Các bác tham khảo nhé.
----------------------------------------------------------------------------
SÁCH TRẮNG QUỐC PHÒNG VIỆT NAM
Ngày 10 tháng 12 năm 2004



LỜI NÓI ĐẦU

Nhân loại bước sang thế kỷ 21 với những ước mong và hy vọng về một thế giới hoà bình, ổn định, và hợp tác phát triển.
Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Lãnh thổ Việt Nam là một chỉnh thể thống nhất, bất khả xâm phạm, là nơi sinh sống của trên 80 triệu dân thuộc 54 dân tộc anh em đoàn kết trong đại Gia đình dân tộc Việt Nam.
Việt Nam có truyền thống hoà hiếu, luôn mong muốn giữ vững sự ổn định bên trong và chung sống hoà bình, hữu nghị với tất cả các quốc gia khác để tập trung nỗ lực cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Với những thành tựu đã đạt được trong công cuộc xây dựng đất nước theo đường lối đổi mới, nhân dân Việt Nam đang vững bước trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng cũng như các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Mặt khác, tiếp tục truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước, Việt Nam cần tăng cường sức mạnh quốc phòng đủ để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, sự toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam trình bày chính sách quốc phòng của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nêu rõ tính chất hoà bình, tự vệ, chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân những năm đầu thế kỷ 21.






PHẦN THỨ NHẤT
CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG CỦA VIỆT NAM

1. Tổng quan tình hình an ninh
1.1. Thế giới và khu vực
Những sự kiện diễn ra trên thế giới trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI cho thấy, tuy xu thế chung vẫn là hoà bình và hợp tác để cùng phát triển, song tình hình an ninh ở một số khu vực có những diễn biến phức tạp. Tuy ít có nguy cơ xảy ra chiến tranh thế giới, chiến tranh sử dụng vũ khí huỷ diệt lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang giữa các quốc gia hay trong một quốc gia do mâu thuân dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, xu hướng chính trị, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên, khủng bố….vẫn xẩy ra. Nỗ lực giải trừ quân bị, đặc biệt là giải trừ vũ khí hạt nhân và các loại vũ khí huỷ diệt lớn khác chưa đạt được những tiến bộ rõ rệt. Số nước đã có vũ khí hạt nhân hoặc có đủ khả năng công nghệ để nhanh chóng phát triển vũ khí hạt nhân không những không giảm mà còn tăng lên. Trong khi đó, sự phát triển vũ khí thông thường công nghệ cao đang thúc đẩy cuộc chạy đua vũ trang mới, nhất là giữa các nước phát triển.
Vụ khủng bố ngày 11-9-2001 và những diễn biến tiếp theo có tác động đến quan hệ giữa các nước lớn. Khủng bố và chống khủng bố, bá quyền và chống bá quyền đang trở thành những vấn đề bức xúc. Các quốc gia yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới đều thấy cần thống nhất nhận thức về chủ nghĩa khủng bố và các vấn đề toàn cầu khác làm cơ sở cho sự phối hợp và hợp tác để giải quyết trong khuôn khổ Liên hợp quốc, trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Cuộc cách mạng Khoa học – công nghệ mà động lực chính là công nghệ thông tin sẽ tiếp tục thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và quản lý, đưa loài người tới nền kinh tế tri thức.
Xu thế toàn cầu hoá kinh tế tạo nên quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng đòi hỏi sự hợp tác, nhưng những khác biệt về lợi ích lại dẫn đến sự cạnh tranh, có khi gay gắt. Do sự chênh lệch về mức độ phát triển kết cấu hạ tầng, trình độ khoa học-công nghệ, khả năng ứng dụng những thành tựu khoa học-công nghệ mới, và quan hệ không bình đẳng giữa các nước đã phát triển và các nước đang phát triển, sự phân cực giàu nghèo thể hiện ở sự chênh lệch về thu nhập quốc dân tính theo đầu người sẽ vẫn rất lớn.
