Langven.com Forum

Giúp đỡ - Lục lọi - Dân l ng - Lịch
Full Version: Tham Nhũng Và Tăng Trưởng Kinh Tế
Quán nước đầu làng Ven > Gặp Gỡ - Trao Đổi - Làm Quen > Thời Sự
Pages: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25
soctettoc
Đây là bài viết GS.TS Kinh tế học Trần Hữu Dũng, Wright State University - theo tớ là khách quan và nhìn nhận vấn đề một cách khá toàn diện. Chắc thế nào cũng có bạn đọc rồi nhưng tớ cứ xin post lên đây.


Tham nhũng và tăng trưởng kinh tế


Trần Hữu Dũng

Tóm tắt: Mục đích của bài này là để phân tích những quan hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng kinh tế, chú trọng đặc biệt đến trường hợp các quốc gia cần phát triển và đang chuyển đổi như Việt Nam. Trước tiên, nó lược duyệt những hậu quả kinh tế tiêu cực (và vài hậu quả tích cực của tham nhũng). Sau đó, nó sẽ đưa ra một số biện pháp chống tham nhũng trên ba bình diện: giảm động lực tham nhũng, giảm cơ hội tham nhũng, và giảm lợi lộc do tham nhũng. Bài này cũng phân tích mối quan hệ giữa tham nhũng và vài vấn đề kinh tế khác.

Tham nhũng là một tệ nạn trầm trọng ở nhiều quốc gia kém mở mang (và một số quốc gia đã mở mang) trong đó có Việt Nam. Tham nhũng xúc phạm đạo đức, lũng đoạn xã hội, khơi dậy những nghi vấn nghiêm khắc về thực chất của chế độ chính trị, đó là những sự kiện ai cũng biết và đã được bàn cãi khá nhiều. Trong thời gian gần đây, một số tổ chức quốc tế (Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Châu Âu…) cũng quan tâm đặc biệt đến tệ nạn này, coi nó là một nhân tố quyết định trong chính sách của họ đối với các quốc gia phát triển.

Điều đáng ngạc nhiên là mãi cho đến gần đây, những ảnh hưởng kinh tế của tham nhũng, nhất là trong một quốc gia cần phát triển và đang chuyển đổi như Việt Nam, ít khi được phân tích chu đáo. Nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời thỏa đáng: Tác động kinh tế của tham nhũng là sao? Bản chất mối liên hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng là thế nào? Tham nhũng gây chậm tiến hay chậm tiến gây tham nhũng? Kinh tế thị trường là nguyên nhân hay giải pháp của tham nhũng?

Có người sẽ cho rằng không cần đi chi tiết vào những câu hỏi ấy bởi lẽ, theo họ, hậu quả tai hại của tham nhũng là quá hiển nhiên: bài toán bức xúc là phải làm sao để tận diệt nó. Cũng có người sẽ khẳng định tham nhũng là một tệ nạn giai đoạn: trong một nền kinh tế đang nhanh chóng chuyển thể và phát triển thì tham nhũng là khó thể tránh; khi kinh tế và xã hội đã phát triển thì tệ nạn ấy sẽ đương nhiên giảm đi.

Hai thái độ ấy (một thì cho rằng phải tận diệt tham nhũng bằng mọi giá, một thì cho rằng phải tạm thời chấp nhận tham nhũng) cần được xét lại. Một mặt, phải thấy rằng chống tham nhũng là một hoạt động đòi hỏi nhiều sức người, sức của. Do đó, để phân bố hữu hiệu nguồn lực quốc gia, ta cần quá triệt một cách khách quan, đè nén cảm tính nông nổi, phân tích những yếu tố đưa đến tham nhũng và hậu quả thực sự của hiện tượng này. Mặt khác, ý kiến cho rằng phát triển kinh tế có thể đo đôi với tham nhũng là một khẳng định còn thiếu thực chứng, và sẽ rất tai hại cho chính sách nếu sai lầm. Ta phải nghĩ sao nếu tham nhũng chính nó sẽ làm trì trệ tăng trưởng hay, nói cách khác, liên hệ giữa tăng trưởng và tham nhũng là liên hệ hai chiều? Thực vậy, trong bối cảnh hiện nay của nhiều nước đang phát triển và chuyển tiếp như Việt Nam, Trung Quốc (và, một phần nào đó, kể cả Nga)… tham nhũng là biểu hiện hội điểm của nhiều biến chuyển đa nguyên, đa dạng (xã hội, chính trị, lịch sử, kinh tế). Nó có thể vừa là nguồn gốc, vừa là hậu quả, vừa là cái móc nối nhiều tệ nạn. Coi tham nhũng như là một đặc tính giai đoạn của một tiến trình lịch sử đường thẳng, theo tôi nghĩ, là một nhận định sai lầm.

Mục đích của bài này là nhằm đưa ra một số ý kiến về quan niệm giữa tham nhũng và tăng trưởng kinh tế, cụ thể là về các câu hỏi đặt ra ở trên. Đoạn I lược duyệt những tác động kinh tế tiêu cực của tham nhũng, chú ý đặc biệt đến ảnh hưởng của tham nhũng đến tăng trưởng. Đoạn II phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến mức độ tham nhũng, từ đó suy ra những biện pháp giảm trừ tham nhũng. Đoạn III bàn thêm về liên hệ giữa tham nhũng và các vấn đề kinh tế khác. Đoạn IV là kết luận.
soctettoc
I. Những tác động kinh tế tiêu cực của tham nhũng
Cần nhìn nhận rằng không phải bao giờ cũng dễ xác định hành động nào là tham nhũng, hành động nào là không. Điển hình: mọi xã hội đều có phong tục quà cáp, đãi đằng. Đến mức độ nào thì các tập quán đó (khi chúng liên hệ đến công chức cán bộ) là tham nhũng? Theo một số nhà nghiên cứu phương Tây [xem Tanzi (1995)] thì tham nhũng là bất cứ hành vi nào của quan chức chịu ảnh hưởng của liên hệ cá nhân hoặc gia đình chứ không phải hoàn toàn vì tín hiệu thị trường. Tôi cho rằng quan điểm đó vừa quá nhỏ hẹp, lại có ý quá tôn vinh cơ chế thị trường, nhưng không tìm được một định nghĩa vắn tắt và thỏa đáng hơn.

Như đã nói, bài này chỉ chú ý đến tác động kinh tế tiêu cực của tham nhũng. Có thể xếp các tác động này vào bốn phạm trù: phân bố nguồn lực, công cụ chính sách và cải cách thể chế, phân hóa giàu nghèo và tính truyền nhiễm của nó.

1. Ảnh hưởng đến phân bố nguồn lực
a) Muốn một nền kinh tế hoạt động tối hảo thì nguồn lực quốc gia (nhất là vốn) phải được phân bố cho đúng giữa đầu tư (cho tương lai) và tiêu xài (cho hiện tại), và hơn nữa, vốn đầu tư phải được phân bố cho đúng giữa các dự án khác nhau. Vì nhiều lý do, tham nhũng sẽ làm phân bố nguồn lực chệch ra ngoài cấu trúc tối hảo cho tăng trưởng và phát triển. Một là, trong một thế giới mà vốn có thể di chuyển khá dễ dàng từ nơi này sang nơi khác, người có vốn sẽ đầu tư vào những quốc gia ít tham nhũng. Hai là, trong một quốc gia, vốn sẽ chảy vào các khu vực ít tham nhũng. Ba là, nguồn lực nói chung sẽ được tiêu xài cho hiện tại hơn là đầu tư cho tương lai. Bốn là, những dự án được đầu tư thường là những dự án quá quy mô và phức tạp, bởi lẽ công trình càng quy mô và phức tạp thì cơ hội tham nhũng càng nhiều và càng dễ che đậy. Tất cả bốn xu hướng đó có thể đưa vốn vào các mục tiêu, địa phương, hoặc khu vực trái ngược nhu cầu phát triển.

b) Tham nhũng sẽ ảnh hưởng đến phân phối nguồn lực con người. Cụ thể, nó sẽ đưa đẩy nhiều tài năng vào những hoạt động không ích lợi cho xã hội. Thứ nhất, một số người sẽ bị thu hút vào các lĩnh vực dính líu đến tham nhũng (dù chính họ không tham nhũng) vì thu nhập ở các lĩnh vực này thường khá hơn các lĩnh vực khác. Thứ hai, nhiều doanh nhân phải tốn công, tốn sức khắc phục các rào cản, các thủ tục hành chính do giới chức tham nhũng dàn dựng, thay vì đưa những công sức ấy vào các hoạt động sản xuất.

c) Tham nhũng sẽ làm yếu đi tác động tích cực của cạnh tranh trên thị trường. Cụ thể, thế cạnh tranh thị trường sẽ không phản ánh hiệu năng kinh tế vì những xí nghiệp đút lót, dù kém hiệu năng, cũng sẽ được ưu đãi hơn những xí nghiệp khác. Tham nhũng sẽ làm cho điều kiện lao động thiếu vệ sinh, thiếu an toàn, gây ô nhiễm môi trường (chủ xí nghiệp đút lót cho các viên chức thanh tra). Cơ chế đầu thầu tham nhũng sẽ đưa đến các công trình xây cất thiếu chất lượng, chõng hư, dễ đổ.

2. Ảnh hưởng đến chính sách và cải cách thể chế

a) Tham nhũng sẽ ảnh hưởng đến ngân sách Nhà nước. Một mặt, ngân sách sẽ bị khiếm thu nếu có bộ phận trốn thuế hoặc được giảm thuế nhờ đút lót. Mặt khác, tham nhũng sẽ gây lạm chi cho nhiều chính sách xã hội và công nghiệp. Nhưng ảnh hưởng của tham nhũng đối với ngân sách sẽ không chỉ dừng lại ở đó: khi ngân sách bị thiếu hụt thì Nhà nước hoặc là phải cắt giảm các chương trình phúc lợi xã hội (gây thiệt thòi cho những đối tượng xứng đáng hưởng thụ các chương trình ấy) hoặc là tăng thuế. Thuế càng cao thì càng làm trì trệ các hoạt động kinh tế và, trong một xã hội đầy tham nhũng, càng làm thiệt thòi cho những doanh nhân lương thiện, không đút lót.

Bởi lẽ thu chi cũng là một công cụ nòng cốt trong chính sách điều tiết, ổn định và phát triển kinh tế của Nhà nước.

b) Tham nhũng có thể ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ qua ba kênh. Một là, các viên chức có trách nhiệm cho vay, nếu tham nhũng, sẽ cho những người đi vay có đút lót một lãi suất ưu đãi, làm tăng khối lượng tiền lưu hành, tạo sức ép lạm phát. Hai là, nếu khu vực doanh nghiệp Nhà nước là lớn thì chính sách tiền tệ (qua các quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp và ngân hàng) sẽ có ảnh hưởng qua lại đến tham nhũng trong các doanh nghiệp đó. Ý kiến về chính sách tiền tệ do người quản lý các doanh nghiệp này đưa ra có thể chỉ là để che đậy tham nhũng đang có trong doanh nghiệp của họ, hoặc để tạo thêm cơ hội tham nhũng. Ba là, những kẻ làm giàu bất chính thường lén lút chuồn tiền ra nước ngoài, tăng mức cầu ngoại tệ, làm yếu nội tệ, ảnh hưởng đến cán cân thương mại quốc gia.

c) Bất cứ lúc nào, (nhưng đặc biệt là trong thời kỳ chuyển đổi cơ cấu kinh tế) thì sự cải cách định chế quản lý Nhà nước cũng sẽ gặp nhiều khó khăn, một phần do những cản ngại khách quan, một phần vì những ỳ tính trong phong thái con người. Những khó khăn đó càng nhân lên nhiều lần khi quá trình cải cách bị các phần tử tham nhũng cố tình kiềm hãm (hầu duy trì những định chế tham nhũng hiện có) hoặc làm chệch hướng (lập ra những định chế mới với nhiều cơ hội tham nhũng hơn).

Điều đáng lo ngại là rất khó phát hiện ảnh hưởng của tham nhũng vào quá trình biến đổi thể chế, nhất là khi nó được che đậy dưới những chi tiêu nghe rất hợp lý. Chẳng hạn như theo nhận xét của nhiều học giả thì chính quá trình phân tán quyền hành (decentralization) đã làm tham nhũng bành trướng khủng khiếp ở Nga sau khi Liên Xô tan rã. Gần đây, ở Trung Quốc cũng đã có nhiều người cảnh báo về tham nhũng liên quan đến thị trường chứng khoán của họ. Tương tự, có người lo ngại rằng quyết định gần đây của Việt Nam nhằm tập trung nhiều doanh nghiệp Nhà nước thành một số tổng công ty, tuy có vài hiệu quả kinh tế tích cực đáng kể, nhưng sẽ làm tăng thêm cơ hội tham nhũng.
soctettoc
3. Ảnh hưởng đến phân hóa thu nhập và công bằng xã hội
Tham nhũng sẽ làm trầm trọng hơn mức độ chênh lệch thu nhập trong xã hội. Các viên chức nhận hối lộ, cũng như những người đút lót để có đặc quyền kinh doanh, chiếm hữu ruộng đất, sẽ mau chóng làm giàu, trong lúc đại đa số dân chúng phải tiếp tục sống trong cảnh nghèo nàn, thậm chí có khi càng bần cùng thêm.

