mục ấy ư? Nghệ thuật tồn tại và phát triển nhờ tiền. Nghệ thuật muốn tiến lên phải dựa vào bọn giầu có như tôi nay mai. Cô xem những bức tranh của Picatsso, Laganh, Vangoc đang trong tay ai, cho cả nhân loại còn mà thưởng thức mãi mãi. Những thứ đó rơi vào tay cô nhỉ? Ba ngày thì xông mối cả. Bộ sưu tập đồ cổ, lớn nhất nước, hôm nay có được, trong tay ai cô biết không? Nếu lăn lóc bảo tồn ở mấy nhà ông bà nông dân, liệu có còn cái quai bình vôi sứt không? Cô chán bỏ mẹ! Cũng ngu dốt như bọn nào đó thôi. Tôi không gìn giữ được di vật tổ tiên. Tôi lại cần xe mới. Tôi nhờ mấy thằng nhà giầu giữ hộ. Tôi có tiền! Cả hai bên đều có lợi! Cô hiểu chưa? Xin cô! Lạy thánh mớ bái!
Ô! Anh Vân có lý. Tôi bại. Nhưng tôi vẫn áy náy và cảm thấy bất nhẫn thế nào. Vậy lỗi tại ai?
Tôi lên thang gác nhà thầy Vương. Ra xuân, đám hoa mộc tỏa hương tinh khiết thoang thong bay, dâng lên không gian quanh nó một sự cao quý không sao tả nổi. Thầy đang ngồi đọc sách và đứng lên lấy ghế: “Thầy trò mình ngồi đây cho dễ thở. Em học đến đâu rồi? Có khó khăn gì không?” “Dạ thưa thầy, không ạ!” “Có việc gì không em?” Thầy ân cần.
Tôi im lặng. Lòng chợt bật lên câu hỏi, tại sao những khi tôi buồn tôi lại muốn lên đây? Tới bên thầy và dường như sau đấy, bao giờ cũng vi đi cái gì đó nằng nặng và thấy thư thới? Hôm nay tôi buồn. “Thưa thầy! Tình yêu là gì?” Thầy vương đặt tách trà còn nghi ngút khói xuống bàn, tỏ rõ vẻ ngạc nhiên trong ánh mắt hiền dịu trước câu hỏi của tôi. “Em yêu rồi phải không?’’ Thầy nghiêm túc và lo lắng. Không, thưa thầy! Tôi đáp, không cười. Thầy có vẻ ái ngại. Thầy ơi, thầy là chỗ dựa lớn lao của em bấy nay. Thầy là người duy nhất tin em có thể vượt qua tất cả. Vậy mà thầy vẫn luôn coi em còn bé. Tôi muốn nói với thầy Vương rằng, tôi đã lớn. Rằng, em đã là một thiếu nữ và có quyền như bất kỳ người lớn nào như luật pháp đã ghi trong văn bản mà thầy đã dậy. Nhưng thú thực, sao tôi có thể khi nào cũng dũng cảm nói lên tất cả những gì suy nghĩ. Nhất là trước tôi, thầy Vưng như một cái bóng lớn. Một tấm gương lớn về lòng nhân ái...
Yên tĩnh lạ thường. Dường như khi ấy tôi cảm giác người ta nói đúng, mắt con trai, tai con gái. Tôi mười tám tuổi! Nghe thấy cả tiếng lá rơi nhẹ đụng xuống thềm xi măng và tiếng gió nao nao thổi dọc hành lang. Thầy Vương trầm ngâm một lát rồi nghiêm túc: “Tình yêu là một trạng thái tình cảm của muôn loài. Nhưng chỉ ở loài người, tình yêu mới biểu hiện là một bộ phận của văn hóa. Tùy theo lịch sử, không gian, tiến trình tình yêu nam nữ, trai gái, vợ chồng …” Tai tôi ù ù như có con ong đập cánh và tôi không biết, không thiết thầy Vưng nói gì nữa.
Tôi đi xuống phố. Đây là lần đầu tiên tôi lại thấy buồn, thấy bất an khi rời khỏi nhà thầy.
Tôi đã mười tám tuổi. Nhưng dưới con mắt của người lớn thì đa phần chúng tôi vẫn là lũ trẻ ranh. Một lũ trẻ ranh chỉ biết làm những điều rồ rại. Tháo phanh chạy như điên trên đường bằng những thứ xe ga bốc nhất. Một lũ trẻ ranh không thể tự tìm ra từng những con đường của mình, rất dễ trượt ngã. Một lũ trẻ ranh biết gì mà yêu với đương trong thế giới đầy cạm bẫy, sẵn sàng sập xuống những con mồi ngu ng, th ngây như thỏ.
Tôi đi trong ngõ cũ. Những cửa hiệu sáng choang làm cái ngõ như rộng và sáng thêm. Nhưng thực ra, tôi đo vẫn chỉ ba bước chân chiều ngang. Tôi vòng qua Hàng Bông và leo lên tháp Cá Mập ngồi một mình. Tôi không hề khóc như ngày mười sáu tuổi. Tôi đã lớn. Chỉ còn ba ngày nữa là kỳ thi đại học bắt đầu và người ta sẽ dứt khoát phi trịnh trọng ghi danh Nguyễn Thị Kỳ Hưng vào một trường đại học nào đó. Tôi sẽ học thực giỏi và yêu say đắm một người con trai đàng hoàng tưng xứng về suy nghĩ và tâm hồn để dẫn tới nhà thầy Vưng. Xa tắp ni kia, Tháp Bút vẫn như cái bút bi rất moden chọc lên nền trời xanh. Hà Nội mấy năm nay đã rộng ra nhiều, nên lắm con đường mới, khu ở mới, cả những hàng cây mới. Và, Hà Nội Moden thay đổi xoành xoạch cũng là một cái mới. Đến như cha mẹ tôi cũng vác về hai cái cho chống dính thay cho những cái cho nhôm cũ kỹ. Những chị trẻ đẹp liên tục môi giới, maketing, đưa tin về điện thoại cầm tay hay trăm ngàn mặt hàng để sẵn sàng thay thế hàng hóa đã cũ. Ô tô, xe máy, quần áo và nếu cần, vợ chồng sẵn sàng thay thế đổi mới! Nhưng tại sao, chúng tôi đã lớn, mà ai cũng nhìn chúng tôi như ngày hôm qua, tháng qua và năm qua?
Hà Nội mở rộng, từ tháp Ca Mập nhìn ra, thực quả là mênh mông trong đêm biết bao ngả đổi thay dẫn ra bốn hướng, nhưng những con đường ba mươi sáu phố phường mới hơn dáng bề ngoài nhưng vẫn giữ đường nét cơ bản, vẫn như xưa và vẫn là trung tâm thủ đô Hà Nội. Càng về khuya, thành phố lấp lánh trăm ngàn ánh điện lung linh lạ thường, quen thuộc. Phố cũ. Ngõ cũ. Những ngôi nhà mới! Đó là hai cảm giác của tôi bất chợt tới cùng một lúc và chưa thể cắt nghĩa rõ ràng.
Tôi suy nghĩ miên man.
Thầy Vương đã lớn tuổi mà chưa có gia đình. Với nghề nghiệp thầy là một người thầy mẫu mực như tấm gưng chưa vẩn trong con mắt học trò trường tôi. Thầy là một con người tình cảm. Sự hiếm hoi còn sót lại ở nền kinh tế hôm nay thưng mại hóa trong từng tiết học dạy thêm lũ chúng tôi. Có bữa bàn về Kiều, thầy say mê giảng, làm khối đứa từ trước coi tiết văn là tiết tra tấn, há hốc mồm nghe mà quên c tiếng chuông hết giờ. Thế mới tài chứ , thế mới tình chứ! Hôm nào khi nói về hai câu th: Vừng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường…Vậy mà thầy không lấy vợ? ‘‘Lấy vợ, đâu chỉ là sinh con đẻ cái, nối dài cái thân xác của con người? Đâu chỉ là nưng tựa khi trái gió trở trời, kẻ ốm, người đau?’’ Hôm nào thầy nói vậy. Vậy còn cái gì sau sự kết gặp ấy, tạo thêm giá trị gì cho tâm hồn con người? Sự an bằng mỗi khi tới bên thầy, dẫu cho là trước đó ăm ắp nỗi buồn, có phải là một khía cạnh của tình yêu hay không? Hay là tôi yêu người đàn ông lớn tuổi gần bằng tuổi cha tôi. Như thế nào là ‘‘tình yêu là một bộ phận của văn hóa?’’ Tình yêu của loài người nguyên thủy có văn hóa không? Những rào cn của hiện tại sẽ kết tội tôi là phi đạo đức không, khi tôi có thể yêu một người lớn tuổi kia? Nếu như cha tôi và mẹ tôi biết, rằng tôi có một tình cm như vậy thì câu chuyện sẽ như thế nào? Tôi cười. Không ai có thể hiểu tôi cười vì sao bởi chính tôi cũng không hiểu được nụ cười của tôi cơ mà. Còn tình yêu của cha mẹ tôi. Trong bối cnh năm nào chật chội trên Hàng Đào. Tình yêu của bà Hưng với những băng ca trù. Tình yêu của cha mẹ Vân với những tấm khắc âm bản tranh dân gian…Tất c được sinh sôi và phát triển, chết đi dưới ánh sáng nào? Hay nó bị vô sinh như vợ chú Long, cô Tuyết trong một hoàn cảnh và thời điểm nào đó?
Tháng bẩy. Tôi có tin đỗ thẳng vào hai trường đại học. Tôi chọn trường đại học luật. Cha mẹ tôi làm một mâm cm cúng tổ tiên và mời họ hàng tới dự đông đúc. Tôi báo tin cho thầy Vưng tỏ lòng biết ơn thầy bằng một lá thiếp. Nhưng tôi quyết định không lên căn gác ấy nữa ít ra là trong dịp này.Tôi không biết việc làm ấy đúng hay sai, thầy Vương sẽ vui hay buồn nếu tôi không tới. Còn tôi, dù như vậy, tôi vẫn buồn. Có lẽ nỗi buồn của tôi không ai hiểu nổi vì tôi tự biết chính tôi cũng không thể cắt nghĩa gãy gọn mình.
Vâng. Cuộc sống không giản đơn cắt nghĩa gãy gọn mọi sự việc, con người. Bởi vì năm nay tôi đã tròn mười tám tuổi.
Phần 3 sẽ tiếp theo sau
--------------------------------------------------------------------------------------------------
1- Dylan: Tên một loại xe đang moden, rất đắt tiền hiện tại
2-Lời đoạn đầu bài th phổ ca trù Mưỡu, Hồng Hồng Tuyết Tuyết