Xu hướng hợp tác khu vực với sự phát triển các khu vực mậu dịch tự do đòi hỏi mỗi quốc gia phải nâng cao khả năng cạnh tranh nếu không muốn bị tụt hậu.
Châu Á-Thái Bình Dương vẫn được coi là khu vực có nền kinh tế phát triển năng động nhất thế giới, ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều nước, nhất là các nước lớn. Sau cuộc khủng hoảng tài chính cuối năm 1997, nền kinh tế của hầu hết các quốc gia trong khu vực đều đã phục hồi và tiếp tục tăng trưởng.
Ở Đông Nam Á, các nước thành viên ASEAN đang tăng cường hợp tác thúc đẩy Sáng kiến hội nhập ASEAN (IAI), thu hẹp khoảng cách phát triển kinh tế giữa các nước thành viên cũ và mới, từng bước thực hiện mục tiêu thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) và “Tuyên bố hoà hợp Ba-li II”. Triển vọng hợp tác kinh tế giữa ASEAN với các quốc gia trong APEC là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường hoà bình và sự ổn định khu vực.
ASEAN tiếp tục đóng vai trò tích cực trong quá trình vận động và phát triển của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) theo các nguyên tắc “tự nguyện”, “đồng thuận”, “không can thiệp vào công cuộc nội bộ của nhau”. Các nước liên quan đến tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đã ra được “Tuyên bố về các ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), một bước tiến quan trọng để đạt tới sự thoả thuận về “Bộ quy tắc ứng xử” (COC) ở Biển Đông.
1.2. Việt Nam
Ở Việt Nam, trong gần hai thập kỷ qua, nhờ đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, đời sống vật chất, tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân đều được cải thiện, tình hình chính trị-xã hội ổn định, quốc phòng-an ninh được giữ vững.
Sau nhiều năm tiến hành cuộc chiến đấu gian khổ, ác liệt vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước, nhân dân Việt Nam đã tập trung sức lực khắc phục hậu quả của chiến tranh, nhưng trình độ phát triển kinh tế hiện nay còn thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực. Việt Nam vẫn phải đề phòng nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế.
Về quốc phòng – an ninh, Việt Nam vẫn còn bị đe doạ bởi những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch bên ngoài cấu kết với bọn phản động trong nước nhằm can thiệp vào công việc nội bộ, gây mất ổn định chính trị-xã hội của Việt Nam.
Những vấn đề chưa được giải quyết, liên quan đến tranh chấp biên giới, lãnh thổ trên bộ, trên biển cùng những vấn đề an ninh phi truyền thống khác như buôn bán và vận chuyển trái phép vũ khí, ma tuý, cướp biển, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, khủng bố, nhập cư và di cư trái phép, suy thoái môi trường sinh thái… cũng là những mối quan tâm an ninh của Việt Nam.
2. Chính sách quốc phòng của Việt Nam
Việt Nam luôn kiên định coi việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của đất nước.
Tính chất của quốc phòng Việt Nam là hoà bình, tự vệ. Việt Nam sử dụng mọi biện pháp cần thiết để thực hiện mục đích quốc phòng nói trên, đồng thời tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích của các quốc gia khác theo những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế-xã hội, đồng thời tăng cường khả năng quốc phòng, phối hợp hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Sức mạnh quốc phòng của Việt Nam là sức mạnh tổng hợp của khối đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân.
Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế; Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Việt Nam ngày càng có nhiều đóng góp tích cực trong các tổ chức, các diễn đàn khu vực và quốc tế như ASEAN, ARF, APEC… góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Sức mạnh quốc phòng được xây dựng bằng nguồn lực mọi mặt của đất nước và con người Việt Nam, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nhưng đồng thời coi trọng việc tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ của các nước bè bạn và các nước có chung mục đích đấu tranh cho hoà bình, độc lập và phát triển của khu vực và thế giới.