Phải nhìn nhận rằng, đến một chừng mực nào đó, thu nhập không đồng đều là một hậu quả khó tránh của kinh tế thị trường, thậm chí có thể là cần thiết cho sự vận hành năng động của cơ chế đó nếu nó phản ánh trung thực tài năng và sự cần mẫn làm ăn. Nhưng sự chênh lệch do thu nhập lại là một điều hoàn toàn khác. Ảnh hưởng của nó đến những nhân tố cần thiết cho tăng trưởng kinh tế sẽ rất lớn và tiêu cực. Một là, sự phân hóa này sẽ làm yếu đi động lực hy sinh vì lợi ích chung, hai là, nó xói mòn lòng trọng nể uy quyền nhà nước và do đó làm cùn nhụt các biện pháp điều tiết và chấn hưng kinh tế. Ba là, như đã nói, khi ngân sách bị khiếm hụt vì tham nhũng, nhà nước sẽ phải cắt giảm các hoạt động công ích và phúc lợi (giáo dục, xã hội, y tế) là các hoạt động mà đại bộ phận đối tượng là thành phần có thu nhập thấp. Như vậy, tham nhũng sẽ làm tăng khoảng cách giàu nghèo, khắc sâu hơn những ấn tượng bất công, mạnh mẽ khích động sự phẫn nộ đối với chế độ.

Nhìn một cách khác, liên hệ giữa tham nhũng và phân hóa thu nhập là hai chiều. Tham nhũng gây chênh lệch thu nhập, nhưng chính chênh lệch thu nhập cũng sẽ làm nhiều người mất niềm tin vào công bằng xã hội, đẩy họ vào con đường tham nhũng.

4. Ảnh hưởng của tham nhũng trên tham nhũng

Tham nhũng, nếu không bị chặn đứng, sẽ gây thêm tham nhũng. Một khi đã tham nhũng, người tham nhũng sẽ tham nhũng thường xuyên hơn và với số tiền lớn hơn. Các viên chức tham nhũng sẽ có xu hướng bổ nhiệm người kế vị hoặc thừa hành giống họ để tiếp tục giữ bí mật tham nhũng, bất kể năng lực thế nào. Tham nhũng càng nhiều thì “giá trị” của các chức vụ có cơ hội tham nhũng càng cao và sẽ sinh ra việc mua bán các chức vụ đó. Những người mua chức vụ đương nhiên sẽ tham nhũng thêm để lấy lại “vốn đầu tư” của mình và sẽ chống đối các cải cách có cơ làm giảm quyền lực những chức vụ đó. Các viên chức tham nhũng sẽ thích nhận đút lót của những người có tiếng tham nhũng hơn là những người thanh liêm bởi những người có tiếng ham đút lót sẽ ít khi “trở cờ” truy tố kẻ nhận đút lót. Hậu quả là mạng lưới tham nhũng ngày càng bành trướng thêm.

Những người thanh liêm thì một là sẽ bị những kẻ tham nhũng loại trừ, hoặc là cũng sẽ bị tham nhũng cám dỗ. Tham nhũng càng nhiều thì càng khó trừ diệt. Nếu tham nhũng là ít thì người ta có thể ngăn ngừa bằng cách luân chuyển công chức cán bộ, nhưng nếu tham nhũng là rộng khắp thì việc thuyên chuyển cũng là một cơ hội tham nhũng thêm.

5. Tham nhũng có chăng những hậu quả kinh tế tích cực?

Mặc dù có nhiều ảnh hưởng kinh tế tiêu cực như vừa lượt duyệt, một số tác giả cho rằng tham nhũng cũng có vài tác dụng tích cực. Theo họ, tham nhũng, nếu ta không nhìn đến sự xúc phạm các giá trị đạo đức của nó, cơ bản chỉ là một hoạt động mua bán chẳng khác gì các hoạt động mua bán khác trên thị trường. Nói cách khác, đút lót hối lộ là đối sách tự nhiên của một “con người kinh tế” nhằm vượt qua các cản ngại trong kinh doanh (hành chính quan liêu, thủ tục rườm rà). Nó cũng có thể được coi như là một thứ “bảo hiểm” do doanh nhân mua nhằm phòng chống những thay đổi bất ngờ về luật lệ, chính sách, gây xáo trộn các kế hoạch làm ăn của họ. Một số nhà kinh tế còn cho rằng, trong nhiều trường hợp, các quan chức cấp đặc quyền kinh tế cho bạn bè, thân quyến chẳng phải vì tham nhũng mà vì họ biết rõ hạnh kiểm và năng lực của những người này hơn là của những người mà họ không quen. Cũng có người nghĩ rằng, các viên chức tham nhũng sẽ làm việc năng nổ hơn, dù chỉ là để phục vụ các doanh nghiệp mà họ đã nhận đút lót.

Thoạt nhìn thì các biện giải trên không phải là hoàn toàn phi lý, nhưng xem kỹ lại thì chúng căn cứ vào nhiều giả định huyền hoặc, thậm chí ngây thơ. Thứ nhất, lý luận cho rằng tham nhũng có hậu quả tốt cho nền kinh tế chỉ có thể là đúng (nếu là đúng) phần nào đối với loại tham nhũng liên quan đến mua bán những quyết định mà bản chất là hợp pháp (chẳng hạn như để làm nhanh thủ tục hành chính); lý luận đó không áp dụng được với loại tham nhũng dính líu đến chia chác lợi lộc các loạt hoạt động phi pháp (như buôn lậu, biển thủ). Nói cách khác, sự “năng nổ” phục vụ của quan chức có thể đem lại nhiều hậu quả tai hại hơn nếu chính những hoạt động mà họ nâng đỡ phục vụ là phi pháp. Thứ hai, chưa chắc là các viên chức nhận hối lộ sẽ làm việc năng nổ hơn. Có thể chính họ sẽ bày đặt thêm thủ tục hành chính để tăng cơ hội tham nhũng. Thứ ba, dù cho hoạt động tham nhũng có gián tiếp “đóng góp” phần nào vào tiến trình tự do hóa thị trường (bằng cách giảm đi hiệu năng can thiệp của Nhà nước) thì điều đó chỉ đáng cổ vũ nếu sự can thiệp của Nhà nước là hoàn toàn nên tránh. Nói khác đi, lập luận đó sẽ mất ý nghĩa nếu sự điều tiết của Nhà nước là cần thiết cho sự phát triển kinh tế hoặc những lợi ích công cộng khác.

Có người lý luận rằng, vì vốn là cần thiết để phát triển kinh tế, tham nhũng có thể có hậu quả “tốt” vì nó là một cách (dù phi pháp) cho một số người tích tụ vốn để đầu tư sản xuất. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm ở nhiều nước, tài sản do tham nhũng đem lại ít khi được kinh doanh chân chính hoặc vào những hoạt động có nhiều lợi ích cho quốc gia. Người tham nhũng hoặc là sẽ tiêu xài hoang phí (nhất là vào các hàng xa xỉ ngoại nhập), hoặc là giấu giếm tài sản của mình, thường bằng cách chuồn tiền ra nước ngoài, làm trầm trọng thêm tình hình đào tẩu vốn. Hơn nữa, các kinh doanh hợp pháp khó có lợi nhuận hậu hĩ như trong “dịch vụ” tham nhũng, do đó tài sản do tham nhũng đem lại thường được đưa vào những kinh doanh phi pháp khác.

Cũng có người cho rằng tính phi pháp cuả tham nhũng phải được thẩm định trong bối cảnh văn hóa và phong tục của xã hội liên hệ. Theo họ, tham nhũng ở các nước phương Đông thực sự là không nhiều như những người quan sát phương Tây nhận xét. Có nhiều phong tục tập quán trong một xã hội có thể bị người ngoài xã hội ấy cho là tham nhũng. Biện luận loại này về tính “tương đối” của văn hóa vừa là sai lầm, vừa có ý khinh rẻ văn hóa phương Đông. Tham nhũng không bao giờ được chấp nhận như một phong tục tập quán tốt trong bất cứ xã hội nào.
soctettoc
II. Tham nhũng: Thành tố và đối sách

Trước những hậu quả tệ hại của tham nhũng như đã trình bày ở Đoạn I, hai câu hỏi cần được đặt ra: (1) mức độ tham nhũng tùy thuộc vào những thành tố nào? Và (2) làm thế nào để bớt tham nhũng?

1. Ba thành tố quyết định mức độ tham nhũng

Ta có thể phân biệt ba thành tố quyết định tham nhũng, đó là: động lực, cơ hội và mức độ của tham nhũng.

(1) Hiển nhiên, tham nhũng chỉ có thể xảy ra khi những người ở địa vị nhận và nộp hối lộ có động lực để làm việc đó. Động lực tham nhũng chính nó sẽ tùy vào ba yếu tố. Một là tính ham chuộng vật chất, hai là đạo đức cá nhân (nhất là ý thức về quyền lợi cá nhân so với lợi ích cộng đồng), và ba là cảm quan về mức độ công bình xã hội, sự nghiêm minh của thể chế, và tác phong của những người có chức vụ cao. Trong một xã hội vô kỷ cương, khi mà những người ở địa vị có thể làm gương cho kẻ khác lại tham nhũng, vơ vét công sản, thì càng nhiều người sẽ cho tham nhũng là “tự nhiên,” và động lực không tham nhũng sẽ giảm đi.

(2) Thành tố thứ hai của tham nhũng là cơ hội dùng chức vụ Nhà nước để ra những quyết định có lợi cho một ít người, đáp lại đút lót của những người ấy. Cơ hội tham nhũng có thể do chính những viên chức có khuynh hướng tham nhũng xảy ra, ví dụ họ có thể làm rườm ra thêm thủ tục hành chính để có dịp chấm mút, tống tiền. Nói chung, giao diện giữa quyền lực hành chính và lợi lộc kinh tế cá thể (thay vì cộng đồng) càng lớn thì cơ hội tham nhũng càng nhiều. Cơ hội tham nhũng là biến số nghịch với (1) thẩm quyền tùy tiện quyết định, và (2) độ dễ phát hiện.

(3) Thành tố thứ ba của tham nhũng là mức lợi của nó. Mức lợi là tương đối, theo hai nghĩa: (a) một là, nó tùy thuộc vào mức khác biệt giữa thu nhập có tham nhũng và thu nhập không tham nhũng, (b) hai là, nó tùy thuộc vào thu nhập nếu tham nhũng được thoát và bị phạt (tiền phạt, mất chức, tù tội) nếu tham nhũng bị phát giác. Bảo rằng thu nhập thấp nhất thiết sẽ gây tham nhũng là không đúng. Cũng không hẳn tham nhũng sẽ giảm đi khi thu nhập bình quân cao, bởi lẽ, trong trường hợp đó, người đưa hối lộ sẽ có khả năng tăng số tiền hối lộ, tức là tăng mức lợi của tham nhũng.

Phải để ý là trong nhiều “dịch vụ tham nhũng,” cả người nhận lẫn người nộp hối lộ đều được lợi. Ai lợi nhiều, ai lợi ít, là tùy thuộc vào “thế thương lượng” giữa hai bên. Thế thương lượng của người nộp hối lộ sẽ tương đối mạnh nếu họ có cách tránh giới chức đòi hối lộ, hoặc là dễ tố cáo, khiếu nại. Ngược lại, nếu người nhận hối lộ nắm giữ những địa vị then chốt thì thế đòi tiền hối lộ sẽ lớn hơn.

Nhìn hiện trạng một số nước đang chuyển đổi (và có thể là đã khá phát triển), có người đặt câu hỏi: tại sao tham nhũng đặc biệt trầm trọng trong thời kỳ chuyển đổi từ một nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường? Người viết bài này có ý kiến như sau. Trong thời kỳ cũ, khi khu vực quốc doanh còn rộng thì tất nhiên là đa số những người có khả năng, năng động là nằm trong khu vực đó, tức là làm công chức cán bộ Nhà nước. Khi nền kinh tế chuyển đổi sang thị trường thì một số những người này, vừa có năng lực, lại vừa có cơ hội làm ăn kinh doanh trong khu vực tư, không cưỡng nổi sự cám dỗ lạm dũng những thông tin họ có được qua nhiệm chức, hoặc mạng lưới những người quen biết trong chính quyền, để làm ăn kinh doanh. Nhìn một cách khác, trong giai đoạn chuyển tiếp, một mặt thì giao diện giữa những hành chính công quyền và hoạt đông kinh tế còn rộng, mà mặt khác thì thu nhập do các hoạt động thị trường cũng đã tăng nhanh. Hậu quả là, cơ hội hối mại quyền thế vẫn còn lớn, mà người làm giàu nhờ tham nhũng dễ ngụy trang những thu nhập bất chính của mình qua những hoạt động thương mại thị trường. Đó là những lý do vì sao tham nhũng trong thời kỳ chuyển tiếp là đặc biệt trầm trọng.
soctettoc
2. Một số biện pháp đối phó với tham nhũng

Biện pháp đối phó với tham nhũng có thể chia thành ba nhóm, tương ứng với ba thành tố tham nhũng: động lực, cơ hội và mức lợi.