Bài viết này được sửa chữa mông má bởi Toanli: Apr 8 2003, 11:09 PM



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Toanli
post May 13 2003, 04:48 AM    
Đường dẫn tới bài viết này #10

Regular Member


Nhóm: Dân làng Ven
Số bài viết: 222
Tham gia từ: 4-December 02
Thành viên thứ: 606

Tiền mặt hiện có : 913$
Số tuần chưa đóng thuế : 4

Bình chọn :



Các bạn trẻ VNE thân mến,
Tháng 12 vừa qua, khi đang viết Vàng Xưa, tôi chứng kiến nhiều chuyện đau lòng cướp bóc xảy ra trên nuớc Đức và viết lại những suy tư về thân phận của nhiều người lao động quanh tôi phải sống thế nào để có miếng cơm manh áo.
Không khí trong truyện, nói như nhà phê bình Văn Chinh, là Ngôi NHà Thổ Hào- xây bằng mảnh sành và chum vại..thậm chí cả những mảnh chai sắc nhọn...
Tôi cho là, truyện ngắn , cái khó nhất không chỉ tái hiện lại cái cảm giác và điều đã quan sát. Muốn dung lượng va đập, làm sống lại điều mình diễn tả thì thủ pháp dựng ở từng câu chuyện đỏi hỏi một giọng, một không khí riêng cho từng tình thế truyện.
Trong truyện ngắn này, không khí cần của nó là, căng như giây đàn sao cho độc giả không có quyền thư nghỉ, để tới phút nào đó giật sợi giây cho màn hạ. Sẽ gây một hiệu ứng nào đó. Hy vọng điều định thực hiện sẽ mang lại kết quả nào đây cho người đọc
Số Xuân vừa qua trên Báo Văn Nghệ đã giới thiệu tác phẩm này, gọi là cây nhà lá vườn, xin giới thiệu trên diễn đàn này mộkt lần nữa.
NVT
Trong Bão Tuyết
truyện ngắn của Nguyễn Văn Thọ

Bây giờ là tháng 12. Sau Noel, tất cả, cả thời gian, dường như đóng đông lại bởi nhiều ngày lễ và nguyên nhân chính là thời tiết quá tồi tệ. Mặt sông, hồ đanh cứng một lớp băng trong suốt. Và gió xoáy thổi ào ào những hạt trắng rắn cứng như cát, suốt từ sáng qua đêm, ngày lại ngày. Mọi năm ấm hơn, thời điểm này hoa Forytchia(1) đã bắt đầu xé vỡ băng giá, xé toạc lớp vỏ khô rộp vì bỏng lạnh, khoe những mầm tơ để ít bữa rực hoa rộn ràng như nắng hạ.

Trước đó ba tháng, tại vùng hắn ở có đứa bạn bị những người đồng hương đột vòm(2). Bọn chó hoang tha đi của gia chủ, bạn gái vợ chồng hắn 15 ngàn Euro tiền hàng.