Việt Nam chủ trương không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào; không tham gia bất kỳ hoạt động quân sự nào sử dụng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực đối với các nước khác, nhưng sẵn sàng tự vệ chống lại mọi hành động xâm phạm lãnh thổ trên bộ, vùng trời, vùng biển và lợi ích quốc gia Việt Nam; không chạy đua vũ trang nhưng luôn củng cố sức mạnh quốc phòng đủ để tự vệ.
Việt Nam ủng hộ những nỗ lực của cộng đồng quốc tế nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh, hoan nghênh những sáng kiến giải trừ quân bị, tiến tới một thế giới không có vũ khí hạt nhân; chống phát triển, sản xuất, tàng trữ, và sử dụng các loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt khác như vũ khí sinh học, hoá học. Việt Nam kiên quyết lên án và chống hành động khủng bố dưới mọi hình thức. Tuy nhiên, Việt Nam cho rằng các biện pháp chống khủng bố và hợp tác quốc tế chống khủng bố phải được tiến hành trong khuôn khổ Liên hợp quốc, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới trong nỗ lực giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống như tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, buôn lậu ma tuý, cướp biển, suy thoái môi trường sinh thái… để bảo đảm khả năng phát triển bền vững của Việt Nam cũng như của các quốc gia khác. Trên thực tế, Việt Nam đã và đang tiến hành các hoạt động hợp tác, trước hết là với các nước thành viên ASEAN, trong lĩnh vực trao đổi thông tin, kinh nghiệm đấu tranh chống tội phạm, kể cả tội phạm xuyên quốc gia và chống khủng bố. Việt Nam đã tiến hành tuần tra chung trên biển với Thái Lan và sẽ thực hiện hình thức hợp tác an ninh song phương này với Ma-lai-xi-a, Cam-pu-chia, In-đô-nê-xi-a… nhằm chống cướp biển, buôn lậu ma tuý, vận chuyển vũ khí trái phép, buôn bán phụ nữ, trẻ em…
Về những vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên bộ, trên biển do lịch sử để lại, hoặc mới nảy sinh, Việt Nam luôn sẵn sàng thương lượng hoà bình để giải quyết một cách có lý, có tình. Riêng về vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, quan điểm nhất quán của Việt Nam là: Việt Nam khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với vùng biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam có đầy đủ các chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý về vấn đề này. Tuy nhiên, vì lợi ích an ninh chung của các bên hữu quan, Việt Nam sẵn sàng đàm phán hoà bình để giải quyết, trước mắt là đạt tới sự thoả thuận về “Bộ quy tắc ứng xử” trong khi tiếp tục tìm kiếm giải pháp lâu dài.
Việt Nam ủng hộ việc giải quyết các điểm có nguy cơ bùng nổ xung đột khác trong khu vực thông qua đối thoại, thương lượng hoà bình, không sử dụng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực.

PHẦN THỨ HAI
XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN

Nền quốc phòng của Việt Nam do toàn dân tham gia xây dựng, là nền quốc phòng toàn diện, ngày càng hiện đại, dựa vào sức mình là chính, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững hoà bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhờ sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, dân tộc Việt Nam đã thành công trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
Ngày nay, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh bao gồm xây dựng tiềm lực quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng, và quản lý nhà nước về quốc phòng.

1-Xây dựng tiềm lực quốc phòng
Tiềm lực quốc phòng Việt Nam bao gồm: tiềm lực chính trị-tinh thần, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học-công nghệ, và tiềm lực quân sự.
Tiềm lực chính trị-tinh thần là thành tố cơ bản của tiềm lực quốc phòng, chứa đựng trong tố chất của con người, trong truyền thống văn hoá của dân tộc và trong hệ thống chính trị. Với ý chí thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” và chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, dân tộc Việt Nam đã xây đắp nên truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần tự lực, tự cường, anh dũng, bất khuất trong suốt quá trình đấu tranh lâu dài để tồn tại và phát triển.