(1) Giảm động lực tham nhũng

Không có biện pháp chống tham nhũng nào quan trọng hơn làm kiềm hãm động lực tham nhũng, và chỉ có thể thực hiện được điều đó khi cấp lãnh đạo tuyệt đối thanh liêm trong sạch.

(2) Giảm cơ hội tham nhũng

(a) làm đơn giản, hợp lý hóa, lấp những lỗ hổng trong luật thuế, công khai hóa mức thuế, kiện toàn cơ cấu kiểm tra bộ máy thu thuế. Tránh đặt quá nhiều loại lệ phí. Chấn chỉnh guồng máy quản lý tài chính, kế toán, kiểm tra của Nhà nước, nhất là liên quan đến quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp của Nhà nước. Chấm dứt độc quyền và đặc quyền. Chấm dứt kiềm chế giá cả.

(b) Cơ hội tham nhũng sẽ đương nhiên giảm khi toàn bộ cơ cấu hành chính và kinh tế được minh bạch hóa. Khi cải cách thủ tục hành chính phải đặt câu hỏi: sắp xếp ra sao thì ít có cơ hội tham nhũng? Phổ biến rộng rãi ngân quỹ chi tiết của từng dự án. Công tác soạn thảo các định luật thiết lập thể chế (nhất là các quyết định về thuế) cần phải công khai, có sự bàn bạc, góp ý của các chuyên gia trong lẫn ngoài các cơ quan có liên quan. Mọi quyết định đều phải công khai. Khi thẩm định các đề án đầu tư xây dựng, chúng ta phải so sánh cơ hội tham nhũng của từng dự án. Nên để ý, vì tất cả mọi hoạt động kinh tế xã hội đều có quan hệ qua lại lẫn nhau, giảm cơ hội tham nhũng trong lĩnh vực này có thể sẽ gây thêm cơ hội tham nhũng ở lĩnh vực khác. Thu nhỏ “nền kinh tế ngầm” (các hoạt động kinh tế không khai thuế) vì khu vực này càng lớn thì hiệu năng của đòn bẩy thuế má càng yếu.

Theo kinh nghiệm nhiều nước, tham nhũng sẽ giảm đi nếu các viên chức trong công tác dễ tham nhũng làm việc theo cặp. Nên thuyên chuyển thường xuyên (tuy nhiên, có người cho rằng biện pháp này có thể làm tăng tham nhũng vì các viên chức sẽ cố gắng tham nhũng thật nhiều trước khi thuyên chuyển). Phải có một cơ chế hữu hiệu để người dân tố cáo tham nhũng.

Dù trên thực tế thì tổng thù lao (lương căn bản cộng với các phụ cấp ngoại ngạch hợp pháp, chính thức cũng như không chính thức) của số lớn cán bộ công chức hiện nay không là quá thấp so với khu vực tư, chế độ lương bổng cần phải sửa đổi. Những khoản phụ cấp ngoại ngạch là chỗ mà tham nhũng dễ nảy nở (đó là không nói đến việc Nhà nước sẽ mất thuế thu nhập vì những mối thu nhập ngoại ngạch này ít khi được khai báo). Nên chính thức hóa những loại phụ cấp này.

(3) Giảm lợi của tham nhũng

Như đã nói ở trên, lợi của tham nhũng là lợi tương đối: so với tình trạng không tham nhũng, cũng như so với những hình phạt nếu tham nhũng bị phát giác. Như vậy, để giảm tham nhũng, ta phải giảm chênh lệch thu nhập giữa tham nhũng và không tham nhũng, và tăng hình phạt tham nhũng.

Tuy rằng nâng cao mức sống công chức cán bộ có thể thực hiện ở nhiều mặt, trong một nền kinh tế thị trường thì nó gần như đồng nghĩa với tăng lương. Điều này dễ lý giải trong mô hình kinh tế: lương càng cao thì người tham nhũng sẽ mất mát nhiều hơn nếu tham nhũng bị phát giác. tăng lương cho công chức cán bộ không chỉ để các công chức cán bộ hiện tại không bị tham nhũng quyến rũ, mà còn để thu hút vào khu vực công những người thanh liêm và có năng lực. Nếu lương công chức và cán bộ là quá thấp so với khu vực tư thì khu vực công chỉ hấp dẫn đối với những thành phần xem quyền chức là cơ hội tham nhũng.

Tuy nhiên, cũng cần nghĩ đến vài hậu quả phức tạp của việc tăng lương cho công chức cán bộ. Một là, không phải cơ hội tham nhũng của mọi công chức cán bộ đều ngang nhau. Nếu chỉ tăng lương cho những ngành có cơ hội tham nhũng thì có là bất công cho những ngành không có cơ hội tham nhũng chăng? Hai là, tăng lương cho công chức cán bộ đủ cao để không kiếm chác thêm thì lại khiến nhiều người chạy chọt đút lót để có những chức vụ đó. Ba là, tăng lương cán bộ gây ra lam chi ngân sách và các hậu quả vĩ mô của nó.

Đối tượng của các biện pháp chống tham nhũng phải là (i) người nhận hối lộ cũng như người nộp hối lộ, (ii) giảm thu nhập do tham nhũng cũng như tăng hình phạt cho tham nhũng. Theo kinh nghiệm nhiều nước, các biện pháp chống tham nhũng nhằm vào người đi đút lót (hoặc làm trung gian) có thể có hiệu quả hơn nhằm vào người nhận đút lót.

Phải triệt để bảo vệ những người có can đảm tố cáo tham nhũng (có bằng cớ). Khuyến khích các phương tiện truyền thông điều tra tham nhũng (một cách có trách nhiệm). Đặc biệt trừng phạt nặng nề những người tham nhũng với những người có thu nhập thấp, hoặc những chương trình xã hội xóa đói giảm nghèo (đề nghị gần đây của phái đoàn Ngân hàng Thế giới ở Indonesia).
soctettoc
III. Tham nhũng và những vấn đề kinh tế khác

Tuy rằng hầu hết mọi người đều nhất trí về các thành tố gây tham nhũng và những biện pháp bài trừ tham nhũng trình bày ở Đoạn II trên đây, ý kiến có nhiều chỗ không tường tận và bất đồng đối với liên hệ giữa tham nhũng và những vấn đề kinh tế khác. Đoạn III này sẽ bàn đến bốn đề tài đương đại: (1) Tham nhũng và kinh tế thị trường, (2) tham nhũng và sự lựa chọn công cụ điều tiết, (3) tham nhũng và phát triển, và (4) tham nhũng trong một nền kinh tế mở.

1. Tham nhũng và kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường là giải pháp hay nguyên nhân của tham nhũng? Có hai quan điểm:

(1) Theo một quan điểm thì, nếu không bị kiềm chế, cơ cấu thị trường tự nó sẽ thanh lọc các cơ hội mờ ám, trừ khử chỗ dung thân của tham nhũng. Nói cách khác, thị trường là giải pháp cho tệ nạn tham nhũng. Quan điểm này lấy chủ nghĩa tư bản thị trường làm gốc, xem bản năng của người là vị kỷ, luôn tìm mọi cách để thủ lợi cho bản thân. Nó khẳng định Nhà nước không thể uốn biến động lực vị kỷ của con người, chỉ có thể thay đổi cơ hội và mức lợi của tham nhũng. Người có quan điểm này cho rằng cơ chế thị trường thông thoáng trong một xã hội kiên cố pháp trị sẽ làm giảm lợi lộc của tham nhũng. Một là, nếu như không còn hành chính quan liêu thì độc quyền sẽ ít đi, đặc lợi sẽ giảm xuống. Hai là, nếu bị trừng trị nặng nề thì cái “chi phí cơ hội” của tham nhũng sẽ là rất cao so với những hoạt động làm ăn hợp pháp. Tóm lại, tin tưởng tuyệt đối vào hiệu lực thị trường, quan niệm này vừa phủ nhận vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế, vừa khẳng định tham nhũng là tất nhiên trong một chế độ mà Nhà nước còn can thiệp vào các hoạt động kinh tế.

(2) Theo quan điểm thứ hai thì tham nhũng là hậu quả của tình trạng đạo đức suy đồi, kỷ cương lỏng lẻo. Nói cách khác, tham nhũng phát sinh từ động lực của con người. Đi xa hơn, nhiều người có quan điểm này còn cho rằng chính kinh tế thị trường, qua sự thúc đẩy tinh thần vị kỷ, thực dụng của nó, đã gây nên sự suy đồi đạo đức đó.

Phải nghĩ sao về hai quan điểm này?

Tạm gạt vấn đề tham nhũng qua một bên, ngay trong một nền kinh tế đã phát triển, thị trường đã mở mang, có nhiều lĩnh vực mà sự can thiệp của Nhà nước là cần thiết, nhất là trong những lĩnh vực kinh tế nhiều ngoại ứng (externalities). Nói cách khác, những người khẳng định rằng cơ chế thị trường sẽ làm giảm tham nhũng có lẽ đã quên những chỗ yếu của cơ chế đó (nhất là về mặt công bằng xã hội). Song, lý luận ngược lại, cho rằng phải chấp tham nhũng vì điều tiết là cần thiết cũng không đúng, vì hai lý do . Một là, không phải là bất cứ nơi đâu và lúc nào thì mức độ tham nhũng cũng tăng giảm cùng chiều với sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế. Nó còn tùy vào nhiều biến số khác như môi trường xã hội, luật pháp, thời điểm và khâu đoạn phát triển. Hai là, bởi lẽ tham nhũng làm rệu rã tính cộng đồng, xói mòn sự nể trọng uy quyền Nhà nước, chính nó sẽ làm vô hiệu hóa các biện pháp quản lý và điều tiết kinh tế. Như vậy, quan điểm thứ nhất thiếu một cái nhìn toàn bộ về năng lực của thị trường cũng như vai trò Nhà nước trong hoạt động kinh tế.

Quả đúng là một nhược điểm của cơ chế thị trường là nó chỉ khuyến khích những hoạt động có lợi cho cá nhân, không khuyến khích những hoạt động chỉ có lợi cho cộng đồng. Do đó, trong công tác chống tham nhũng, hiệu năng của những biện pháp mà mục đích là nhằm giảm đi động lực tham nhũng sẽ càng thấp khi mức độ thị trường hóa của nền kinh tế càng cao. Nói cách khác, nhiều biện pháp chống tham nhũng (ví dụ như kiên trì cổ vũ đạo đức, hồi phục truyền thống cách mạng) có hiệu quả ở một khâu đoạn này của quá trình thị trường hóa có thể sẽ không còn hiệu quả ở một khâu đoạn khác của quá trình đó. Những người cực đoan tôn vinh chủ nghĩa thị trường , không chú ý đến đặc trưng lịch sử và văn hóa của một nước, cũng sẽ sai lầm như những người cho rằng quá trình thị trường hóa có thể tiến hành biệt lập và hài hòa với những đặc trưng văn hóa và lịch sử ấy.

Trong một nền kinh tế lạc hậu, pháp luật còn phôi thai, nhiều sơ hở, và cơ chế tư pháp còn thiếu cán bộ đủ trình độ, thì sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường sẽ là môi sinh của tham nhũng. Nói khác đi, sự can thiệp đó sẽ là hữu hiệu hơn khi dân trí đã cao, định chế luật pháp (và guồng máy tư pháp) đã đầy đủ, rõ ràng, hoặc động lực tham nhũng yếu (tác phong đạo đức cá nhân, tinh thần cộng đồng xã hội còn mạnh). (Trong chừng mực mà sự can thiệp này là lý do thần kỳ Đông Á vào những thập niên 70, 80 thì có lẽ là do yếu tố sau cùng.)

Hơn nữa, thực chứng cho thấy xã hội có thể ảnh hưởng đến tác phong con người.

2. Tham nhũng và sự lựa chọn công cụ điều tiết kinh tế

Như đã trình bày, hoàn toàn buông thả thị trường, đình chỉ mọi can thiệp của Nhà nước, trên thực tế không phải là giải pháp độc nhất hoặc tốt nhất để bào trừ tham nhũng. Vì nhiều lý do khác nhau, sự can thiệp của Nhà nước (đến một mức độ nào đó) là cần thiết. Khẳng định như vậy để đi đến một nhận định kế tiếp, đó là: khi các đòn bẫy kinh tế bị tham nhũng làm méo mó thì các biện pháp điều tiết, các chính sách kinh tế vĩ mô, chẳng những sẽ không đem lại những kết quả mong muốn mà còn gây ra nhiều hậu quả còn tệ hại hơn là nếu không có những biện pháp và chính sách ấy. Nói cách khác, để sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường được hữu hiệu thì (1) phải diệt trừ tham nhũng (nhất là trong cơ chế điều tiết) hoặc là (2) chọn lực cơ chế điều tiết ít tham nhũng (mặc dù cơ chế ấy có thể ít hiệu năng (xét theo tiêu chí kinh tế nào đó) hơn một cơ chế khác..

