Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh - Nguyễn Du
Chào bác, trông cái mặt bác quen quen ( Đăng nhập | Đăng ký tạm trú )
Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh - Nguyễn Du
Milou |
Aug 22 2002, 10:04 AM
Đường dẫn tới bài viết này
#1
|
ngừ dzẹp vô tình Nhóm: Chánh tổng Số bài viết: 7.152 Tham gia từ: 3-February 02 Đến từ: trên trời dưới đất Thành viên thứ: 26 Tiền mặt hiện có : 2.264.697$ Số tuần chưa đóng thuế : 0 Bình chọn : |
Bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh dài tất cả là 184 câu, làm theo thể song thất lục bát. Song thất lục bát là thể thơ kết hợp nhịp nhàng giữa thất ngôn và lục bát tạo nên nhiều cung bậc trầm bổng bi hùng rất dễ ngâm hay hát...Sau đây là nguyên bản:
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt, Toát hơi may lạnh buốt xương khô Não ngườI thay buổi chiều thu, Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng... Đường bạch dương bóng chiều man mác, Dịp đường lê lác đác mưa sa Lòng nào lòng chẳng thiết tha Cõi dương còn thế nữa là cõi âm. Trong trường dạ tối tăm trời đất, Có khôn thiêng phảng phất u minh... Thương thay thập loại chúng sing Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người Hương lửa đã không nơi nương tựa Hồn mồ côi lần lữa bấy niên... Còn chi ai khá ai hèn Còn chi mà nói ai hèn ai ngu! Tiết đầu thu lập đàn giải thoát Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi Muôn nhờ đức Phật từ bi Giải oan cứu khổ độ về tây phương. Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh Chí những lăm cất gámh non sông Nói chi những buổi tranh hùng Tưởngn khi thế khuất vận cùng mà đau! Bỗng phút đâu mưă sa ngói lở Khôn đem mình làm đứa thất phu Giàu sang càng nặng oán thù Máu tươi lai láng xương khô rụng rời Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc, Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa Cho hay thành bại là cơ Mà cô hồn biết bao giờ cho tan. Cũng có kẻ màn lan trướng huệ Những cậy mình cung quế Hằng Nga, Một phen thay đổi sơn hà, Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu? Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy Phận đã đành trâm gãy bìng rơi Khi sao đông đúc vui cười Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương. Đau đớn nhẽ không hương không khói Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim. Thương thay chân yếu tay mềm Càngnăm càng héo một đêm một dài. Kìa những kẻ mũ cao áo rộng, Ngọn bút son thác sống ở tay Kinh luân găm một túi đầy Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu. Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm, Trăm loài ma mồ nấm chung quanh Ngàn vàn khôn đổi được mình Lầu ca viện hát tan tành còn đâu? Kẻ thân thích vắng sau vắng trước Biết lấy ai bát nước nén nhang? Cô hồn thất thểu dọc ngang Nặng oan khôn nh9e tìm đường hóa sinh? Kìa những kẻ bài binh bố trận Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung Gió mưa sấm sét đùng đùng Phơi thây trăm họ nên công một người. Khi thất thế tên rơi đạn lạc Bãi sa trường thịt nát máu rơi Mênh mông góc bể chân trời Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào? Trời thăm thẳm mưa gào gió thét Khí âm huyền mờ mịt trước sau Ngàn mây nội cỏ rầu rầu, Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường? Cũng có kẻ tính đường trí phú Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn Ruột rà khôngkẻ chí thân Dẫu làm nên để dành phần cho ai? Khi nằm xuống không người nhắn nhủ Của phù vân dẫu có như không Sống thời tiền chảy bạc ròng Thác không đem được một đồng nào đi. Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu? Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy Dẫn mình vào thành thị lân la Mấy thu lìa cửa lìa nhà Văn chương đã chắc đâu mà trí thân. Dọc hàng qúan gặp tuần mưa nắng Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng Anh em thiên hạ láng giềng người dưng Bóng phần tử xa chừng hương khúc Bãi tha ma kẻ dọc người ngang Cô hồn nhờ gửi tha phương Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng. Cũng có kẻ vào sông ra bể, Cánh buồm mây chạy xế gió đông Gặp cơn giông tố giữa dòng Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê. Cũng có kẻ đi về buôn bán Đòn gánh tre chín dạn hai vai Gặp cơn mưa nắng giữa trời Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao? Cũng có kẻ mắc vào khóa lính Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan Nước khe cơm vắt gian nan Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời Buổi chiến trận mạng người như rác Phận đã đành đạn lạc tên rơi Lập lòe ngọn lửa ma trơi Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương! Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa Ngẩn ngơ khi trở về già Ai chồng con tá biết là cậy ai? Sống đã chịu một đời phiền não Thác lại nhờ hớp cháo lá đạ Đau đớn thay phận đàn bà, Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu? Cũng có kẻ nằm cầu gối đất Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi Thương thay cũng một kiếp người Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan. Cũng có kẻ mắc oan tù rạc Gửi mình vào chiếu rách một manh Nắm xương chôn rấp góc thành Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi? Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha Lấy ai bồng bế xót xa U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng. Kìa những kẻ chìm sông lạc suối Cũng có người sẩy cối sa cây Có người leo giếng đứt dây Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành. Người thì mắc sơn tinh thủy quái Người thì sa nanh sói ngà voi Có người hay đẻ không nuôi Có người sa sẩy có người khốn thương. Gặp phải lúc đi đường lỡ bước Cầu Nại Hà kẻ trước người sau Mỗi người một nghiệp khác nhau Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ? Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi Hoặc là nương ngọn suối chân mây Hoặc là điếm cỏ bóng cây Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ Hoặc là nương thần từ Phật tự Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông Hoặc là trong quãng đồng không Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre Sống đã chịu một bề thảm thiết Ruột héo khô dạ rét căm căm Dãi dầu trong mấy mươi năm Thở than dưới đất ăn nằm trên sương Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra Lôi thôi bồng trẻ dắt già Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh. Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ Phóng hào quang cứu khổ độ u Rắp hòa tứ hải quần chu Não phiền trút sạch oán thù rửa không. Nhờ đức Phật thần thông quảng đại Chuyển pháp luân tam giới thập phương Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh. Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao Mười loài là những loài nào? Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh. Kiếp phù sinh như hình như ảnh Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không" Ai ơi lấy Phật làm lòng Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi. Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo Của có khi bát cháo nén nhang Gọi là manh áo thoi vàng Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên. Ai đến đây dưới trên ngồi lại Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ Phép thiên biến ít thành nhiều Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh. Phật hữu tình từ bi phổ độ Chớ ngại rằng có có không không. Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài Nội dung Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh Bài văn chiêu hồn đã mô tả cảnh khổ đau của mọi hạng người trong xã hội từ những kẻ quyền thế cao sang đến người xó chợ đầu đường. Tất cả mọi người không ai có thể khước từ cái chết. Tuy "mỗi người một nghiệp khác nhau" nhưng cầu Nại Hà thì không ai có thể không bước qua, chỉ là "kẻ trước ngườisau mà thôi! Cầu Nại Hà là gì? Tại nơi nàỏ Theo sách Phật, cầu Nại Hà ở về phía Đông của Thập Điện (tức mười tầng Địa Ngục), những người nghèo hèn và chết yểu (chết trẻ) đều phải đi qua cầu này để vào đường đầu thai sinh vào kiếp khác. Nại Hà là tên con sông ở Địa Ngục có ba cái thác nhỏ, linh hồn các tội nhân khi đến đây phải hỏi xem nơi nào có thể lội qua được để khỏi trầm luân nên gọi là Nại Hà. Con người khi sống trong xã hội thì có phân biệt cao thấp sang hèn nhưng khi chết thì đều bình đẳng! Nhất là chết mà trở thành cô hồn: "Thương thay thập loại chúng sinh Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người! Hương lửa đã không nơi nương tựa Hồn mồ côi lần lữa bấy niên Còn chi ai khá ai hèn Còn chi mà nói kẻ hiền người ngủ" Cụ Nguyễn Du đã tả cảnh bi thương từ dương gian đến âm phủ: từ tiết đầu thu ảm đạm, thê lương của cõi dương chuyển sang cảnh "trường dạ tối tăm" bi thiết của cõi âm... để nêu ra các loại chúng sanh với những nghiệp cảnh khác nhau nhưng tựu trung đều bi thảm giống nhaụ Nói là "thập lọai" nhưng bài văn đã kể ra cả thảy 16 nghiệp cảnh. Chữ "mười" ở đây không phải là số đếm thông thường mà là tiếng tượng trưng cho sự rộng khắp, tòan vẹn như trong cách nói "mười phân vẹn mười", "nhân vô thập toàn"... Các loại chúng sinh được nhắc đến trong văn tế là: 1. Những kẻ "tính đường kiêu hãnh" tham danh vọng mà quên mạng sống. 2. Những kẻ giàu sang sống trong "màn loan trướng huệ" tự kiêu, tự mãn về nhan sắc... 3. Những kẻ làm quan to "mũ cao áo rộng" cầm ngọn bút sinh sát trong taỵ.. 4. Những tướng sĩ "bài binh bố trận" "đemmình vào cướp ấn nguyên nhung" phơi thây trăm họ để dành công cho bản thân mình... 5. Những kẻ tính đường tr6i phú bôn ba lìa bỏ quê nhà để mong được giàu sang... 6. Những kẻ "rắp cầu chữ quý" 7. Những kẻ vào sông ra bể, trong sóng gío hiểm nguỵ.. 8. Những kẻ thương buôn đường xa 9. Những kẻ phải đi lính 10. Những kẻ sa cơ thất thế rơi vào "buôn nguyệt bán hoa" 11. Những người hành khất "sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan" 12. Những kẻ mắc vòng tù ngục oan khiên 13. Những kẻ hữu sinh vô dưỡng 14. Những trẻ sơ sinh mất mẹ cha 15. Những kẻ chết vì các loại nạn tai: thủy, hỏa, ác thú... 16. Những kẻ vô tự tức không con cái, thân thuộc Nêu ra cảnh khổ của cõi âm Nguyễn Du muốn cảnh giác cõi dương là nơi mà cuộc tranh dành lợi danh, tiền của thường rất gắt gao và hung hãn... Tác giả nhắc cho mọi người thấy rõ rằng: "Sống thời tiền chảy bạc ròng Thác không đem được một đồng nào đi" Và cuối cùng kêu gọi các loại cô hồn hãy khôn ngoan lắng nghe kinh để nương nhờ ph6ep Phật mà thoát khổ. Lấy Phật làm lòng thì tự nhiên siêu thóat trong luân hồi. Văn tế Thập loại Chúng sinh là một lời cảnh báo cho thế gian đáng cho mọi người suy gẫm... trong ngày Đức Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi khổ hình Địa Ngục để báo hiếu. Nguyễn Châu Biên Soạn |
FR |
Aug 22 2002, 12:37 PM
Đường dẫn tới bài viết này
#2
|
Unregistered |
Chán bác Milou quá đi thui, vừa vươn vai tỉnh giấc nồng, ghé mắt vô đây vấp liền phải bài văn tế của bác :(
|
annonymous |
Aug 24 2002, 12:31 PM
Đường dẫn tới bài viết này
#3
|
Unregistered |
Lẳng lơ chết cũng ra ma
Chính chuyên chết cũng đưa ra ngoài đồng! |
Xem diễn đàn ở dạng TEXT - PDA - Pocket PC |