Hắn bình tĩnh dặn thằng con riêng của vợ: "Tao ở nhà thì không nói gì. Nhưng đi vắng bọn trộm có lọt vào, cứ cho nó lục. Đừng sợ, đừng chống cự. Chẳng thằng nào trên đời này đẩy cửa là bắn luôn, hay chém phăng đầu chủ nhà. Còn nếu nó đông mà tao ở nhà, con chỉ có trách nhiệm gọi điện cho cảnh sát. Còn lại là việc của tao". Đứa trẻ vừa mười tám tuổi, đứng trước hắn, bấy lắm! Nếu ai hơi tinh đời, nhận ngay ra nó như một chú dê tơ, vừa nhu nhú mầm sừng và đối diện là con sói già. Nó nhìn bố dượng nó không chớp và "dạ" nhẹ. Thực ra, thằng bé cũng từng nếm trải. Năm còn ở Hà Tây với ông cậu, cũng từng lang thang trốn nhà đi bụi mấy tháng. Còn khi bà ngoại và ông cậu tống nó ra khỏi nhà, chút xíu nữa nó đã trở thành bụi đời chuyên nghiệp trên sân ga Hàng Cỏ. Nhưng quả thực, nó chưa thấy ai như "lão già" này. Cái gì cũng không lọt khỏi mắt lão' dù một lời nói dối xâu vừa lỗ kim.

Tuy nhiên, ở đời không thể chủ quan được! Đừng khi nào để mình rơi vào cảnh huống bị động! Hắn nghĩ vậy và tìm cách giấu tiền. Tổng số 25 ngàn Eu. Hắn đếm hai lần số tiền trước khi niêm phong chiếc phong bì chống ẩm, lại viết số tiền lên mặt phong bì, cẩn thận ghi ngày tháng. Hắn để tiền trên hốc nóc tủ ngoài hành lang, nơi có hộp công tắc(3) lõm vào. Hắn nghĩ, giấu chỗ này, tưởng sơ sài nhưng sẽ gây bất ngờ. Hắn chặn hai cuốn địa chỉ điện thoại nặng chịch lên cái gói tiền. Tại đó có cái hốc nhỏ, nếu ai kéo cuốn điện thoại, túi tiền sẽ rơi ngay xuống đó mà chạy xuống đằng sau chiếc tủ cao nặng đã bị phích bằng hai bộ ốc vào tường. Việc giấu tiền thực hiện sau ngày bạn hắn bị đột vòm: Ba tháng rồi!

Hôm ấy là chúa nhật. Gió thổi khốc liệt hơn. Lạnh tới mức hắn và vợ nghỉ hai buổi chợ. Thời gian ngày nghỉ như dài ra, trôi chậm lại. Hai buổi chợ mất đứt hai trăm Eu là ít! Đúng vào tuần lương của Đức: Đúng ngày sát Noel! Vợ hắn cứ đi ra lại đi vào. Luôn chép miệng và ngó ra ngoài trời.

- Năm nay việc buôn bán thực quá tồi tệ. Mình đã ăn lẹm vào vốn cái. Bù vào tiền ăn của nhà ta, chi nước thải, nước nóng trội ra, và điện, chi chữa xe, tiền bảo hiểm sức khoẻ, từ năm thêm thằng con em, bảo hiểm ép tăng nữa. Tất cả hơn tám ngàn.

Hắn nói với vợ. "Vâng, em biết. Từ khi đổi tiền mới, cái gì chẳng tăng giá. Tốn kém!". Người vợ đang nhặt nhạnh mấy túi ni lon bao bì gấp xếp cẩn thận, để dùng cho việc lặt nhặt trong nhà, mà nhẽ ra phải chi mấy chục cent từng tháng.

- Đồng US lại tụt rồi! - Hắn nhả khói thuốc lên trần nhà. Tách một cái, mẩu thuốc bay lên lọt đúng vào cái gạt tàn để cách hắn hai tầm với. Màn hình nhoang nhoáng chuyển từ tin tài chính sang tin Mỹ mang lính đi chuẩn bị choảng nhau. Khuôn mặt hắn bị ánh sáng hắt ra, nhợt nhạt, hơi lạnh. Cái đi văng cũ, da mềm màu huyết dụ, vừa là chỗ ngủ của hắn vừa là nơi tiếp khách, phát ra tiếng kêu ọt ẹt. - Ông xem thế nào. Kỳ phép này của ông, mang US về mà chi. Em tính, để Euro lại, sau này có giá đấy. - Tiếng người vợ nói vọng vào.

- "Ừ, sẽ mang tiền US về. Cô ở lại khi tuyết, gió quá đừng tham mà ra chợ. Bây giờ hai đứa đã có tuổi. Có giàu thì giàu rồi. Ngộ nhỡ, cô ốm lăn ra thì chả bõ. Tôi thu xếp xong mọi việc ở Hà Nội sẽ sang ngay với ba mẹ con". Hắn nhẩn nha.

Cái câu có giàu thì giàu rồi mỗi lần gã nói làm người đàn bà đau thót tim. Chị vẫn thế. Số tiền hơn bảy chục ngàn US gửi mẹ đẻ của chị ở Hà Tây đã tiêu tan trong một năm. Mẹ chị đã dùng tiền ấy đầu tư cô em bà ở Sài Gòn. Bà dì chị phá sản, tiền tan như khói. Chị đau xót cắn môi mỗi khi nghĩ lại. Không tin mẹ thì tin ai? Dầu khi ấy hắn đã can, chị biết gửi ai giữ tiền hơn mẹ chị. Hai đứa chưa lấy nhau, chia tiền sòng phẳng xong, phải gửi về nhà. Hắn nam giới chôn tiền ở đâu chả được. Chị nữ nhi, chắc nhất là gửi mẹ. Thôi thì cơ sự đã như vậy, chả nhẽ con lại cắn xé, ăn thịt mẹ trở lại. Chị chỉ trách mẹ một điều, vì tham lãi to mà tự động sử dụng số tiền ấy. Vỡ lở rồi cũng không dám nhận lỗi về mình, lại chửi chị, thành người mang tiếng. "Con cái gì, nó là hạng chỉ nghĩ tiền mà quên tình mẹ con!". Phải rồi, ở quê, ai cũng nghĩ chị giàu có, tiền như nước. Về phép, cả họ có quà. Có ai biết cái nỗi tha hương, mặt gục vào tuyết giá, nhịn ăn nhịn tiêu, nhịn cả tình cảm, sự ấy diễn ra lâu rồi. Khổ quá, chị biết mẹ tiêu dùng thế nào, vặn hỏi cho rõ từng khoản, lập tức đứa con chị bị đuổi khỏi nhà! "Chị nhiều tiền, nuôi lấy nó, kẻo mang tiếng tôi là ở nhà trông cậy vào tiền ở nước ngoài. Tôi là con ở nuôi anh em chị. Bây giờ lại là vú già nuôi con chị ư?". Trời ơi, người chứ có phải là cục đá mà gói mang con đi ngay được. Anh ấy nghe tin, khẩn cấp bay về, "Gia đình tôi sẽ nuôi nó!". Chị vẫn biết ơn chồng khi hắn đón thằng bé về nhà bố đẻ rồi lại tìm cách đưa được sang với chị. Đôi khi chị không hiểu được thời cuộc bây giờ. Người chồng cũ không nói làm gì. Gã coi chị là kẻ thù là nhẽ thường tình, có thể hiểu được. Còn mẹ chị? Chính là con người chị tin tưởng nhất ở cõi đời sau những tan nát của cá nhân chị. Cũng tưởng đi nước ngoài kiếm tiền thì an ủi cho cái thân phận mình. Thế mà chính cuộc đi kiếm tiền này, lại là cuộc ly loạn của bao nhiêu điều mà một người đàn bà như chị chẳng bao giờ mong muốn mang tiền ra đánh đổi!