Xây dựng tiềm lực chính trị-tinh thần trước hết là xây dựng lòng tin của mọi tầng lớp nhân dân vào bản chất tốt đẹp của chế độ, vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việc xây dựng tiềm lực chính trị-tinh thần đòi hỏi phải tiến hành giáo dục quốc phòng cho toàn dân, trước hết là cho thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng-an ninh cho cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, thực hiện mở rộng dân chủ theo phương châm “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”. Mặt khác, việc mở rộng dân chủ phải gắn liền với việc xây dựng kỷ cương phép nước, giáo dục mọi người dân ý thức chấp hành pháp luật và trách nhiệm đối với sự nghiệp quốc phòng. Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật, nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Ở Việt Nam hiện nay có hơn 20 triệu tín đồ và khoảng 56.000 chức sắc thuộc 6 tôn giáo chính: Phật giáo, Phật giáo Hoà hảo, Công giáo, Cao đài, Tin lành, Hồi giáo. Việt Nam được coi là “bảo tàng” của các tôn giáo trên thế giới. Theo số liệu thống kê năm 2002, riêng Phật giáo đã có tới 33.066 tăng ni, 14.043 chùa và tu viện; Công giáo có 1.838 giáo xứ, 6.003 cơ sở thờ tự.
Nhà nước Việt Nam luôn chủ trương thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.
Tiềm lực kinh tế là cơ sở vật chất của nền quốc phòng toàn dân, được xây dựng theo kế hoạch chiến lược của nhà nước trên cơ sở một nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển nhanh và bền vững.
Trong nhiều năm qua, kinh tế Việt Nam đã liên tục đạt nhịp độ tăng trưởng cao. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2000 tăng gấp 2,07 lần so với năm 1990; năm 2001 tăng 6,89%; năm 2002 tăng 7,04%; năm 2003 tăng 7,24%. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp năm 2003 tăng 4,1%; công nghiệp tăng 16%; các ngành dịch vụ tăng 6,57%; kim ngạch xuất khẩu tăng 19% đạt 19,9 tỷ USD; tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt mức 35,6% GDP; tạo việc làm mới cho 1,5 triệu người, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo xuống còn 12%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá: tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng nhanh, từ 36,73% (năm 2000) lên 38,13% (năm 2001), 38,55% (năm 2002) và 40% (năm 2003). Tỷ trọng nông nghiệp giảm dần, từ 24,52% xuồng 23,34%, 22.99% và 21,6% trong các năm tương ứng so với các năm trước.
Từ tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng, nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ. Kết cấu hạ tầng phát triển nhanh. Việt Nam đã chủ động từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Môi trường đầu tư ở Việt Nam ngày càng được cải thiện, thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) khá lớn cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Do thu nhập quốc dân tính theo đầu người tăng khá, đặc biệt là nếu tính theo giá trị tương đương sức mua (PPP), đời sống vật chất, tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân bao gồm cả lực lượng vũ trang được cải thiện rõ rệt; trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên đáng kể.
Để tăng cường tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân, một trong những chủ chương quan trọng của Nhà nước là kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chủ trương này được quán triệt trong các quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của từng ngành, từng địa phương.
Nỗ lực xây dựng tiềm lực kinh tế cho nền quốc phòng toàn dân trong những năm qua đã mang lại những kết quả khả quan. Đến nay, Việt Nam đã có lượng dự trữ lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng đủ đáp ứng yêu cầu đối phó với mọi tình huống khẩn cấp; hệ thống cơ sở hạ tầng được phát triển ngày càng hoàn chỉnh và hiện đại đang phát huy tác dụng phục vụ cả cho phát triển kinh tế và hoạt động quốc phòng. Ngân sách quốc gia tuy còn hạn hẹp nhưng cũng đã dành một phần cần thiết cho quốc phòng nói chung, và đáp ứng yêu cầu thiết yếu phát triển nền công nghiệp quốc phòng nói riêng, để đảm bảo trang bị cho lực lượng vũ trang.
Tiềm lực khoa học – công nghệ là thành tố có vai trò ngày càng quan trọng trong tiềm lực quốc phòng. Những yếu tố cơ bản của tiềm lực khoa học – công nghệ là khả năng và trình độ phát triển khoa học - công nghệ, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác nghiên cứu – phát triển, phổ biến, ứng dụng khoa học - công nghệ.