Ví dụ thứ nhất: công cụ điều tiết vĩ mô tuy không có nhiều hiệu năng kinh tế như công cụ điều tiết vi mô nhưng có thể nên chọn nếu như nó ít gây ra cơ hội tham nhũng.

Ví dụ thứ hai: trong nhiều lĩnh vực điều tiết thì công cụ hạn ngạch (quantity control) có thể kém hiệu năng hơn công cụ giá (price control), tuy nhiên công cụ giá (qua thuế) sẽ tạo nhiều cơ hội tham nhũng hơn công cụ hạn ngạch, như vậy thì ta nên dùng công cụ hạn ngạch, ít nhất là cho đến khi guồng máy thuế vụ được trong sách hơn.

Ví dụ thứ ba: một cơ chế càng máy móc, cứng nhắc (yức là đáng trách cho một nền kinh tế cần linh động để phát triển) thì, oái oăm thay, thường lại là một cơ chế ít cơ hội tham nhũng (vì ít người có quyền ban ngoại lệ). Cũng vậy, thoạt nhìn thì để tránh tham nhũng trong guồng máy thuế khóa, luật thuế cần phải được rõ ràng, không để cán bộ thu thuế có quá nhiều quyết định tùy nghi. Lắm khi, giải pháp đó sẽ làm bộ máy hành chính quá cứng nhắc, không nhanh nhạy ứng biến với những tình huống cá biệt.

Ví dụ thứ tư: kinh nghiệm gần đây cho thấy sự đánh đổi giữa hiệu năng kinh tế và cơ hội tham nhũng là rõ rệt nhất trong những bài toán liên hệ đếm chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ở các quốc gia đang chuyển đổi. Nói thẳng ra, cổ phần hóa sẽ làm tăng hiệu năng kinh tế nhưng chính nó sẽ tạo ra nhiều cơ hội tham nhũng. Ta nên hỏi: có biện pháp nào (ngoài cổ phần hóa các DNNN) mà cũng tăng hiệu năng kinh tế tương tự nhưng ít có hiệu ứng thứ cấp tai hại như tham nhũng? Tối thiểu, nó bắt buộc phải có một sự chuẩn bị pháp lý tươm tất trước khi bắt đầu cổ phần hóa.

Trên bình diện kinh tế, đa số hoạt động chống tham nhũng (thanh tra, điều tra, công an, tư pháp) cần nhiều nhân lực có thể được sử dụng vào những hoạt động khác đóng góp trực tiếp hơn cho phát triển. Tuy sự đánh đổi này sẽ không là đáng kể khi nền kinh tế còn chưa đến mức độ tận dụng toàn bộ nguồn lực, nó đưa đến ba hệ luận. Thứ nhất, vì nguồn lực bao giờ cũng có giới hạn, phải chấp nhận rằng tham nhũng sẽ không bao giờ bị tận diệt. Thứ hai, phải cố gắng phát hiện những biện pháp chống tham nhũng dựa vào các đòn bẩy phi kinh tế, cần ít sức người, sức của. Thứ ba, phải đặt thứ tự ưu tiên.

Ưu tiên số một phải là bài trừ những tham nhũng có hại cho định chế và kinh tế nhất. Những tham nhũng trong khâu giao thông vận tải chẳng hạn, tuy có thể không “lớn” như những tham nhũng trong lĩnh vực ngân hàng hay các xí nghiệp quốc doanh, nhưng có ảnh hưởng rất sâu rộng và trực tiếp đến mọi thành phần, mọi hoạt động sản xuất. Tham nhũng dung túng những tội phạm kinh tế khác (buôn lậu, biển thủ). Như vậy, diệt trừ tham nhũng phải thực hiện trước, hoặc ít nhất đồng thời với những hoạt động bài trừ các tệ nạn xã hội khác.
soctettoc
3. Tham nhũng và phát triển

Như đã trình bày ở Đoạn I, tham nhũng có những hậu quả tiêu cực đến phân bố nguồn lực (nhất là vốn), đến chênh lệch thu nhập… là những yếu tố cần thiết để phát triển. Trong chừng mực đó, hiển nhiên là tham nhũng sẽ làm chậm phát triển. Tuy nhiên, vẫn tồn tại hai câu hỏi. Thứ nhất, vì như đã vừa nói ở trên, hoạt động chống tham nhũng cần một số nguồn lực có thể đầu tư cho phát triển, liệu có thể có kịch bản nào theo đó nên dồn hết nguồn lực phát triển? Thứ hai, nếu, dù có tham nhũng, song nhờ có những yếu tố nào đó mà ta có được tăng trưởng tiếp tục thì liệu chính sự tăng trưởng đó sẽ làm giảm tham nhũng chăng?

Nhiều học giả cho rằng không thể tránh được tình trạng tham nhũng sẽ trầm trọng trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển (nhất là khi sự phát triển đó là đồng thời với sự chuyển đổi từ nền kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường – xem đoạn trên). Họ lý luận rằng, một là, khi thị trường bắt đầu cất cánh thì nhiều cơ hội tham nhũng sẽ nảy sinh. Hai là, tiến trình cổ phần hóa sẽ tạo nhiều cơ hội tham nhũng. Ba là, công chức cán bộ với đồng lương cố định dễ bị tham nhũng cám dỗ. Ngược lại, họ lý luận, khi một nước đã phát triển và ổn định thì tình trạng tham nhũng sẽ giảm đi vì (1) thông tin sẽ nhiều hơn, và (2) “luật chơi” trở nên minh bạch hơn, (3) thu nhập có thể được nâng cao qua những hoạt động kinh tế hợp pháp.

Nhận định trên có nhiều điều bất cập. Thứ nhất, nó chỉ nhìn đến hướng liên hệ từ phát triển đến tham nhũng mà không đến hướng liên hệ ngược lại: từ tham nhũng đến phát triển. Song, như đã phân tích ở Đoạn I, tham nhũng chính nó sẽ làm suy yếu những thành tố then chốt của tăng trưởng. Hơn nữa, tăng trưởng càng chậm thì càng khó dập tắt tham nhũng. Lý do là, khi kinh tế đang nhanh chóng tăng trưởng, cải tổ thể chế để loại trừ tham nhũng sẽ ít bị đối kháng vì đa số sẽ nhận ra rằng không cần phải tham nhũng mới làm giàu được. Do đó, các biện pháp cải cách thể chế để tham nhũng mất nơi ẩn nấp tương đối dễ dàng. Khi tăng trưởng trì trệ thì những cải cách thể chế có đụng chạm đến tham nhũng sẽ gặp nhiều chống đối hơn.

Thứ hai, có thể chăng liên hệ giữa tăng trưởng và tham nhũng là một chiều (từ tăng trưởng đến tham nhũng) đúng như theo nhận định này, nhưng là một liên hệ thuận, thay vì ngược? Xin lấy một ví dụ. Khi một nền kinh tế còn lạc hậu thì tham nhũng có thể là từ 5-10% một dự án. Khi tăng trưởng bắt đầu cất cánh thì số này có thể tăng lên 15-20%. Mà khi lợi lộc tham nhũng càng cao thì càng có nhiều giành giật (làm tiêu phí nguồn lực quốc gia) để chia sẻ lợi lộc tham nhũng đó. Như vậy, nguồn lực để phát triển sẽ kém đi và do đó, không chóng thì chầy, tăng trưởng sẽ chững lại vì tham nhũng. Tham nhũng tự nó sẽ không giảm đi chỉ vì tăng trưởng mà cần có một chính sách để đối phó với nó.

Theo người viết bài này, tham nhũng có làm giảm tăng trưởng (nhất là một tăng trưởng cân đối, bền vững) nhưng phát triển cân đối, bền vững sẽ làm giảm tham nhũng. Nói gọn lại: càng nhiều tham nhũng thì càng chậm phát triển, mà càng chậm phát triển thì tham nhũng càng dây dưa. Đó là một cái vòng luẩn quẩn.

Cuối cùng, phải nhớ rằng tăng trưởng thu nhập không bao giờ là mục tiêu duy nhất của phát triển. Cho dù tăng trưởng thu nhập có thể xảy ra trong một xã hội tham nhũng, chênh lệch giàu nghèo sâu sắc, tệ nạn tràn lan, song khó có thể một xã hội như vậy là thực sự phát triển.

4. Tham nhũng trong một nền kinh tế mở

Trong một nền kinh tế mở cửa, ảnh hưởng qua lại giữa tham nhũng và đầu tư nước ngoài gây thêm nhiều khía cạnh đáng quan tâm.

(a) Đối với những viên chức tham ô thì nền kinh tế mở có những hấp dẫn đặc biệt. Một là, các công ty ngoại quốc có sức đưa nộp những món tiền hối lộ kếch xù, có thể gấp trăm, gấp ngàn lần những số tiền mà công ty bản xứ có khả năng đút lót. Hai là, phần lớn tiền tham nhũng nhận được từ nước ngoài sẽ nằm lại trong tài khoản của các ngân hàng ngoài nước, ngoài vòng kiểm tra của Nhà nước, và chính nó sẽ làm cơ hội tham nhũng giữa những người trong nước tăng lên (họ chỉ cần chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác ở ngoại quốc). Ba là, về tâm lý, nhận tiền hối lộ của người nước ngoài sẽ được cảm thấy ít tội lỗi hơn là tống tiền của người trong nước.

(b) Chẳng những vậy, chính sự có mặt của các công ty nước ngoài có thể làm tham nhũng gia tăng. Các công ty ngoại quốc đã hoạt động trong nước thường đút lót để đối thủ của họ không được phép xâm nhập vào thị trường. Những công ty đã hối lộ để thâm nhập vào thị trường nào đó thì sẽ có động lực hối lộ thêm để giữ các viên chức tham nhũng, ngăn ngừa cạnh tranh của các công ty khác (và sẽ tống tiền các viên chức đã nhận hối lộ). Nhiều quốc gia không đếm xỉa đến luật pháp các quốc gia khác, ngầm khuyến khích các công ty của họ đút lót quan chức bản xứ, miễn là được mối hàng thì thôi.

© Những công ty (nước ngoài) có xu hướng làm ăn bằng cách đút lót là những công ty không nhiều hiệu quả kinh tế hơn những công ty muốn làm ăn chân chính. Đầu tư nước ngoài sẽ chảy vào các xí nghiệp, dự án có nhiều móc nối, tham nhũng, hơn là phân bố theo lợi nhuận kinh tế.

(d) Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, các xí nghiệp ngoại quốc rất dễ chuyển dự án đầu tư của họ từ một nước nhiều tham nhũng sang một nước ít tham nhũng. Dù không có bằng chứng rõ ràng là tham nhũng làm tăng hay giảm ngoại thương, nhưng theo nhiều người thì càng có ít những kiềm chế ngoại thương thì ảnh hưởng của tham nhũng càng ít. Tuy nhiên, tham nhũng sẽ làm méo mó các chính sách ngoại thương và làm chệch phân phối lợi ích của thương mại.

IV. Kết luận

Giải trừ tham nhũng là yếu tố cần thiết để phát triển kinh tế (nhất là phát triển một cách cân đối, bền vững), và là một yếu tố quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế từ giữa năm 1997 đã cho thấy sự tai hại của tham nhũng: tham nhũng vừa là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, vừa là một trở ngại then chốt cho những giải pháp vượt qua cuộc khủng hoảng này. Như báo cáo gần đây của một phái đoàn Ngân hàng Thế giới về tình trạng tham nhũng ở Indonesia khẳng định, vấn đề tham nhũng cần được khẩn cấp đương đầu vì ba lý do. Một là cuộc khủng hoàng kinh tế hiện nay đưa cả hàng chục triệu người vào cảnh nghèo đói. Để đối phó với cuộc khủng hoảng này, chính phủ cần có được niềm tin tuyệt đối của dân chúng. Tham nhũng sẽ làm mất đi niềm tin đó. Hai là, cũng chính niềm tin đó là cần thiết để chính phủ dìu dắt công cuộc chuyển biến kinh tế. Và ba là, sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế sẽ không có hiệu lực nếu tham nhũng lan tràn.