*

Hắn chợt bật dậy. Thế là chỉ còn hơn tuần nữa hắn lại được trở về Hà Nội. Nghĩ mà khoái. Có lẽ phải tính toán lại số tiền mang về chi cho việc bốc xây mộ song thân...

Hắn đi ra hành lang. Chợt nhìn lên nóc tủ nơi hắn giấu tiền. Cuốn sách hơi lòi ra ngoài. Hắn chột dạ. Nhảy phắt lên, luồn tay vào.

Có đường lạnh chạy dọc sống lưng. Hắn giật tung hai cuốn sách nặng. Cái hốc trơ trọi. Một con nhện hoảng hốt chạy từ nóc trần sát đó và những sợi tơ mầu khói chăng ra cả tay hắn.

- Mẹ nó cầm tiền ở đây à? - Hắn giật giọng hỏi. Người vợ từ bếp chạy ra:

- Tiền nào? - Tiền tôi giấu đây này. Đâu? - Người vợ hoảng hốt mặt tái xám đứng như trời trồng giữa hành lang căn hộ.
Gần hai chục phút sau, cái tủ bị tháo vít khênh ra: Nhìn rõ dăm con gián nhỏ xíu chạy hốt hoảng.

*

Cả nhà bị lật, rũ tung từng thước thảm. Những cuốn sách và toàn bộ giường tủ, quần áo. Những chậu cây, đáy ti vi và cả đằng sau những bức tranh.

Đã bốn tháng nay hắn có ngó ngàng gì tới số tiền đâu. Công việc làm ăn quá hối thúc hàng ngày cũng chả để hắn và vợ thở nữa là ngó vào cái thứ coi là nguồn vốn dự trữ kia. Trời ơi, đây là toàn bộ số tiền sau hơn mười lăm năm còn lại từ bàn tay chai cứng như thép của hắn. Có thể đùa được đâu! Mười lăm năm xa quê, lang thang ba bốn nước, bao nhiêu chuyện xảy ra. Bao người thân yêu nhất mất đi mà hắn chẳng thể có mặt để dẫu là chỉ khóc. Gia đình cũ tan nát. Gặp người đàn bà cũng có sự đau đớn tương tự, gắn bó. Tưởng xây dựng được tổ ấm mới. Tiền đã mất hơn bẩy mươi ngàn rồi. Còn lại khoản cuối này, khoản từ ngày cha hắn mất, hắn tổng động viên tiền quay lại Đức.

*

Hắn đi đi lại lại không nói. Nhưng thực ra trong hắn biết bao câu hỏi. Ai? Ai đã lấy số tiền này.

Hắn cố gắng bình tâm. Cách đây hơn hai tháng, lần ấy hai nhà Việt Nam nữa ở liền khu hắn sống, bị bọn trộm cùng một lúc chờ gia chủ ra khỏi nhà đã cậy cửa tự nhiên khuân đi tất cả cái gì có giá trị. Hắn có bàn với vợ di chuyển số tiền xuống hầm. Rồi sau đó vì công việc, hình như không làm việc ấy. Nói chính xác hơn là vợ chồng có bàn, rồi sự làm ăn túi bụi của vụ Noel làm cả hai không kịp tiến hành thay nơi cất tiền xuống hầm nhà. Hay là vợ hắn? Hắn hỏi lại vợ lần nữa. Người vợ yên lặng một lát, rồi ngửng lên nhìn vào đứa con gái đang đứng nép bên cánh cửa: "Không, em hoàn toàn không tự động làm việc ấy".

Họ vẫn kiên nhẫn lục lại lần nữa khắp các phòng.

Đứa con gái sáu tuổi đứng tựa vào cánh cửa, giờ bước tới ngã vào lòng mẹ. Nó không hiểu việc gì đã xảy ra. Nó thấy khuôn mặt rất Boese(4) của cha nó. Nó thấy bộ mặt sợ hãi tái nhoét của anh nó. Từng ấy với nó, một đứa bé sinh ra ở Đức, là cả một sự ghê gớm quá rồi. Nó khóc.

Hắn lôi tuột đứa trẻ vào phòng ngủ của hai mẹ con, ấn xuống giường. Ngủ đi! Bố sẽ tìm thấy tiền, ông già Noel sẽ tới gửi nhiều quà Noel cho. Con bé sợ hãi nhìn cha nó. Ôm cổ cha nó mà hôn rối rít. Bình thường chả mấy khi nó làm vậy. Sự sợ hãi vốn là bản năng của con người ta? Cũng chẳng thể hiểu ai đã dạy loài người điều đó ngay từ khi chập chững vào đời, hay là cuộc sống luôn bất trắc đã ngấm từ máu cha mẹ vào tận nhau thai? "Con đừng sợ. Ngủ đi". Hắn hôn vào má con bé như cắn.

Đêm, không ai chợp mắt tới sáng. Hắn đi đi lại lại, hết bật nhạc lại xem ti vi. Rồi yên lặng, rồi hét lên. Chỉ có câu hỏi duy nhất miết xoáy lên trần chạy vang cả ba phòng trong căn hộ: "Tiền! Tiền ấy ai lấy? Trộm? Đứa nào? Ai? Sao nhà không có vết cậy cửa? Sao chúng không khuân cái đầu DVD thu phát mode nhẹ tênh, có bán lại ở chợ Việt Nam cũng được cả ngàn? Ai?". Họ không tìm ra câu trả lời. Suốt ba tháng qua, không có khách ngủ lại. Vô lý, vô lý! Chỉ có tao và mẹ mày biết. Mày có biết không? Nó ở đâu?

Cứ như thế tới khi mặt trời soi rõ những con gió vẫn quất mạnh ném tuyết ngập tới nửa mét trên thị xã, trên cánh đồng.

Bữa ăn nguội buổi sớm thực yên lặng. Nghe rõ tiếng bánh mỳ khi bẻ ra thả vào sữa. Tiếng nuốt sữa của đứa trẻ. Một lát, hắn nói chậm, nhưng gằn:

- Một mất mười ngờ. Bây giờ chỉ có ba người. Không ai ngoài chúng ta. Tao? Mẹ mày hay mày? Chả nhẽ tao lại ăn cắp tiền của tao? Mẹ mày thì không rồi. Mẹ mày không thể phản bội lại tao. Điều ấy mày chắc hiểu.

Hắn nuốt một ngụm Netcafe rồi nhìn vào mặt thằng bé.