Nhà nước Việt Nam coi phát triển khoa học - công nghệ cùng với phát triển giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng đất nước giàu mạnh.
Hai khâu cơ bản được Nhà nước đặc biệt quan tâm trong xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ là xây dựng đội ngũ cán bộ có đức, có tài, có hoài bão và quyết tâm đưa đất nước vươn lên đỉnh cao mới và xây dựng một bước cơ bản cơ sở vật chất, kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu – phát triển khoa học - công nghệ phục vụ cho các dự án then chốt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cung cấp luận cứ khoa học cho các chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng.
Để đẩy mạnh việc xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ, Nhà nước Việt Nam đã ban hành Luật khoa học và công nghệ; có chính sách động viên, khuyến khích các nhà khoa học; tăng cường đầu tư cho việc đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao cả chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ; áp dụng nhiều hình thức biểu dương, tôn vinh địa vị xã hội của các nhà khoa học và các chuyên gia công nghệ hàng đầu. Nhà nước khuyến khích việc áp dụng nhiều hình thức sử dụng và phát huy năng lực của đội ngũ trí thức tuổi cao nhưng còn sức cống hiến. Hình thức tổ chức, phương pháp và cơ chế hoạt động hợp lý của các trung tâm, các viện nghiên cứu - phát triển khoa học - công nghệ đã có tác dụng phát huy tối đa trí tuệ tập thể cũng như tài năng cá nhân của các nhà khoa học.
Nhà nước cũng đã đề ra các biện pháp từng bước tạo lập thị trường khoa học - công nghệ; tăng đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ từ nhiều nguồn; coi trọng việc ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ để phát triển sản xuất; mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ; đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học - công nghệ cho nhân dân…
Tuy còn những khó khăn hạn chế, nhưng tiềm lực khoa học - công nghệ của đất nước đang từng bước được tăng cường, phục vụ ngày càng có hiệu quả cho phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng – an ninh của Việt Nam.
Tiềm lực quân sự là bộ phận nòng cốt của tiềm lực quốc phòng, được xây dựng trên nền tảng của tiềm lực kinh tế, chính trị - tinh thần, khoa học - công nghệ.
Nhà nước Việt Nam xây dựng tiềm lực quân sự theo kế hoạch chiến lược phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; thường xuyên quan tâm duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát triển năng lực chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang cả về nhân lực, tổ chức, biên chế, trang bị, cơ sở bảo đảm hậu cần, khoa học và nghệ thuật quân sự; coi trọng hai yếu tố cơ bản là con người và vũ khí, trang bị, nhưng chính xác định rõ con người là yếu tố quyết định nhất.
Việt Nam có tiềm lực quân sự mạnh một phần nhờ nguồn nhân lực dồi dào. Số thanh niên nhập ngũ hàng năm có thể chất, trình độ học vấn và ý thức quốc phòng ngày càng cao, luôn tự giác thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại ngũ, họ trở về đời sống dân sự, tham gia các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và là lực lượng dự bị hùng hậu, sẵn sàng động viên bổ sung cho lực lượng thường trực khi cần.
Tiềm lực quân sự Việt Nam còn thể hiện ở khả năng động viên công nghiệp, nông nghiệp, khoa học - kỹ thuật, giao thông vận tải và các ngành dịch vụ công cộng khác để đáp ứng yêu cầu quốc phòng khi xảy ra tình huống khẩn cấp.
Nhà nước Việt Nam chủ trương gắn việc xây dựng tiềm lực quân sự với việc xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học - công nghệ, coi đó là yêu cầu tất yếu trong xây dựng tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân, bảo đảm khả năng huy động tạo thành sức mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
2. Xây dựng thế trận quốc phòng
Thế trận quốc phòng toàn dân là thế bố trí lực lượng và tiềm lực quốc phòng trên toàn bộ lãnh thổ theo ý định chiến lược, bảo đảm đối phó thắng lợi với mọi âm mưu và hành động bạo loạn vũ trang, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, sự toàn vẹn lãnh thổ, và lợi ích quốc gia của Việt Nam.