Trong một nước tự hào theo xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, tham nhũng, qua hậu quả phân hóa giàu nghèo một cách bất công của nó, là hiểm họa quan trọng đặc biệt cho chế độ. Bởi lẽ, không giống như các quốc gia tư bản mà sự công bằng xã hội không phải mục tiêu hàng đầu, bản chất của xã hội chủ nghĩa chính là sự công bằng đó. Như vậy, sự bất bình của người dân đối với một chế độ xã hội chủ nghĩa (do chính họ đã đóng góp xương máu để xây dựng) bị tham nhũng đục khoét sẽ lớn gấp nhiều lần sự bất bình trong những chế độ khác với cùng một mức độ tham nhũng. Như cố vấn Võ Văn Kiệt (Kiến thức Ngày nay số 291) đã nói:

Điều làm chúng tôi ray rứt nhất là một Đảng cần quyền mà tham nhũng lại nằm trong bộ máy Nhà nước. Có người cho rằng tham nhũng là do cơ chế thị trường. Tôi không nghĩ như thế. Tình trạng tham nhũng như hiện nay cũng có lý do khách quan nhưng chủ yếu là do chủ quan. Cần phải có công cụ quản lý xã hội tốt, đủ mạnh và thật tập trung thì mới hạn chế được. Trước hết phải xác định Nhà nước ta phải là một Nhà nước pháp quyền, ai ai cũng phải tuân thủ luật pháp. Người ở cương vị càng cao thì càng phải tuân thủ phép nước. Tham nhũng không chỉ là chuyện vi phạm pháp luật mà còn là vấn đề đạo đức, phẩm chất của người cán bộ. Chính vì vậy, theo tôi, để ngăn chặn tình trạng tham nhũng hiện nay thì trước tiên là phải xử lý thật nghiêm minh theo đúng tinh thần Pháp lệnh chống tham nhũng được Nhà nước ban hành hồi đầu năm. Thứ hai là phải đẩy mạnh công việc cải tổ hành chính, tránh tình trạng nhiều cửa nhiều ngạch lâu nay gây phiền hà cho người dân, và thứ ba là sửa đổi ngay một số văn bản luật pháp không còn phù hợp. Để góp phần hạn chế tình trạng tham nhũng, chúng ta còn cần phải làm sao cho đồng lương của công nhân viên chức có thể đảm bảo cho nhu cầu cuộc sống của gia đình. Muốn vậy, phải ra sức sắp xếp bộ máy hành chính tinh gọn, tránh những việc chi tiêu lãng phí, nhằm tạo điều kiện để cải thiện mức sống của đội ngũ cán bộ, viên chức.

Trần Hữu Dũng
Tháng 12, 1998.
văn tèo
Thể chế và Thành tích

Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp


Bất kỳ nhà nước hay hệ thống chính trị nào cũng phải trả lời câu hỏi làm thế nào để phát triển hay làm thế nào để giảm thiểu rủi ro trong tiến trình phát triển. Trong quá trình đi tìm lời giải cho câu hỏi này, càng ngày người ta càng nhận ra vai trò của thể chế đối với phát triển, nghĩa là, một thể chế tốt sẽ đẩy mạnh tốc độ phát triển và tăng cường chất lượng phát triển; ngược lại, một thể chế bất hợp lý sẽ kìm hãm tốc độ phát triển và làm suy thoái chất lượng phát triển.


Đây quả thực là một vấn đề lớn, phức tạp và do đó, không thể gói gọn trong một bài viết. Với cách tiếp cận như vậy, trong bài viết này, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc làm rõ hơn vai trò của thể chế đối với phát triển thông qua việc phân tích cặp phạm trù thể chế và thành tích.


Thể chế, thành tích và những khía cạnh biện chứng


Thể chế là một khái niệm phức tạp và được xem xét dưới những góc độ khác nhau. Định nghĩa kinh điển nhất được đưa ra bởi nhà kinh tế học người Đức - Adolph Wagner - cho rằng "Thể chế là các khế ước, các hợp đồng và luật lệ thành văn đang cai quản đời sống và con người ". Douglass Cecil North, người được giải Nobel với công trình nghiên cứu “Kinh tế và Thể chế" năm 1993, cho rằng 'Thể chế là những giới hạn được vạch ra trong phạm vi khả năng và hiểu biết của con người hình thành nên mối quan hệ qua lại của con người". Đầu thế kỷ XX, ở phương Tây xuất hiện một khuynh hướng chính trị mới - khuynh hướng chủ nghĩa thể chế - quan niệm thể chế là bất kỳ liên hiệp bền vững nào của con người nhằm đạt được mục đích nhất định nào đó.


Quan niệm này tương đối giống với cách hiểu của Ngân hàng thế giới về thể chế, cho rằng thể chế bao hàm ba nội dung quan trọng nhất, đó là luật chơi, cơ chế thực thi và tổ chức. Chúng tôi cho rằng, thể chế là tập hợp các quy tắc điều chỉnh xã hội và là kết quả của những thỏa thuận xã hội. Thể chế, do đó, mang tính bản chất và là một đối tượng có tính sở hữu rõ ràng; nó thể hiện một cách sâu sắc khuynh hướng chính trị mà đảng cầm quyền đã lựa chọn.


Khác với thể chế, thành tích chỉ là hiện tượng; nó là một đối tượng ngẫu nhiên, không có tính sở hữu rõ ràng và vì thế, rất dễ bị "chiếm dụng". Trong rất nhiều trường hợp, thành tích là những thành tựu mà xã hội đạt được. Tuy nhiên, nhà cầm quyền có khuynh hướng coi những thành tựu đó là thành tích chính trị, hay thành tích của hoạt động cầm quyền của mình và lấy đó làm lý do để trì hoãn việc xây dựng hoặc cải cách thể chế. Điều này làm nên cái gọi là chủ nghĩa thành tích.


Xét theo logic thông thường, một thể chế tốt sẽ tạo ra thành tích và một thể chế bất hợp lý sẽ không tạo ra thành tích. Tuy nhiên, trên thực tế, một số thể chế bất hợp lý vẫn tạo ra thành tích; trong trường hợp này, thành tích thuộc về xã hội. Đôi khi, nhà cầm quyền còn có khuynh hướng tạo ra thành tích bằng mọi giá, làm nên cái mà chúng ta gọi là sự phát triển bằng mọi giá - luận điểm này sẽ được phân tích kỹ hơn trong phần sau của bài viết. Mối quan hệ biện chứng giữa thể chế và thành tích còn thể hiện ở chỗ chủ nghĩa thành tích bảo trợ sự tồn tại của các lực lượng kìm hãm tiến trình cải cách thể chế. Nói cách khác, khi nào thể chế trở nên bế tắc thì người ta sẽ dùng thành tích để che đậy sự bế tắc đó. Ngược lại, chất lượng của thể chế phản ánh trình độ chính trị, bản chất chính trị của quốc gia và đó cũng là cơ sở để xã hội quyết định lựa chọn hoặc không lựa chọn nhà cầm quyền. Xã hội không thể lựa chọn các tập đoàn chính trị bằng thành tích chính trị mà phải bằng bản chất chính trị. Bản chất chính trị của nhà cầm quyền được thể hiện thông qua thể chế mà nhà cầm quyền xây dựng. Đương nhiên, một thể chế tốt chắc chắn sẽ xúc tiến sự phát triển; nó khuyến khích sự sáng suất chính trị với tư cách là nguồn gốc của mọi thành tựu trong quá trình lãnh đạo. Đó chính là mối quan hệ biện chứng giữa thành tích và thể chế. Càng nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng thể chế, càng phải chống lại khuynh hướng sử dụng thành tích để hợp pháp hóa những mặt lạc hậu về thể chế và ở một mức độ cao hơn nữa là chống lại việc sử dụng các thành tích như là công cụ duy nhất để hợp pháp hóa sự cầm quyền của các nhà chính trị; nếu không, nhân loại sẽ phải đối mặt với những rủi ro trong quá trình phát triển của mình.


Đến đây, một số người có thể đặt câu hỏi về sự khác biệt giữa thành tích chính trị của các nhà nước dân chủ và thành tích chính trị của các nhà nước phi dân chủ, bởi bất kỳ thể chế nào cũng chỉ được coi là có tác dụng tích cực đối với tiến trình phát triển khi nó đạt được những thành tựu nhất định. Thực ra, ở các nhà nước dân chủ, người ta không chú trọng đến thành tích chính trị mà đến sự sáng suốt chính trị. Do đó, cái mà chúng ta cần làm rõ là phân tích sự khác nhau giữa hai khái niệm thành tích chính trị và sự sáng suất chính trị.


Thành tích chính trị là những thành công hay thành tựu trong quá trình nắm giữ cương vị của nhà chính trị, còn sự sáng suất chính trị là một phẩm chất cần phải có của bất kỳ nhà chính trị nào, nhất là những người đang cầm quyền hoặc có tham vọng cầm quyền. Thiếu sự sáng suốt chính trị, nhà chính trị, trên tư cách người vạch ra chiến lược phát triển, sẽ buộc cả đất nước mình phải đối diện với những rủi ro không lường được. Đương nhiên, nếu có sự sáng suốt chính trị, nhà chính trị sẽ có nhiều cơ hột thành công trong việc điều hành đất nước. Tuy nhiên, thành tích chính trị không phải luôn là kết quả của sự sáng suốt chính trị. Như đã phân tích trong phần đầu, đôi khi, các thành tích hoàn toàn mang tính chất ngẫu nhiên và đối với các nhà nước phi dân chủ, thành tích chính trị còn bị lạm dụng để hợp pháp hóa địa vị cầm quyền. Trong trường hợp như vậy, thành tích chính trị không phải là biểu hiện của phát triển mà thậm chí, còn là dấu hiệu của các rủi ro. Mặt khác, chỉ các nhà chính trị đã hoặc đang cầm quyền mới có thành tích chính trị, còn các nhà chính trị chưa cầm quyền thì chỉ có sự sáng suốt chính trị. Do đó, ở các nhà nước phi dân chủ, các cuộc bầu cử thường là những cuộc chạy đua thành tích chính trị. Khác với các nhà nước phi dân chủ, ở những nhà nước dân chủ, bao giờ thành tích chính trị cũng được kiểm chứng bởi sự sáng suốt chính trị. Tuy nhiên, so sánh giữa thành tích chính trị với sự sáng suốt chính trị là một so sánh khập khiễng. Vì vậy, để đảm bảo tính hợp lý của phép so sánh này, các nhà chính trị đương nhiệm phải chọn lọc những yếu tố sáng suốt trong các thành tích chính trị của mình, lý giải chúng bằng sự sáng suốt chính trị để thuyết phục nhân dân và so sánh với sự sáng suốt của đối thủ. Một trong những điểm ưu việt của nền dân chủ là nó luôn luôn khích lệ sự sáng suốt chính trị thay vì mặc nhiên hoặc cưỡng ép nhân dân công nhận các thành tích chính trị. Vì thế, nếu sự sáng suốt chính trị là căn cứ để nhân dân lựa chọn các nhà chính trị, thì xã hội sẽ không ngừng phát triển.


Ngược lại, nếu thành tích chính trị là căn cứ để lựa chọn thì xã hội ấy sẽ luôn ở trong trạng thái khủng hoảng, bởi các nhà chính trị sẽ tìm kiếm thành tích bằng mọi cách, bất chấp rủi ro và do đó, biến quá trình phát triển trở thành một hiện tượng không thể dự báo.



Chủ nghĩa thành tích và những hậu quả của nó


Một cách tiếp cận khác đối với chủ nghĩa thành tích


Một số học thuyết chỉ ra rằng nhu cầu được tôn trọng gần như là nhu cầu ở mức cao nhất của con người và do đó, phấn đấu để có thành tích, xét về mặt bản chất là phấn đấu để được người khác tôn trọng. Với ý nghĩa như vậy, liệu tâm lý thành tích có phải là một hiện tượng khách quan và có những ảnh hưởng tích cực hay không?


Chúng tôi cho rằng, để trả lời câu hỏi này, cần phải làm rõ ranh giới giữa sự lành mạnh và không lành mạnh của tâm lý thành tích. Nếu con người không có khát vọng về thành tích thì sẽ không có mục tiêu. Việc con người tạo ra thành tích để minh chứng là mình đi đến mục tiêu, hoàn toàn khác với chủ nghĩa thành tích. Mặt khác, thành tích mà con người tạo ra bởi những nhận thức hay những khát vọng của mình, không giống với việc lấy thành tích của người khác làm thành tích của mình - đó chính là ranh giới giữa sự lành mạnh và không lành mạnh của tâm lý thành tích.


Bên cạnh đó, tính lành mạnh của tâm lý thành tích còn được quy định bởi động cơ tạo ra thành tích. Nếu động cơ không hợp lý thì sẽ tạo ra một sự vô lý và khi hiện thực hóa một sự vô lý thì chúng ta sẽ phải làm thêm một công đoạn nữa là loại bỏ sự vô lý đó ra khỏi cuộc sống. Con người không có lý tưởng, thì không có giá trị, nhưng nếu đeo đuổi một lý tưởng sai thì còn nguy hiểm hơn. Trên thực tế, rất nhiều lý tưởng đã mất uy tín bởi chúng bị khai thác sai. Và khi con người không còn khả năng chịu đựng hơn nữa hậu quả từ việc khai thác một cách sai lầm những lý tưởng thì họ thay thế chủ nghĩa lý tưởng bằng chủ nghĩa thực dụng. Người ta tưởng rằng chủ nghĩa thực dụng là ưu việt, là tốt đẹp nhưng chủ nghĩa thực dụng chỉ tốt đẹp hơn chủ nghĩa lý tưởng sai lầm. Chủ nghĩa lý tưởng của thời đại chúng ta chính là tự do và dân chủ. Tự do và dân chủ làm cho con người cũng như xã hội tự cân bằng. Khi con người tự cân bằng thì sẽ không còn các sai lầm cá nhân. Theo chuỗi logic này, khi xã hội tự cân bằng thì sẽ không còn những sai lầm mang tính cộng đồng, hay nói cách khác là nó sẽ tự khắc phục những sai lầm mang tính cộng đồng.