- Mày nghĩ kỹ đi. Tao không khẳng định mày lấy. Nhưng tao hỏi mày, mày có vô tình thấy nó mà giấu đi không? Mày biết tính tao đấy. Tao căm thù nhất trên đời tính ăn cắp. Nhặt được của cải, không phải của mình làm ra cũng là sự ăn cắp. Là phản bội, nhất là bây giờ mày biết số tiền ấy là của tao, của mẹ mày, của chính cả mày và em mày. Nhưng tao thề có tổ tiên tao, nếu mày thú nhận, tao sẽ tha thứ. Đừng nói dối và giấu tao điều gì. Đừng trách tao nghi mày. Nghĩ kỹ đi. Mày thiếu trung thực với tao, dẫu là khi mới bước chân sang đây tao đã nói cả trăm lần về điều ấy. Mày luôn trốn học đi chơi. Mày bỏ đi cả tuần kỳ tết năm trước sang nhà chú Tâm khi tao và mẹ mày về Việt Nam. Vậy sao tao có thể tin mày? Mày hứa với tao học chăm chỉ. Tất cả chỉ là hứa suông. Mày thích chơi điện tử, vào nét hơn là rèn luyện để trở thành người đàn ông đủ tài mà chống chọi với cuộc sống!

Người vợ ngồi né mặt, với nhìn sang đứa con gái nhỏ. Thằng bé thì cúi gầm mặt xuống. Tất cả những điều ấy không sai với nó:

- Nhưng con không lấy và không biết số tiền ấy. Con thề!

- Thề! Tao thề được như mày. Vậy ai đã lấy tiền? - Hắn chau mày. Giọng nhỏ, đanh sắc và cặp mắt sáng tóe lửa như mũi mác phóng vào mắt thằng nhỏ.

- Con thực không biết! - Thằng bé lé mắt lên yếu ớt nhìn dượng nó. Nó
hiểu, con người này đã đối xử với nó rất tốt. Tốt hơn cả cha nó. Nó từng nói với bà giáo Hega trong kỳ nghỉ đông vừa qua: "Dượng tôi rất được, ông ta biết tôi ốm. Biết tôi bất kỳ ở đâu khi cha đẻ tôi không bao giờ biết tôi đang ở đâu từng ngày. Chỉ tội dương tôi tính nóng hơn lửa. Ông ấy rất thương mẹ con tôi?". Nó lí nhí: "Quả thực con mải chơi. Con từng ăn cắp ở nhà. Nhưng từ ngày sang đây con không ăn cắp. Con biết bố rất ghét và con đã thề với bố về điều ấy rồi! Còn con có lỗi là còn hay nói dối. Con sợ bố mẹ mà nói dối chứ con không muốn nói dối!".

- Mày sợ. Mày sợ nên để con chim mà mày luôn mồm kêu yêu nó, chết rét trong lồng, khi mày chạy đi chơi suốt cả tuần lúc tao và mẹ mày vắng nhà. Mặc kệ băng giá hành hạ con vật. Vậy ai tin mày? Nếu mày là con đẻ tao, tao sẽ đập chết hiểu chưa.

- Bố ơi! Con xin bố tha! - Đứa con gái cất tiếng, nó sắp khóc. Nó chạy từ lòng mẹ nó tới bên anh. Tự nhiên người đàn bà nước mắt chảy lã chã. Thằng bé cũng âm thầm khóc.

Yên lặng.

Hắn dịu giọng:

- Mày nghĩ kỹ đi. Ai cho mày ngày hôm nay? Tao đã quỳ xuống van nài bố tao, chị tao nuôi mày khi mày đói gầy trên sân ga. Tao lại chạy ngang chạy dọc đưa mày sang đây cho mày hết cái cảnh có mẹ mà như không. Tao cũng từng như van mày, hết ngọt tới sẵng rằng là đàn ông thì phải kiêu ngạo mà tự tay mình làm ra tiền. Mày nghĩ lại đi con. Tao với mày chả ruột thịt gì. Sao tao lại cắn răng nhớ thương con tao ở quê hương để chăm cái đứa chẳng máu mủ như mày? Mày thấy nó rơi ra mà nhặt được thì đưa cho mẹ mày. Tao thề, hai thằng đàn ông, thề có hương hồn cha mẹ tao, rằng tao sẽ không trừng phạt...
Hắn nghẹn lại vì xúc cảm thực sự. Không khóc, nhưng giữa ngực hắn có một dòng chì chảy nóng rẫy bò ngoằn ngoèo trong từng đường gân mạch máu. Hắn cố giữ mặt lạnh:

- Thôi tao nói vậy là đủ. Cho mày suy nghĩ từ giờ tới tối - Hắn cười gằn. - Tao sẽ lại làm lại từ đầu. Tuy là mày biết đấy, cơ hội kiếm tiền chẳng bao giờ như ngày hôm qua. Tao già rồi. Nhưng tao sẽ không sợ. Tao yêu thương tất cả, nhưng tao căm thù sự phản bội và không sợ bất cứ khó khăn nào, nhất là nó tới từ kẻ thù của tao ở đời. Tao chống cự đến cùng! - Mắt hắn đột nhiên tóe sáng.

*

Bóng tối bắt đầu trùm lên thị xã. Ngoài kia, tuyết vẫn trùng trùng rơi.

Con bé bám tay vào thành cửa sổ. Nó nhìn sang dãy nhà bên kia đường. Tại đó có mấy người đi lại thấp thoáng trong gió. Ở nhà nó đang xảy ra điều gì? Bằng giờ này mà vẫn chưa thấy ông Noel tới. Chắc năm nay ông ấy giận gia đình nó mà không tới. Muốn ông Noel tới, phải học giỏi và không được cáu kỉnh. Bố nó nói vậy. Nó thì học tốt rồi, vậy thì chỉ tại bố mẹ nó đang cáu kỉnh mà ông Noel không tới thôi. Nó hỏi: Tại sao bây giờ ông Noel chưa tới, papa? Mẹ nó nhìn đứa con cố nói nốt một câu với chồng: "Em nhục lắm rồi. Em van anh đừng tống nó về Việt Nam. Cho nó tới Muenchen đi vặt lông gà vậy. Nó về nhà chắc nghiện như thằng anh nó. Thế thì em tự vẫn!".

Hắn ôm con gái vào lòng, vuốt tóc đứa con gái. Mọi năm giờ này hắn đã đóng bộ ông già tuyết từ hầm đi lên giả giọng ồm ồm, xì xồ tiếng Đức, phát quà cho con hắn. Bây giờ thì bụng dạ nào mà làm việc ấy. Hắn nói dối: "Con à, năm nay bão, xe hươu của ông ấy hỏng bánh rồi, ông ấy cũng già hơn cả ông nội con, không tới được đâu!". "Thực không papa? Ai nói cho papa biết xe ông ấy bị hỏng?". Hắn ôm đứa nhỏ vào lòng: "Bố gọi điện hỏi rồi mà. Ông Noel tốt lắm. Bây giờ ngủ đi".

Tuyết vẫn ù ù đập vào cửa cho tới sáng. Phòng thằng lớn vẫn lom dom cái đèn học. Ánh sáng chiếu qua khe cửa hở một vệt như mũi lao đâm sang nơi hắn ngồi hút thuốc suốt đêm. Hắn ôm mặt muốn khóc mà chẳng thể.