Thế trận quốc phòng được xây dựng gắn với quy hoạch tổng thể của quốc gia, của các tỉnh, thành phố theo hướng kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế; chú trọng điều hoà nhân lực, bố trí cơ cấu kinh tế - kỹ thuật; kết hợp việc bố trí phân vùng kinh tế với thế bố trí quốc phòng; xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phòng thủ, thiết bị chiến trường, hậu phương chiến lược… hình thành các khu vực chiến lược vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng, an ninh. Nòng cốt của thế trận quốc phòng toàn dân là bố trí chiến lược của lực lượng vũ trang và các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố.
Trên cơ sở điều chỉnh thế bố trí chiến lược của nền kinh tế trên phạm vi cả nước, Nhà nước tăng cường đầu tư xây dựng các tỉnh, thành phố thành các khu vực phòng thủ vững chắc, bảo đảm trong thời bình có khả năng tự lực giải quyết những tình huống khẩn cấp ở địa phương mình; khi xảy ra chiến tranh thì chủ động đánh địch ngay từ đầu, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch và đẩy quân địch vào thế bị động, sa lầy, tạo thời cơ và phối hợp chặt chẽ với các binh đoàn chủ lực tiêu diệt địch. Việc xây dựng cơ sở thôn (bản), xã (phường), các vùng biên giới, hải đảo và các địa bàn trọng yếu vững mạnh toàn diện được đặc biệt coi trọng.
Thế trận quốc phòng toàn dân gắn bó chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân của Việt Nam bảo đảm tính liên hoàn, vững chắc, phát huy được sức mạnh của các lực lượng, kết hợp được các hình thức hoạt động vũ trang và phi vũ trang, tạo được khả năng cơ động linh hoạt, khả năng độc lập và phối hợp tác chiến, có thể nhanh chóng chuyển hoá thành thế trận chiến tranh nhân dân khi tình hình đòi hỏi.
3. Quản lý Nhà nước về quốc phòng
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện việc quản lý quốc phòng theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nội dung cơ bản của công tác quản lý Nhà nước về quốc phòng gồm: ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng; xây dựng quy hoạch, kế hoạch động viên quốc phòng; tổ chức, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng và các biện pháp cần thiết để bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện các quy định của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành Luật nghĩa vụ quân sự, Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật biên giới quốc gia; Chủ tịch nước ký ban hành các pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên, dân quân - tự vệ, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, cảnh sát nhân dân, an ninh nhân dân, bảo vệ bí mật quốc gia, bảo vệ các công trình quốc phòng và khu quân sự, động viên công nghiệp… Chính phủ ban hành các nghị định, quyết định để thực hiện Luật, Pháp lệnh nêu trên. Hệ thống pháp luật về quốc phòng, hệ thống chính sách về củng cố quốc phòng và xây dựng quân đội đang được hoàn thiện.
Quy hoạch, kế hoạch động viên quốc phòng đã được xây dựng và điều chỉnh phù hợp với yêu cầu của các tình huống khác nhau. Các nhiệm vụ khác như giáo dục quốc phòng, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng và đối ngoại quân sự, bảo đảm đời sống vật chất cho lực lượng vũ trang và thực hiện các chính sách hậu phương quân đội, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng đều được thực hiện có kết quả.
Công tác nghiên cứu khoa học nhằm đề xuất những giải pháp tối ưu cho việc hiện đại hoá quốc phòng từng bước, phù hợp với khả năng thực tế của nền kinh tế được Nhà nước chú trọng.