Trong một xã hội mà thể chế tạo ra hai năng lực song song như vậy thì xã hội tự khắc phục những sai lầm của xã hội, cá nhân tự khắc phục những mặt cực đoan của mình và đó chính là một xã hội lành mạnh.


Hơn nữa, tâm lý thành tích sẽ trở thành một yếu tố tích cực nếu nó là sản phẩm của các khuynh hướng tiến bộ, đặc biệt là những khuynh hướng đảm bảo tính cân đối giữa chính trị và triết học. Nếu khát vọng của con người không cân đối thì không thể tạo ra sản phẩm có chất lượng thẩm mỹ hay lý tưởng được. Nếu tưởng tượng sai thì sẽ tạo ra sản phẩm sai và nếu tạo ra sản phẩm sai bằng mọi giá thì sẽ tạo ra sự phá hoại; tuy nhiên, không có lý tưởng thì không còn là con người và không có sự phát triển. Vấn đề đặt ra là chất lượng tưởng tượng hay chất lượng tinh thần của con người khi tạo ra các thành tích.


Tuy nhiên, không phải yếu tố khách quan nào cũng đúng đắn và lành mạnh. Một sai lầm trong trí tưởng tượng, nếu không được ngăn chặn, sẽ trở thành sai lầm có thể đó được. Đó là quá trình chuyển hóa những sai lầm từ nhận thức trở thành những sai lầm mang tính chất thực thể. Con người nghĩ sai thì sẽ hành động sai, tạo ra một thực thể sai hay một sản phẩm sai. Quá trình hiện thực hóa các suy tưởng sai lầm của con người là quá trình tiêu cực của đời sống xã hội. Quá trình này song song với quá trình tạo ra cái đúng và thậm chí còn mạnh mẽ hơn quá trình tạo ra cái đúng. Tuy nhiên, cuối cùng, sức mạnh của cái đúng với số lượng ít vẫn khắc phục được cái sai với số lượng lớn; nói cách khác, lượng của những cái sai lớn hơn nhiều lượng của những cái đúng, nhưng chất của cái đúng có khả năng chế ngự lượng những cái sai nên xã hội phát triển một cách cân bằng.

văn tèo
Những di họa của chủ nghĩa thành tích


Bàn về chủ nghĩa thành tích, không ít người đặt câu hỏi tại sao chủ nghĩa thành tích lại có thể tồn tại một cách dai đẳng đến vậy. Chúng tôi cho rằng, trước hết bởi nó là một tâm lý khách quan như chúng ta đã phân tích trong phần trước; sau nữa là bởi những nhận thức phiến diện của nhà cầm quyền về vai trò của thể chế đối với tiến trình phát triển và cuối cùng, bởi các nhà nước không có thành tích trong hiện tại và để chứng minh địa vị cầm quyền hợp pháp của mình, người ta buộc phải sử dụng đến những thành tích chính trị với tư cách là sản phẩm của quá khứ. Chính vì lý do đó, mà một số quốc gia trên thế giới không thể thoát ra khỏi quá khứ của mình. Thật đáng ngạc nhiên khi người ta cố tình không nhận ra rằng, thành tích của những thế hệ cầm quyền trong quá khứ hoàn toàn không có mối liên hệ với sự sáng suốt của những người cầm quyền trong hiện tại và người ta không thể lấy những kinh nghiệm trong quá khứ để thay thế sự sáng suốt chính trị.


Mặt khác, nhà chính trị có nhiệm vụ dẫn dắt xã hội tới những chặng tiếp theo. Do đó, nhà chính trị phải chứng minh khả năng đó bằng sự sáng suốt chính trị hay tính khoa học trong các công cụ dẫn dắt của mình. Tuy nhiên, một số nhà cầm quyền hoặc không có sự sáng suốt chính trị, hoặc không đủ khả năng để thuyết phục nhân dân bằng sự sáng suốt chính trị của mình nên phải viện đến các thành tích chính trị, tạo ra tâm lý săn lùng các thành tích chính trị. Vì những lý do đó, chủ nghĩa thành tích bị sử dụng như một trong những công cụ chính trị để thay thế tính khoa học của quá trình lãnh đạo xã hội. Điều này rất đáng ngại bởi nếu nhà cầm quyền cố tình sử dụng những thành tích đơn lẻ trong các hiện tượng của đời sống để thay thế việc xây dựng và cải cách thể chế, thì xã hội sẽ lâm vào tình trạng không thể dự báo và nhà cầm quyền sẽ không còn năng lực dẫn dắt xã hội.

[color=red]

Sự khác biệt về văn hóa giữa các nhà nước dân chủ và nhà nước phi dân chủ cũng là một yếu tố dẫn đến sự tồn tại dai dẳng và hợp pháp của chủ nghĩa thành tích. Trong khi các nhà nước dân chủ đuổi theo chính mình, thì những nhà nước phi dân chủ lại đuổi theo những người "hàng xóm". Chính điều đó đã góp phần tạo ra khuynh hướng hợp pháp hóa địa vị cầm quyền bằng các thành tích chính trị; đến lượt mình, nó sẽ kéo theo sự chậm

phát triển, sự mất cân đối giữa đời sống tinh thần và đời sống vật chất trong quá trình phát triển và bản thân sự mất cân đối này là rủi ro lớn nhất trong tiến trình phát triển. Nhược điểm lớn nhất của các thể chế phi dân chủ là không xây dựng được hệ tiêu chuẩn về hạnh phúc, nghĩa là những vấn đề về con người không được phân tích và lý giải một cách nghiêm túc. Điều này đã tạo điều kiện cho các nhà nước phi dân chủ sử dụng thành tích chính trị để thay thế tính hợp pháp và hợp lý của thể chế, không nhận ra rằng họ đang phải đối diện với rủi ro lớn nhất trong tiến trình phát triển - đó là sự biến mất của các yếu tố con người hay sự thoái hóa" của đời sống tinh thần. Đó là hậu quả thứ nhất của chủ nghĩa thành tích.


Hậu quả thứ hai của chủ nghĩa thành tích là xúc tiến sự phát triển bằng mọi giá. Hãy lấy Trung Quốc làm ví dụ. Trong khoảng thời gian gán đây, thế giới đã chứng kiến sự phát triển nóng hay sự phát triển không kiểm soát của Trung Quốc. Theo thống kê, Trung Quốc hiện tiêu thụ đến 7% sản lượng dầu mỏ, 31% sản lượng than và 27% sản lượng thép của toàn thế giới.


Năm 2003, Trung Quốc đã thiếu khoảng 10 triệu KW điện và dự đoán, năm 2004, con số đó sẽ là 20 triệu. Những con số này khiến người ta hình dung Trung Quốc tựa như một nồi nấu cao khổng lồ, các chủ đầu tư và nhà sản xuất giống như những người đứng trông nồi cao và biến nó trở thành nơi thiêu đốt phần lớn nguồn năng lượng của nhân loại với tốc độ đáng báo động. Người dân Trung Quốc không hiểu nổi tại sao trước đây các nhà lãnh đạo chủ trương phát triển nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng 12%/năm và đến bây giờ, họ lại làm mọi cách để hạ nhiệt nền kinh tế với hy vọng tốc độ tăng trưởng sẽ dừng lại ở con số 8%/năm. Không ít người nhận ra rằng bản thân sự phát triển đã tiềm ẩn trong nó các yếu tố phá hoại. Sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc, do đó, trở thành một rủi ro với toàn thế giới.


Bằng việc chỉ ra hai hậu quả trực tiếp và nghiêm trọng nhất của chủ nghĩa thành tích, có thể kết luận rằng, chủ nghĩa thành tích chính là nguồn gốc của mọi rủi ro trong tiến trình phát triển. Vấn đề của chúng ta bây giờ là trả lời câu hỏi thể chế nào có khả năng kiểm soát chủ nghĩa thành tích, nói cách khác là kiểm soát những rủi ro trong tiến trình phát triển.[/ color]

văn tèo
Thể chế nào cho phát triển?


Phải khẳng định thể chế dân chủ là phương thức quản lý duy nhất có thể tạo ra sự phát triển theo đúng nghĩa. Một số người có thể đặt câu hỏi tại sao một số thể chế khác vẫn có khả năng tạo ra sự phát triển. Thiết nghĩ, cần phải có một sự phân biệt rạch ròi giữa hai khái niệm tăng trưởng và phát triển. Tăng trưởng chỉ thuần túy là sự gia tăng vật chất trong khi phát triển là sự hoàn thiện của cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần.


Nhược điểm của những thể chế khác là các yếu tố con người không được tôn trọng; do đó, nó không thể đảm bảo chất lượng của sự phát triển. Những gì mà những thể chế khác tạo ra, vì thế, chỉ là tăng trưởng chứ không phải phát triển, và đến nay, chính họ đang phải trả giá cho điều đó. Chính vì thế mà chúng ta không có bất kỳ một giải pháp nào để kiểm soát rủi ro trong tiến trình phát triển ngoài việc xây dựng thể chế dân chủ trong phạm vi quốc gia và toàn cầu.


Việc dùng thêm những mỹ từ để miêu tả thể chế dân chủ là không cần thiết, bởi nền dân chủ đã tự nó chứng minh những điểm ưu việt của mình bằng sự phát triển của phương Tây – nơi đã đón nhận những tư tưởng của Monstesquieu, Diderot hay Voltaire về tự do, dân chủ. Trong quan điểm của chúng tôi, sở dĩ nền dân chủ trở thành một trong những giá trị phổ quát của nhân loại là bởi ba lý do: thứ nhất, nó là tiền đề để xây dựng nhà nước pháp quyền, ở nơi đó pháp luật giữ địa vị thống trị; thứ hai, nó biến tiến trình phát triển trở thành một đối tượng hoàn toàn có thể tiên lượng, và thứ ba, nó là không gian duy nhất của những sự sụp đổ hòa bình.


Thể chế dân chủ - Tiền đề để xây dựng nhà nước pháp quyền


Trước tiên, cần phải hiểu thế nào là nhà nước pháp quyền. Một trong những cách hiểu về nhà nước pháp quyền được thừa nhận rộng rãi là một đối tượng được điều chỉnh bởi pháp luật, tức là nhà nước được làm những gì mà pháp luật cho phép, còn người dân được làm những gì mà pháp luật không cấm. Một xã hội được coi là lý tưởng khi nó được điều hành bằng pháp luật với bản chất là các khế ước xã hội. Nói cách khác, pháp luật là các quy tắc tối cao chi phối toàn bộ dời sống xã hội. Phải khẳng định rằng, nhà nước dân chủ là nhà nước duy nhất mà pháp luật được coi là các khế ước xã hội, bởi ở đó con người có quyền thảo luận một cách bình đẳng về các quy tắc điều phối cuộc sống của mình.


Sự khác biệt quan trọng nhất giữa pháp luật của nhà nước dân chủ và pháp luật của các nhà nước phi dân chủ là ở chỗ, pháp luật của nhà nước dân chủ bảo vệ các quyền con người, còn pháp luật của các nhà nước phi dân chủ chỉ bảo vệ quyền của người đại diện, tức là bảo vệ quyền của nhà nước. Việc bảo vệ quyền của người đại diện khác về bản chất so với việc bảo vệ các quyền công dân. Rõ ràng là chỉ khi nào các quyền công dân được bảo đảm thì mới có xã hội dân sự. Xã hội dân sự là biểu hiện bên ngoài của quá trình dân chủ. Chỉ có quá trình dân chủ mới tạo ra được xã hội dân sự và chỉ có xã hội dân sự mới tạo ra được sự yên tĩnh tự nhiên của con người với đầy đủ các quyền thuộc về nó. Trong xã hội dân sự, mọi đối tượng đều được điều chỉnh bởi pháp luật. Nói cách khác, pháp luật là môi trường sống của con người trong xã hội dân sự, ở đó điều kiện tiên quyết là các quyền sở hữu, các quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về tự do, về chính trị, về địa vị làm chủ xã hội và chủ sở hữu hệ thống pháp luật. Nếu không làm được như vậy thì không có xã hội dân chủ và càng không có đời sống chính trị phát triển. Đời sống chính trị không phát triển thì con người không được huy động một cách hợp lý và do đó, xã hội sẽ không thể phát triển.