Hắn nhớ lại cả cuộc đời hắn. Những ngày trôi dạt bên Nga. Cái phòng nhỏ khói a-xít lơ lửng, dày đặc quyện che kín cả trần nhà. Cuộc di dời đầy mạo hiểm qua nhiều biên giới. Hắn chưa khi nào thua ai cả. Vậy mà tại đây hắn mất mát bao nhiêu mà cuối cùng lại bị phản bội. Trời ơi. Giá mà hắn biết rõ ai lấy số tiền này. Sự nghi ngờ bao giờ chả là nghi ngờ! Hắn không phải là loài người làm điều không có bằng cớ. Cuộc sống cũng bao lần oan uổng ở quân ngũ, ở cơ quan, ở đời, nên hắn thận trọng. Hắn đau đớn chừng nào bởi như vậy không chỉ là mất tiền! Hắn nhớ tới ngày xin gia đình hắn đón thằng nhỏ về nhà, cha hắn là con người của ngày xưa thủng thẳng: "Dây bầu đeo lấy quả bầu. Thế gia tộc hai đằng của nó đâu?". Hắn quỳ xuống, đây là con của người đã chia sẻ bấy nay với con ở bên đó. Con không thể bỏ rơi bè bạn khi hoạn nạn. Con sẽ lấy cô ấy làm vợ. Nó là người. Cha hãy vì con mà thương nó. Thế mà bây giờ thằng ấy dám phản bội lại hắn. Hắn giận dữ miết tay xuống cạnh bàn. Ngón tay cái hắn ứa máu. Hắn chả thấy đau. Thản nhiên liếm.

Hắn đau khổ tới cùng cực.

Thực ra, con người như hắn thật đáng thương. Khuôn mặt hắn có vết sẹo dài trên trán. Đấy là vết thương của chiến tranh, ngày hắn đánh vào giải phóng thị xã Tuy Hòa. Còn cái vết sẹo to như con giun ngoằn ngoèo chạy từ bả vai tới xuống tận cổ tay trái là nhát dao kỷ niệm của đám thợ hoàn kim tại Nga, vừa là ân nhân vừa tí nữa là kẻ thù của hắn. Ân nhân vì khi nước Nga sụp đổ, hắn mất hết cả tiền sau chuyến đi tận Cáp Ca đổ bột nghệ bị đám cướp lạ dí súng vào đầu mà lột sạch. Đang lang thang ngoài ga, đói tưởng chết thì gặp họ lôi về nhà cho ăn, cho mặc và cho cả chân giúp việc tách vàng trong cái phòng ngột ngạt. Tí nữa là kẻ thù vì bữa tiệc cuối năm, say, cả lũ say mèm vì hơn mười chai vốt ca. Thỏi vàng vừa cô lại trong túi quần hậu của tay nhóm trưởng không cánh mà bay sau giấc ngủ trên thảm, giữa đám vỏ chai và thức ăn bừa bãi. Thế mà chúng kéo hắn, cái thằng vô gia cư bị nghi ngờ nhất vừa mới quen chưa đầy ba tuần lên, với sợi dây dù trói ngược cánh tay, treo lơ lửng trong phòng bếp. Hắn có chôm đâu mà khai? Con dao bếp Nga sắc đã lướt nhẹ từ vai tới cổ tay để máu rỏ lõng võng như cắt tiết gà xuống nền bếp. Người ta lại lập tức hạ hắn xuống cấp cứu và theo luật giang hồ hắn được tặng lại nhát dao ấy cho kẻ cứa hắn, khi thằng mất vàng tìm thấy thỏi vàng nửa ký rớt ra sau bồn cầu toa lét hồi đêm trong trạng thái say xỉn. Có thể sự oan uổng ấy, làm hắn thận trọng hơn với thằng bé trong vụ này. Thận trọng thôi, chứ khả năng nó chôm là nhiều. Bởi hai trường hợp khác nhau. Hắn hư đốn giang hồ nhưng không có tiền sử trộm vặt. Hắn giang hồ cũng vì biết bao điều của cuộc đời mà thực ra hắn sẽ giữ được bộ mặt không tới nỗi nào khi được sống trong ăn học tử tế và đừng đói nghèo. Hắn bất giác sờ tay lên đôi má sọp lại. Giá đầy đặn hơn. Giá xóa đi nét phong trần, con mắt sáng và cái mũi thẳng, đôi môi trái tim hồng lại, phải là một khuôn mặt đẹp của đàn ông!

Tiếng đồng hồ vẫn tích tắc từng giây đủ cho cả ba con người trong ba phòng nghe rõ. Chỉ có đứa con gái nhỏ là ngủ. Nó mê gì? Môi son hé cười và đôi tay hồng nắm lấy búp bê cô Công Chúa Tuyết.

*

Tôi đồng ý. Ngay sau tết Tây thằng con bà sẽ đi xuống phía Tây chỗ bọn thằng Tuấn Tanh nhổ lông gà. Để cho thằng Tuấn Tanh trị nó, cho nó biết thế nào là lễ độ. Mười tám rồi. Ở Đức này, mười tám là phải tự lập. Các bà mẹ như cô không học ra điều gì về đại bàng sao? Đại bàng mẹ lấy cánh đủn con xuống vách đá, khi con chim nhỏ vừa đủ lông. Con chim non chấp chới, sợ hãi đập cánh và nó nhao vào luồng khí bay lên! Muốn con bà thành đại bàng hay mãi mãi như con gà nhép nép vào cánh mẹ? Vả lại khi hai thằng đàn ông phản bội nhau, không tin nhau, thì sống cạnh nhau tất có ngày có hậu hoạ. Tôi không sợ nó, nhưng tôi sợ chính tôi! Còn ở lại với tôi. Không thể được! Tôi cũng nhắc lại với bà là nếu tôi phát hiện chính xác, nó đã lấy tiền của tôi, thì bà liệu tìm nó. Tôi sẽ biết, trước và sau sẽ biết. Số tiền ấy không thể là cái kim mà giấu được. Nó phải tiêu. Phải mua xe mới chẳng hạn...!

Hắn và vợ bỗng đồng loạt thở. Tiếng thở hắt ra, nhưng ở hai người đều có ý nghĩa khác nhau tới đối nghịch.

Bên ngoài có tiếng chuông.

Thằng bé ra mở cửa. Đó là bạn gái vợ chồng hắn. Một người đàn bà tứ tuần, quắt queo như trái quéo héo.

- Em nghe tin hai bác có việc không may! Có mỗi mình em ngủ lại đêm ấy. Anh chị ơi, em cũng bị đập hộp, mất tiền sao mà nỡ lòng nào nhặt được tiền của hai bác!

Chưa đặt đít đã đặt mồm - Hắn nghĩ - Ai bảo cô nhặt tiền?