Trên cơ sở hệ thống chính sách ngày càng hoàn chỉnh về hệ thống văn bản pháp luật ngày càng chặt chẽ, được toàn dân tích cực tham gia xây dựng, Nhà nước đã quản lý thống nhất và hiệu quả sự nghiệp quốc phòng. Vì vậy, dù đất nước còn gặp không ít khó khăn, ngân sách quốc phòng chiếm tỉ lệ khoảng 2,5% GDP nhưng nền quốc phòng Việt Nam vẫn ngày càng được củng cố.
Trong tình hình mới, Việt Nam tiếp tục thực hiện chủ trương phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, tăng cường tiềm lực mọi mặt và thế trận quốc phòng để chủ động ngăn ngừa, đối phó kịp thời với các tình huống phức tạp, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền sự toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị để phát triển đất nước.

PHẦN THỨ BA
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngày nay gồm Quân đội nhân dân, dân quân tự vệ, cảnh sát biển, và công an nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa đồng thời góp phần cùng toàn dân xây dựng đất nước.

1. Các thành phần lực lượng vũ trang.
Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân đội nhân dân Việt Nam, nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, là một quân đội kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, có mục tiêu chiến đấu nhất quán “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”.
Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944. Đó là ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân-đội quân chủ lực đầu tiên-theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Kế thừa và phát huy truyền thống quân sự của dân tộc, dựa vào sức mạnh của nhân dân và chiến tranh nhân dân Việt Nam, sự đoàn kết giúp đỡ của nhân dân và quân đội các nước anh em, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, Quân đội nhân dân Việt Nam phát triển từ nhỏ đến lớn, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng lớn và trưởng thành vượt bậc. Sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam thể hiện trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược bắt nguồn từ sự giác ngộ chính trị-tư tưởng, thống nhất về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, tình đoàn kết quân dân, đoàn kết nhất trí giữa cán bộ và chiến sĩ, mưu trí dũng cảm trong chiến đấu, năng động sáng tạo trong sử dụng những vũ khí, trang bị kỹ thuật phù hợp với nghệ thuật quân sự Việt Nam, chiến trường Việt Nam.
Trong thời kỳ hoà bình xây dựng, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống và bản chất tốt đẹp, luôn làm đúng chức năng của một đội quân chiến đấu, công tác, sản xuất, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Ngày nay, đất nước đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá, Quân đội nhân dân Việt Nam đang phát huy vai trò nòng cốt trong củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, cùng các thành phần khác của lực lượng vũ trang góp phần củng cố khối đoàn kết toàn dân chống mọi mưu đồ, chia rẽ tôn giáo, dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự xã hội, bảo vệ cuộc sống và thành quả lao động của nhân dân, xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.1. Về tổ chức, Quân đội nhân dân Việt Nam gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương; có lực lượng thường trực và lực lượng dự bị.
Lực lượng thường trực gồm toàn bộ quân nhân tại ngũ, công chức và công nhân viên quốc phòng đang phục vụ trong quân đội. Trong thời bình, lực lượng thường trực được duy trì ở mức cần thiết tối thiểu, đủ đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu, thường xuyên làm nhiệm vụ huấn luyện, bảo quản vũ khí, trang bị kỹ thuật và vật chất dự trữ. Lực lượng thường trực đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng lực lượng dự bị để bảo đảm nguồn bổ sung cho lực lượng thường trực khi cần.
Lực lượng dự bị gồm toàn bộ quân nhân dự bị đã được lựa chọn, sắp xếp để đáp ứng yêu cầu động viên theo kế hoạch động viên. Trong thời bình, lực lượng dự bị được đăng ký, quản lý, tổ chức thành các đơn vị dự bị, được huấn luyện theo chương trình quy định và thực hiện các nhiệm vụ khác tại địa phương. Lực lượng dự bị có đủ các thành phần tương ứng với các thành phần của lực lượng thường trực, gồm sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ các quân chủng, binh chủng của bộ đội chủ lực, địa phương đã hoàn thành nhiệm vụ tại ngũ, và một số công dân được quy định trong ngạch dự bị.