Thể chế dân chủ - Cơ chế kiểm soát rủi ro trong tiến trình phát triển


Phát triển là một hàm số rất phức tạp, nó bao gồm rất nhiều yếu tố như các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các yếu tố lao động, các cộng đồng dân cư và các yếu tố khác như con người, văn hóa, tự nhiên, lịch sử... Các yếu tố ấy phải được tổ chức, phối hợp với nhau để tạo ra thể chế và đến lượt mình, thể chế ấy sẽ tạo ra sự phát triển. Thể chế dân chủ tạo điều kiện bình đẳng cho mỗi cá nhân tham gia vào tiến trình phát triển và biến sự

đóng góp của các cá nhân khác nhau trở thành những tham số mang tính chất dự báo. Cũng chính nó sẽ thẩm định một cách khách quan yếu tố nào hỗ trợ sự phát triển và mỗi yếu tố có thể đóng vai trò tích cực trong bao lâu, hay khi nào thì một yếu tố sẽ dẫn đến rủi ro và tạo ra các chu kỳ cập nhật, thải hồi hợp lý nhằm đảm bảo rằng không có bất kỳ yếu tố nào có thể kìm hãm tiến trình phát triển hoặc làm suy thoái chất lượng phát triển. Có thể nói, bản chất của thể chế dân chủ là tạo ra tính chừng mực hay tính hợp lý của sự phát triển. Tính vô căn cứ của tham vọng chính trị hay nói cách khác, những thành tích chính trị không phải là thước đo tốt để khảo sát tính hợp lý của sự phát triển và chính nó tạo ra tư tưởng phát triển bằng mọi giá nhằm thỏa mãn đòi hỏi chủ quan của nhà chính trị. Chính bởi vậy, sự phát triển phi dân chủ sẽ tạo ra trạng thái không kiểm soát được tính chừng mực của sự phát triển.


Việc đặt hai yếu tố dân chủ và phát triển trong một mối liên hệ cụ thể sẽ làm xuất hiện yếu tố kiểm soát, tức là làm xuất hiện đòi hỏi xây dựng một thể chế toàn cầu hợp lý để kiểm soát sự phát triển trên quy mô toàn cầu và ở lưu vực các nền kinh tế lớn; nếu không, nhân loại sẽ phải đối mặt với sự phát triển bằng mọi giá theo kiểu Trung Quốc. Cần phải trả lời câu hỏi làm thế nào để xây dựng thể chế toàn cầu nhằm kiểm soát rủi ro của các nền kinh tế lấy thành tích chính trị làm điểm tựa hợp pháp cho các nhà cầm quyền? Liệu WTO, với việc đưa ra những tiêu chuẩn khắt khe về nền kinh tế thị trường, có thể hoàn thành sứ mệnh này không? Đó là những câu hỏi rất lớn mà nhân loại buộc phải trả lời trong những năm đầu của thế kỷ XXI vì sự phát triển của chính nó.


Thể chế dân chủ - Không gian của những thay thế hòa bình


Chúng ta hãy cùng nhau phân tích khái niệm sự thay thế của chính phủ. Một trong những ưu điểm của thể chế dân chủ là nó cho phép khẳng định quyền lực của người dân. Nói cách khác, nó tạo điều kiện để nhân dân điều chỉnh khuynh hướng chính trị hay chất lượng chính trị của xã hội thông qua việc lựa chọn các đảng cầm quyền. Đến lượt mình, các đảng cầm quyền sẽ là những người thực hiện các chính sách để điều chỉnh xã hội theo khuynh hướng mà nhân dân đã lựa chọn. Do đó, người dân trở thành thước đo chính xác nhất tính hợp lý chính trị của nhà cầm quyền. Nếu lựa chọn sai lầm những người đại diện, họ có thể tiến hành một sự lựa chọn khác. Điều này tạo ra sự thay thế của chính phủ.


Nhiệm kỳ chính là cánh thức thay thế hòa bình nhất; nghĩa là trong trường hợp chính phủ rơi vào bế tắc, thể chế dân chủ sẽ tạo ra công nghệ thay thế theo ý muốn bằng cách chấm dứt các nhiệm kỳ một cách bình thường hoặc bất thường, hình thành cái gọi là sự thay thế của các giai đoạn - trạng thái nhà nước và giải phóng các cộng đồng ra khỏi sự ràng buộc. Đó cũng chính là ưu điểm của nền dân chủ - nơi các sai lầm chính trị không bị kéo dài, tức là cả quyền lực lẫn rủi ro đều được kiểm soát một cách hợp lý và xã hội không phải trả giá cho những sai lầm của cá nhân hoặc một nhóm người.


Thực ra, sự thay thế của chính phủ là một hiện tượng bình thường và thậm chí, rất đúng với quy luật phát triển. Rõ ràng, bất kỳ sự phát triển nào cũng đòi hỏi một quá trình sàng lọc và thải hồi dần những yếu tố không còn phù hợp. Tuy nhiên, để sự thay thế không gây ra những tổn thất nghiêm trọng, người ta buộc phải thiết kế những kịch bản thay thế hòa bình và chỉ khi nào làm được như vậy thì mới không phải đối diện với sự tan rã của cộng đồng hay sự tan rã của dân tộc. Đến đây, xin được nhấn mạnh rằng, một kịch bản thay thế hòa bình chỉ có thể được thiết kế dựa trên tính đa dạng của đời sống phát triển. Điều này đã được khẳng định trong nhiều học thuyết quan trọng, trong đó có học thuyết của Marx, nhất là triết học Marx với các phân tích về quy luật phát triển biện chứng. Biện chứng là sự vận động nội tại một thành tố và những tác động qua lại giữa yếu tố ấy với các yếu tố khác; bỏ qua tính đa dạng của đời sống tức là chúng ta đã phủ nhận một yếu tố biện chứng rất quan trọng, đó là sự tương tác giữa một yếu tố với những yếu tố khác. Vì lý do đó, nếu thừa nhận tính duy nhất của bất kỳ yếu tố nào thì chúng ta sẽ tiêu diệt sự đa dạng về mặt nhận thức, trong khi sự đa dạng là một thuộc tính cố hữu của đời sống. Tóm lại, những phân tích trên đưa đến kết luận rằng thể chế dân chủ là không gian duy nhất của những kịch bản thay thế hòa bình, hay nói cách khác, nó là môi trường duy nhất mà tại đó có thể kiến tạo lý thuyết phát triển dựa trên sự đa dạng của đời sống phát triển như là điều kiện cần và đủ.


Kết luận


Chúng ta đang sống trong một thế giới mà dân chủ ngày càng đóng vai trò như khuynh hướng chính trị chủ đạo. Vì lý do đó, để trở thành một phần của thế giới, để phát triển một cách lành mạnh, để thành công trong việc kiểm soát rủi ro trong tiến trình phát triển và xây dựng những kịch bản thay thế hòa bình, các quốc gia sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ của mình. Đó cũng chính là bằng chứng về sự hợp tác - một trong những tiêu chuẩn chính trị quan trọng nhất trong thế giới hiện đại.

Theo Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
văn tèo
Thể chế nào cho phát triển?


Phải khẳng định thể chế dân chủ là phương thức quản lý duy nhất có thể tạo ra sự phát triển theo đúng nghĩa. Một số người có thể đặt câu hỏi tại sao một số thể chế khác vẫn có khả năng tạo ra sự phát triển. Thiết nghĩ, cần phải có một sự phân biệt rạch ròi giữa hai khái niệm tăng trưởng và phát triển. Tăng trưởng chỉ thuần túy là sự gia tăng vật chất trong khi phát triển là sự hoàn thiện của cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần.


Nhược điểm của những thể chế khác là các yếu tố con người không được tôn trọng; do đó, nó không thể đảm bảo chất lượng của sự phát triển. Những gì mà những thể chế khác tạo ra, vì thế, chỉ là tăng trưởng chứ không phải phát triển, và đến nay, chính họ đang phải trả giá cho điều đó. Chính vì thế mà chúng ta không có bất kỳ một giải pháp nào để kiểm soát rủi ro trong tiến trình phát triển ngoài việc xây dựng thể chế dân chủ trong phạm vi quốc gia và toàn cầu.


Việc dùng thêm những mỹ từ để miêu tả thể chế dân chủ là không cần thiết, bởi nền dân chủ đã tự nó chứng minh những điểm ưu việt của mình bằng sự phát triển của phương Tây – nơi đã đón nhận những tư tưởng của Monstesquieu, Diderot hay Voltaire về tự do, dân chủ. Trong quan điểm của chúng tôi, sở dĩ nền dân chủ trở thành một trong những giá trị phổ quát của nhân loại là bởi ba lý do: thứ nhất, nó là tiền đề để xây dựng nhà nước pháp quyền, ở nơi đó pháp luật giữ địa vị thống trị; thứ hai, nó biến tiến trình phát triển trở thành một đối tượng hoàn toàn có thể tiên lượng, và thứ ba, nó là không gian duy nhất của những sự sụp đổ hòa bình.


Thể chế dân chủ - Tiền đề để xây dựng nhà nước pháp quyền


Trước tiên, cần phải hiểu thế nào là nhà nước pháp quyền. Một trong những cách hiểu về nhà nước pháp quyền được thừa nhận rộng rãi là một đối tượng được điều chỉnh bởi pháp luật, tức là nhà nước được làm những gì mà pháp luật cho phép, còn người dân được làm những gì mà pháp luật không cấm. Một xã hội được coi là lý tưởng khi nó được điều hành bằng pháp luật với bản chất là các khế ước xã hội. Nói cách khác, pháp luật là các quy tắc tối cao chi phối toàn bộ dời sống xã hội. Phải khẳng định rằng, nhà nước dân chủ là nhà nước duy nhất mà pháp luật được coi là các khế ước xã hội, bởi ở đó con người có quyền thảo luận một cách bình đẳng về các quy tắc điều phối cuộc sống của mình.


Sự khác biệt quan trọng nhất giữa pháp luật của nhà nước dân chủ và pháp luật của các nhà nước phi dân chủ là ở chỗ, pháp luật của nhà nước dân chủ bảo vệ các quyền con người, còn pháp luật của các nhà nước phi dân chủ chỉ bảo vệ quyền của người đại diện, tức là bảo vệ quyền của nhà nước. Việc bảo vệ quyền của người đại diện khác về bản chất so với việc bảo vệ các quyền công dân. Rõ ràng là chỉ khi nào các quyền công dân được bảo đảm thì mới có xã hội dân sự. Xã hội dân sự là biểu hiện bên ngoài của quá trình dân chủ. Chỉ có quá trình dân chủ mới tạo ra được xã hội dân sự và chỉ có xã hội dân sự mới tạo ra được sự yên tĩnh tự nhiên của con người với đầy đủ các quyền thuộc về nó. Trong xã hội dân sự, mọi đối tượng đều được điều chỉnh bởi pháp luật. Nói cách khác, pháp luật là môi trường sống của con người trong xã hội dân sự, ở đó điều kiện tiên quyết là các quyền sở hữu, các quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về tự do, về chính trị, về địa vị làm chủ xã hội và chủ sở hữu hệ thống pháp luật. Nếu không làm được như vậy thì không có xã hội dân chủ và càng không có đời sống chính trị phát triển. Đời sống chính trị không phát triển thì con người không được huy động một cách hợp lý và do đó, xã hội sẽ không thể phát triển.


Thể chế dân chủ - Cơ chế kiểm soát rủi ro trong tiến trình phát triển


Phát triển là một hàm số rất phức tạp, nó bao gồm rất nhiều yếu tố như các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các yếu tố lao động, các cộng đồng dân cư và các yếu tố khác như con người, văn hóa, tự nhiên, lịch sử... Các yếu tố ấy phải được tổ chức, phối hợp với nhau để tạo ra thể chế và đến lượt mình, thể chế ấy sẽ tạo ra sự phát triển. Thể chế dân chủ tạo điều kiện bình đẳng cho mỗi cá nhân tham gia vào tiến trình phát triển và biến sự

đóng góp của các cá nhân khác nhau trở thành những tham số mang tính chất dự báo. Cũng chính nó sẽ thẩm định một cách khách quan yếu tố nào hỗ trợ sự phát triển và mỗi yếu tố có thể đóng vai trò tích cực trong bao lâu, hay khi nào thì một yếu tố sẽ dẫn đến rủi ro và tạo ra các chu kỳ cập nhật, thải hồi hợp lý nhằm đảm bảo rằng không có bất kỳ yếu tố nào có thể kìm hãm tiến trình phát triển hoặc làm suy thoái chất lượng phát triển. Có thể nói, bản chất của thể chế dân chủ là tạo ra tính chừng mực hay tính hợp lý của sự phát triển. Tính vô căn cứ của tham vọng chính trị hay nói cách khác, những thành tích chính trị không phải là thước đo tốt để khảo sát tính hợp lý của sự phát triển và chính nó tạo ra tư tưởng phát triển bằng mọi giá nhằm thỏa mãn đòi hỏi chủ quan của nhà chính trị. Chính bởi vậy, sự phát triển phi dân chủ sẽ tạo ra trạng thái không kiểm soát được tính chừng mực của sự phát triển.