Người đàn bà sà tới bên thằng nhỏ: "Cô mong cháu lên làm, mà nhà có việc không đi làm sao không báo cô? Cô không gọi điện cho mẹ cháu thì sao cô tìm ngay người khác thế chân cháu. Khổ quá anh ạ. Quán ế ẩm cả năm, bây giờ tụi nó mới đi mua sắm. Thôi, cháu còn nghỉ đông có hai tuần. Việc xảy ra đã rồi. Để cháu lên làm tiếp với em xem sự thể ra sao. Ấy, hay năm nay chị cũng sao Thái Bạch chiếu như em nhỉ?

Người đàn bà kéo đứa con trai và vợ hắn vào phòng nhỏ. Từ đó vọng ra tiếng rì rầm. Hắn yên lặng hút thuốc tại phòng khách và nửa tiếng sau, lòng hắn đau thắt, rối bời khi nghe tiếng thét của thằng con vợ trong phòng:

Con sẽ tự tử, con sẽ chết để chứng minh cho cô và dượng là con không biết gì!

Dẫu sao, hắn vẫn là tên giang hồ có gốc gác của một gia đình tử tế. Hắn nhảy bổ như cắt, bay vào phòng thằng nhỏ. Hắn nhìn rõ, thằng bé nước mắt lưng vực. Người đàn bà đang ôm lấy đứa trẻ và vợ hắn lại ôm lấy vai người đàn bà.

Hắn quay ra ngoài. Ôm lấy đầu gục xuống mặt đệm sa-lông. Lấy cái gối úp lấy mặt.

Nửa tiếng sau. Hắn ra chốt cửa, sau khi người đàn bà và thằng bé lí nhí chào hắn. Từ hành lang vọng lên liếng bàn bạc rì rào.

Hắn hình dung ra chiếc xe của họ bò loằng ngoằng trượt trên con đường còn nhầy nhụa giá băng. Trời lại sắp tối rồi và tuyết vẫn không ngừng rơi.

*

Mười một giờ đêm. Chỉ còn tiếng nữa là sang ngày Noel.

Con bé đã ngủ. Người vợ hắn giấu mặt xuống gối, nhưng thực ra không ngủ. Thế là đã ba đêm hắn không ngủ. Hắn rất mệt. Hắn tới bên bàn thờ thắp một nén hương cho cha mẹ hắn và bật nhạc. Tiếng nhạc giao hưởng làm thần kinh hắn dịu lại. Hắn uống một cốc vita tổng hợp và dựa lưng vào đi-văng.

Bóng người mở cửa rón rén vào hành lang. Bóng đen tới cửa nhìn hắn. Hắn nín thở vẫn giả vờ ngủ. Bóng đen tới bên chỗ hắn giấu tiền và trèo lên bậc gờ tủ. Hắn bật ra nhanh như tia chớp giật tóc và tung đầu gối lên. Hắn giáng tay chém như máy vào gáy đối thủ tới khi chỉ còn là cái xác mềm nhũn. Hắn cười. Rút con dao bấm ấn nút và cứa mạnh đứt rời bàn tay như vết đạn cắt mà hắn nhìn thấy ở đâu. Sợi gân giật làm hắn tối mắt. Cái mặt bị lật ngửa và hắn nhận ra khuôn mặt quen thuộc của đứa con dượng. Hắn thét lên, không thể như vậy!

Tiếng thét làm người vợ choàng tỉnh. Chị chạy ra, chồng chị vẫn đang vật vã trên đi-văng và nói gì ú ớ. - Anh! Tỉnh dậy, tỉnh dậy! - hắn choàng tỉnh. Ngơ ngác ngồi dậy. Mồ hôi rỏ đầm đìa trên khuôn mặt phong trần của hắn.

Đèn bật sáng trưng. Mười hai giờ kém bốn phút. Bây giờ là sắp sang ngày 25 tháng cuối cùng của năm. Hắn để vợ quay lại với con. Ra vốc nước lạnh vỗ vào mặt. Tự nhiên sau giấc ngủ, hắn thấy nhẹ lòng, dẫu buồn tê tái. Hắn tới bên con trong phòng ngủ. Tự nhiên hắn nhìn vào cái tủ đựng đồ chơi của con. Những ngăn kéo xếp nhiều đôi tất xình xinh và những con giống xinh xinh. Như có một ma lực xui khiến, hắn mở ngăn kéo sát đất, mò tay vào cái hộc bé dưới thanh gỗ vừa rộng đúng bàn tay dài sáu chục phân.

Bàn tay hắn đụng vào hai tập giấy. Cái sức nóng ở tiền hay cảm giác của máu sói làm hắn giật thột.

Đây rồi!

Hắn giật ra, ánh điện chiếu sáng hai gói tiền. Mà tại sao hai gói tiền? Cái gói của hắn, dày hơn, bên trong. Giấy còn nguyên niêm phong và dòng chữ hắn ghi. Cái gói mỏng hơn, bên ngoài. Tung ra một sấp tiền Mỹ và Euro. Không hiểu sao hắn bình tĩnh đến thế. Hắn quay người lại giơ hai tập tiền lên: "Ai giấu tiền vào đây? Lại cả tập tiền này nữa?".

Người vợ lật sấp người lại, nhao lên:

- Trời ơi! Tiền à? Thấy rồi à? Trời ơi, con ơi. - Chị líu cả lưỡi.

Hắn lạnh lùng:

- Hãy giải thích ngay lập tức vì sao bà phản tôi. Tiền này ở đâu ra? - Hắn quăng tập tiền mỏng một cách khinh bỉ xuống đất! Người vợ òa khóc. Chị quỳ xuống thảm.

*

Hãy cho em nói. Anh hãy giết em đi, nhưng cho em nói lời cuối! Đây là tiền em bớt của hai chúng ta giấu riêng. Nó là hai ngàn bảy trăm US và hai trăm rưỡi Euro. Hôm qua, chính hôm qua em sợ quá giấu vào đó. Vâng, mỗi ngày em lấy ra năm ba chục và cất riêng. Còn em không biết tại sao số tiền kia ở đấy. Anh và em cũng có lần bảo giấu nó vào đấy nhưng có ai làm đâu nhỉ? - Chị suy nghĩ một lát rồi trở nên bình tĩnh. - Sau đó anh bảo mang xuống hầm! Hãy giết em đi. Chỉ từng kia tiền ăn bớt, em đủ tội chết vì phản bội anh. Vâng, em đã phản bội. Từ ba năm nay, anh luôn cáu mỗi khi em gửi tiền về cho con trai em. Vâng nó nghiện, nó láo với anh, nó khốn nạn, nhưng nó là con em. - Tự nhiên giọng người vợ rất chậm và rành rọt. Chậm cùng với những giọt nước mắt chậm đổ xuống mặt thảm. - Em hy vọng nó sẽ hết nghiện. Anh đã thù nó tới xương tủy khi nó chửi anh. Anh đã nuôi thằng em nó và dạy nên người. Nhưng chắc anh sẽ chẳng bao giờ cho nó một đồng sau này, nếu nó có vợ và con.