Từ khi bước vào thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước, Nhà nước Việt Nam đã quyết định giảm 2/3 quân số thường trực; điều chỉnh chiến lược để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế, đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Việc giảm số quân thường trực và điều chỉnh chiến lược được thực hiện đồng thời với việc nâng cao chất lượng mọi mặt, để quân đội đủ sức đối phó với mọi tình huống xung đột vũ trang, chiến tranh đe doạ độc lập, chủ quyền, thống nhất, sự toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quân đội nhân dân Việt Nam thuộc quyền thống lĩnh của Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ huy, điều hành quân đội và thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về quốc phòng. Bộ Quốc phòng có các cơ quan: Bộ Tổng tham mưu; Tổng cục Chính trị; Tổng cục Hậu cần; Tổng cục Kỹ thuật; Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng; Tổng cục II và các tổ chức trực thuộc khác.
1.1.2. Các thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam
1.1.2.1. Bộ đội chủ lực
Bộ đội chủ lực là thành phần nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm các quân chủng, quân đoàn, binh chủng và bộ đội chuyên môn có khả năng cơ động cao, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu chiến đấu trong mọi tình huống, mọi lúc, mọi nơi. Ngoài các đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu còn có một hệ thống hoàn chỉnh các đơn vị bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; các học viện, viện nghiên cứu, trường đào tạo sĩ quan và trường nghiệp vụ các cấp.
-Lục quân
Lục quân Việt Nam không tổ chức thành bộ tư lệnh riêng mà gồm các quân khu, quân đoàn binh chủng hợp thành, các binh chủng: pháo binh, công binh, thông tin, hoá học, tăng-thiết giáp, đặc công và các đơn vị trực thuộc Bộ. Các quân khu được tổ chức trên các hướng chiến lược gồm các binh đoàn chủ lực trực thuộc quân khu và các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện trong quân khu.
Lục quân Việt Nam, dưới sự chỉ huy chung của Bộ Tổng tham mưu, đóng vai trò quan trọng trong Quân dội nhân dân Việt Nam qua các thời kỳ, là lực lượng được xây dựng từ ngày đầu thành lập quân đội và đã từng bước phát triển cả về quy mô tổ chức và chất lượng cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, và phương thức tác chiến của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Lục quân Việt Nam được trang bị theo hướng hiện đại, gọn nhẹ, có khả năng cơ động cao, có sức đột kích và hoả lực mạnh, có khả năng tác chiến trong các điều kiện, địa hình, thời tiết, khí hậu trên đất nước của mình phù hợp với cách đánh mới ngày càng được hoàn thiện. Trải qua thử thách trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, Lục quân Việt Nam đã từng bước trưởng thành, luôn luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và tạo nên truyền thống vẻ vang. Tất cả các quân đoàn, hầu hết các binh chủng và nhiều đơn vị của Lục quân đã được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Đơn vị cơ động lớn nhất của Lục quân Việt Nam hiện nay là quân đoàn. Số lượng quân đoàn tuỳ thuộc yêu cầu từng thời kỳ chiến đấu cũng như sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Các đơn vị nhỏ hơn có sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, trung đội, tiểu đội.
-Hải quân
Hải quân nhân dân Việt Nam, tiền thân là Cục Phòng thủ bờ biển, thành lập ngày 07 tháng 5 năm 1955, sau đó thành Cục Hải quân (thành lập ngày 24 tháng 02 năm 1959), và chính thức trở thành một quân chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 03 tháng 01 năm 1964 với việc thành lập Bộ Tư lệnh Hải quân.
Quân chủng Hải quân có nhiệm vụ bảo vệ vùng biển và vùng trời trên biển của Việt Nam. Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của không quân và hải quân Mỹ cũng như trong kháng chiến giải phóng miền Nam, Hải quân nhân dân Việt Nam đã tham gia các hoạt động chiến đấu trên biển, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, đặc biệt đã hoàn thành nhiệm vụ thu hồi phần lớn các đảo và quần đảo-phần lãnh thổ của Tổ quốc trên biển-từ tay chế độ Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh. Năm 1989, Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Hải quân nhân dân Việt Nam có các thà