Anh là đàn ông, anh tỉnh táo hơn và chỉ ra biết bao điều em lầm lỡ, nhưng anh ơi, anh không biết trái tim của em đau đớn cực khổ ra sao, khi nghĩ dù thoáng tới hòn máu của em, dẫu nó là hòn máu khốn nạn. Vì thế em quyết định chuẩn bị riêng cho nó... Hãy giết em đi. Em ích kỷ phản bội anh, con gái và... Nhưng bốn năm nay không làm ra tiền, em sợ, sợ tới ngày nào đó chúng ta sẽ không còn một đồng dự trữ. Chúng ta còn có xã hội ở đây. Không sợ rét và đói. Thằng bé em nó sẽ lớn lên đi làm và không lo gì. Còn thằng kia. Giọt máu của em?

Người đàn bà bò lết tới chân hắn. Nước mắt ngập đầy hốc mắt của đôi mắt mà bao lần hắn đã thương xót hôn vào... Ngay khi đó con bé gái thức giấc. Nó bật ngay ra lao vào mẹ nó và ôm ghì lấy cổ mẹ. Mẹ, mama, mami! Nó rối rít gọi.

Hắn đứng như trời trồng.

Khi ấy, từ đâu như có trăm ngàn mũi mác cắm sâu và ngoáy mãi, tàn nhẫn vào con tim hắn. Khuôn mặt câm lạnh. Nhưng thái dương hắn, sợi máu rần rật vì biết bao điều, chớp mắt phanh phui, đan nhau: chà đạp, hành hạ, cởi phá những điều trong u tối, với cả sự hoan lạc tới điểm cuối cùng của kẻ biết được bí mật của sự thật.

Không hiểu sao, dẫu là còn mong manh tơ vò điều chưa tỏ, hắn chợt nhớ tới khuôn mặt đẫm máu của thằng con vợ trong mơ. Hắn ngắt lời vợ:

- Thôi câm đi! Gọi ngay điện cho con. Nó là người đầu tiên phải biết rằng chúng ta đã tìm thấy tiền. Điều ấy quan trọng nhất. Còn tôi và bà sắp chết cả rồi. Hiểu chưa? Đồ ... hắn nghẹt lại.

Nói rồi hắn quay phắt ra phòng khách. Ngồi xuống ghế. Lần đầu tiên sau hơn 15 năm lưu lạc; hắn khóc. Lòng hắn có một điều mênh mang rất buồn mà hắn, và chỉ hắn biết lý do của nó.

Người vợ chạy từ phòng sang. Đứa con gái lon ton sau mẹ.

- Gọi eng gọi eng về! Nó nói tiếng Việt thực ngọng nghịu dễ thương.

- Con nó về từ hơn một tiếng rồi! Cửa hàng đã đóng cửa.

Hắn nhíu lông mày. Đầu hắn vọt ra câu hỏi: Hơn một tiếng sao chưa về tới nhà?

Hay là? Hay là không có bus? Hay là nó còn đang lê trong đường tuyết đường rừng từ bến bus về nhà?

Hắn vơ vội áo lông dày, vọt xuống cầu thang, không nói với vợ nửa lời. Hắn chạy ra ô-tô. Nổ máy. Trời lạnh, tiếng kin kít của máy đề, mãi mới nổ được càng làm cho hắn sốt ruột. Đừng, đừng, mọi sự đừng xấu nhé! Hắn nhấn ga cho chiếc xe chồm lao hệt như viên đạn bay xé gió, tuyết về con đường rừng vắng tanh. Hắn bật đèn pha cháy rực cả con đường trắng xóa.

Tới mười phút sau, không chính xác, chiếc xe quay một vòng bên bìa rừng cạnh một bóng nhỏ ngồi im như tạc bằng đá trên một thân cây gỗ nằm ngã xuống bìa rừng từ đầu cơn bão tuyết vụ đông khi ấy. Hắn hối hả mở cửa xe, hối hả lao như con sói vào đứa con non của sói. Hắn nhìn thấy khuôn mặt thằng bé. Đôi mắt vẫn nhắm. Trên vai áo khoác dạ, những bông tuyết trắng muốt, tinh khiết, sáng rực dưới ánh đèn pha ô-tô. Hắn ôm choàng lấy đứa con. Thọc tay vào ngực đứa trẻ xoa lấy xoa để...

Nửa giờ sau. Hắn và người vợ ngồi bên đứa trẻ được xoa tuyết toàn thân, rồi ủ chăn ấm đã tỉnh dậy. Ngơ ngác nhìn.

Hắn cười. Nụ cười sau bốn ngày chết nay lại hồi sinh. Nụ cười làm khuôn mặt hắn đẹp lạ lùng. Cái đẹp của người đàn ông giang hồ từng trải và đau khổ khi được cười hạnh phúc.

- Con ơi thấy tiền rồi!

Thằng bé nhỏm dậy. Nó ngơ ngác và, chợt hiểu. Ba con người, đúng hơn là bốn con người ôm chầm lấy nhau và họ đều im lặng để nước mắt người này quyện với nước mắt người kia.

Những ngày sau đó, không ai lục vấn số tiền lớn kia, hắn hay vợ hắn hay con hắn, đã cất. Làm sao mà nhớ ra trong mấy ngày tuyết gió có bao nhiêu trận tuyết? Vả lại mọi điều quan trọng nhất đã sáng tỏ. Đấy là hắn nghĩ vậy.

Cũng thực kỳ lạ, cái lão trời già lắm chuyện. Gió như thế, bão như thế mà thoắt một cái, băng lại tan và mặt đất hiện ra. Mặt đất đen tuyền nhưng không lạnh.

Ven đường, nơi cạnh chỗ thằng bé ngồi hơn một giờ trong đêm, có bụi hoa Forytchia, cành chua chúa vươn mãi. Mới ấm một tẹo thôi mà đã chi chít mầm vàng chói. Màu non ấy, ai nhìn kỹ đều cho là nắng sớm đọng vào đó báo hiệu xuân sẽ về...

24-12-2002, Nước Đức
------------
-

(1) Forytchia - Một loại cây hoa, mọc báo xuân ở Châu Âu. Hoa như bông mai nhưng chín, dầy đặc nở trên cành không lá, rực vàng, rất ấn tượng.

(2) Đột vòm - tiếng lóng chỉ hành vi đột nhập vào nhà lấy cắp trộm. Vòm: nhà. Nơi ăn nghỉ của đạo tặc cũng được gọi là Vòm.

(3) Hộp đường dẫn nước, điện, ga, thường chạy suốt từ hầm lên mọi tầng nhà.

(4) Boese - Giận dữ, căng thẳng. Còn có nghĩa là ma quỷ

Bài viết này được sửa chữa mông má bởi Toanli: May 13 2003, 04:53 AM



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
« Bài viết cũ hơn · Văn Học & Ngôn Ngữ · Bài mới tiếp theo »
 

7 Trang  1 2 3 > » 
Topic Options
1 người đang chống cằm trầm tư ngâm cứu chủ đề này (1 khách vãng lai và 0 thầy mo tàng hình)
0 Thành viên:
 

Xem diễn đàn ở dạng TEXT - PDA - Pocket PC