Việc đặt hai yếu tố dân chủ và phát triển trong một mối liên hệ cụ thể sẽ làm xuất hiện yếu tố kiểm soát, tức là làm xuất hiện đòi hỏi xây dựng một thể chế toàn cầu hợp lý để kiểm soát sự phát triển trên quy mô toàn cầu và ở lưu vực các nền kinh tế lớn; nếu không, nhân loại sẽ phải đối mặt với sự phát triển bằng mọi giá theo kiểu Trung Quốc. Cần phải trả lời câu hỏi làm thế nào để xây dựng thể chế toàn cầu nhằm kiểm soát rủi ro của các nền kinh tế lấy thành tích chính trị làm điểm tựa hợp pháp cho các nhà cầm quyền? Liệu WTO, với việc đưa ra những tiêu chuẩn khắt khe về nền kinh tế thị trường, có thể hoàn thành sứ mệnh này không? Đó là những câu hỏi rất lớn mà nhân loại buộc phải trả lời trong những năm đầu của thế kỷ XXI vì sự phát triển của chính nó.


Thể chế dân chủ - Không gian của những thay thế hòa bình


Chúng ta hãy cùng nhau phân tích khái niệm sự thay thế của chính phủ. Một trong những ưu điểm của thể chế dân chủ là nó cho phép khẳng định quyền lực của người dân. Nói cách khác, nó tạo điều kiện để nhân dân điều chỉnh khuynh hướng chính trị hay chất lượng chính trị của xã hội thông qua việc lựa chọn các đảng cầm quyền. Đến lượt mình, các đảng cầm quyền sẽ là những người thực hiện các chính sách để điều chỉnh xã hội theo khuynh hướng mà nhân dân đã lựa chọn. Do đó, người dân trở thành thước đo chính xác nhất tính hợp lý chính trị của nhà cầm quyền. Nếu lựa chọn sai lầm những người đại diện, họ có thể tiến hành một sự lựa chọn khác. Điều này tạo ra sự thay thế của chính phủ.


Nhiệm kỳ chính là cánh thức thay thế hòa bình nhất; nghĩa là trong trường hợp chính phủ rơi vào bế tắc, thể chế dân chủ sẽ tạo ra công nghệ thay thế theo ý muốn bằng cách chấm dứt các nhiệm kỳ một cách bình thường hoặc bất thường, hình thành cái gọi là sự thay thế của các giai đoạn - trạng thái nhà nước và giải phóng các cộng đồng ra khỏi sự ràng buộc. Đó cũng chính là ưu điểm của nền dân chủ - nơi các sai lầm chính trị không bị kéo dài, tức là cả quyền lực lẫn rủi ro đều được kiểm soát một cách hợp lý và xã hội không phải trả giá cho những sai lầm của cá nhân hoặc một nhóm người.


Thực ra, sự thay thế của chính phủ là một hiện tượng bình thường và thậm chí, rất đúng với quy luật phát triển. Rõ ràng, bất kỳ sự phát triển nào cũng đòi hỏi một quá trình sàng lọc và thải hồi dần những yếu tố không còn phù hợp. Tuy nhiên, để sự thay thế không gây ra những tổn thất nghiêm trọng, người ta buộc phải thiết kế những kịch bản thay thế hòa bình và chỉ khi nào làm được như vậy thì mới không phải đối diện với sự tan rã của cộng đồng hay sự tan rã của dân tộc. Đến đây, xin được nhấn mạnh rằng, một kịch bản thay thế hòa bình chỉ có thể được thiết kế dựa trên tính đa dạng của đời sống phát triển. Điều này đã được khẳng định trong nhiều học thuyết quan trọng, trong đó có học thuyết của Marx, nhất là triết học Marx với các phân tích về quy luật phát triển biện chứng. Biện chứng là sự vận động nội tại một thành tố và những tác động qua lại giữa yếu tố ấy với các yếu tố khác; bỏ qua tính đa dạng của đời sống tức là chúng ta đã phủ nhận một yếu tố biện chứng rất quan trọng, đó là sự tương tác giữa một yếu tố với những yếu tố khác. Vì lý do đó, nếu thừa nhận tính duy nhất của bất kỳ yếu tố nào thì chúng ta sẽ tiêu diệt sự đa dạng về mặt nhận thức, trong khi sự đa dạng là một thuộc tính cố hữu của đời sống. Tóm lại, những phân tích trên đưa đến kết luận rằng thể chế dân chủ là không gian duy nhất của những kịch bản thay thế hòa bình, hay nói cách khác, nó là môi trường duy nhất mà tại đó có thể kiến tạo lý thuyết phát triển dựa trên sự đa dạng của đời sống phát triển như là điều kiện cần và đủ.


Kết luận


Chúng ta đang sống trong một thế giới mà dân chủ ngày càng đóng vai trò như khuynh hướng chính trị chủ đạo. Vì lý do đó, để trở thành một phần của thế giới, để phát triển một cách lành mạnh, để thành công trong việc kiểm soát rủi ro trong tiến trình phát triển và xây dựng những kịch bản thay thế hòa bình, các quốc gia sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ của mình. Đó cũng chính là bằng chứng về sự hợp tác - một trong những tiêu chuẩn chính trị quan trọng nhất trong thế giới hiện đại.

Theo Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
Phó Thường Nhân
Cái bài của bác Văn tèo poste lên thực ra là những nhận thức bình thường ở trong xã hội phương Tây về dân chủ "đa nguyên đa đảng" (chỉ thêm vào một khúc đầu nói về bệnh thành tích không có liên quan gì).
Nhưng điều đó thực ra là không đúng, và người ta có thể phản biện dễ dàng bằng các dẫn chứng trong lịch sử.

Nhưng ở phương Tây thì họ tuyên truyền như vậy. Nếu ngày mai tôi không lười, thì sẽ trả lời một cách ngắn gọn.
yuyu
Cả 2 bài của giáo sư Trần Hữu Dũng và Nguyễn Trần Bạt đều là những bài viết rất hay, rất công phu và đều nói lên chung một chủ để : Vấn đề phát triển đất nước.

Bài của gs Dũng đề cập đến ảnh hưởng của nạn tham nhũng đối với sự phát triển đất nước, cuối bài, gs đưa ra các biện pháp để diệt trừ tham nhũng, mặc dù gs có nhắc đến tiêu đề "Tham Nhũng và Thể Chế " nhưng trong nội dung, người ta thấy thiếu văng yếu tố hết sức quan trọng đối với vấn đề phát triển và nạn tham nhũng đó là vấn đề Thể Chế.
Trong bài thứ 2 gs Nguyễn Trần Bạt đã bổ sung cho thiếu sót đó bằng cách nhấn mạnh đến vấn đề thể chế. Đó là muốn đất nước phát triển bền vững, giảm thiểu các tệ nạn tham nhũng, bất công xã hội v.v...thì phải có một thể chế dân chủ.
Phó Thường Nhân
Như đã tự hứa hôm qua, tôi viết ở đây vài lời nhận xét về bài thể chế và thành tích.

1. Về chuyện thành tích, "làm láo báo cáo hay" theo tôi nó có mấy nguyên nhân.
- Thông tin vẫn còn chịu ảnh hượng nặng của phương pháp tuyên truyền ngày xưa. Việc tuyên truyền vẫn là cần thiết, nhưng có lẽ nó phải học theo kỹ thuật communication hiện đại vẫn được phương Tây sử dụng trong marketing và tạo dư luận, thăm dò dư luận.
- Đây là xu hướng quản lý còn sót lại từ hình thức kinh tế bao cấp, trong đó người ta chỉ đạo kinh tế chủ yếu bằng biện pháp hành chính. Từ đó mới có bệnh thành tích. Nếu tăng cường cơ chế thị trường, tăng cươngd sự độc lập kinh doanh của các doanh nghiệp, giảm dần hình thức chỉ đạo hành chính trong kinh doanh , huặc tư nhân hoá thì việc này sẽ chấm dứt.
Để điều khiển và kiểm soát được kinh tế thị trường, thì người ta cần luật, chính sách tiền tệ, các hệ thống kiểm toán, hạnh toán thống nhất, các cơ chế, cơ quan thống kê. Từ đó dân tới việc học phương tây về ngân hàng, chính sách tài chính, thống kê, ...

Nhưng điều này hoàn toàn là kỹ thuật (kỹ thuật thông tin, kinh tế, quản lý) chẳng liên quan gì tới dân chủ dân chiếc gì cả.

2. Cần dân chủ để xây dựng nhà nước pháp quyền.
Điều này thì sai cơ bản cả về lý thuyết và thực tế. Dân chủ thực chất là việc công khai hoá các quyền lợi cá nhân, giải quyết các tranh chấp cá nhân bằng con đường hoà bình trong một xã hội.
(người ta có thể thấy điều này rất rõ trong các lý thuyết liberal của Hobbe, Lock, ...). Nhưng các quyền lợi cá nhân này làm sao mà giải quyết được thoả đáng nếu không có một cái khung pháp luật mạnh, nhà nước mạnh để làm trọng tài. Trong trường hợp nhưng điều này không có, thì nhà nước, pháp luật sẽ bị phá tan bởi quyền lợi của một vài cá nhân, huặc nước ngoài. Kết quả càng dân chủ thì càng nát, càng đổ vỡ. Đây là điều đã xẩy ra ở Nga, châu Phi...ở Châu Mỹ latin, hay đông Âu thì nó lại tăng thêm bất công xã hội, phân biệt giầu nghèo càng tăng, do tình trạng "mạnh vê gạo, bạo vì tiền". Như vậy dân chủ là sự thể hiện hình thái của một xã hội phát triển. Nó không phải là nguyên nhân. Nếu việc phát triển của một nhà nước xã hội là cái bánh ga tô, thì dân chủ chỉ là cái quả dâu để trên cho đẹp. Phần quan trọng nhất của nó là kinh tế thị trường, kỹ thuật công nghệ, luật pháp..
(còn tiêp)
Phó Thường Nhân
3. Dân chủ không phải là co chế chống rủi ro trong quá trình phát triển.
Dân chủ thực tế là để bảo vệ một hình thức xã hội. Đó là tư hữu hoá trong kinh tế. Trước đây khi chưa có toàn cầu hoá, thì đúng là dân chủ có thể là moọt giải pháp để điều hoà kinh tế, nhưng hiẹn tại do quá trình toàn cầu hoá, mà các biện pháp chính sách nhà nước đều bị hạn chế, do bị phụ thuộc vào bên ngoài.
Trong một nền kinh tế cực mở như VN (độ mở cửa của kinh tế VN, tức là việc nó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế thế giới còn lớn hơn cả Nhật, cả Pháp), có nghĩa là kinh tế bị lôi cuốn bởi thị trường quốc tế, cái rủi ro thực ra không năm trong tay nhà nước VN nữa. điều duy nhất nó có thể làm là ổn định xã hội, tạo cơ hội cho người ta làm ăn.

4. Dân chủ không gian để thay thế hoà bình.
điều nay cũng sai. Trong nhưng nước phát triển, bản chất nhà nước của nó không thay đổi. Và nếu có một sự thay đổi đột biến thì huặc là do các yếu tố tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, hay là đột biến chính trị kiểu chiến tranh (như thế chiến thứ 2, thứ nhất). Lịch sử nước Pháp chẳng hạn, từ năm 1789 đầy rẫy những cuộc bạo động, nổi loạn. Ở Đức, Ý thì nó có thể chuyển thành phát xít. Ở Nhật thành quân phiệt. Chỉ có ở Mỹ ở Anh là chế độ dân chủ ổn định. Nhưng sự ổn định này có những yếu tố khác là nguyen nhân. ví dụ, Anh cho tới thế kỷ XX là nước thống trị thế giới. Nước Mỹ cũng như vậy. Như vậy sự thay đổi hoà binh của nó có được là do họ dẫn đầu thế giới, áp chế người khác, nước khác, chứ không phải là do dân chủ.

Thiên Lang
QUOTE(Phó Thường Nhân @ Feb 3 2006, 05:03 PM)
Như đã tự hứa hôm qua, tôi viết ở đây vài lời nhận xét về bài thể chế và thành tích.

1. Về chuyện thành tích, "làm láo báo cáo hay" theo tôi nó có mấy nguyên nhân.
- Thông tin vẫn còn chịu ảnh hượng nặng của phương pháp tuyên truyền ngày xưa. Việc tuyên truyền vẫn là cần thiết, nhưng có lẽ nó phải học theo kỹ thuật communication hiện đại vẫn được phương Tây sử dụng trong marketing và tạo dư luận, thăm dò dư luận.
- Đây là xu hướng quản lý còn sót lại từ hình thức kinh tế bao cấp, trong đó người ta chỉ đạo kinh tế chủ yếu bằng biện pháp hành chính. Từ đó mới có bệnh thành tích. Nếu tăng cường cơ chế thị trường, tăng cươngd sự độc lập kinh doanh của các doanh nghiệp, giảm dần hình thức chỉ đạo hành chính trong kinh doanh , huặc tư nhân hoá thì việc này sẽ chấm dứt.
Để điều khiển và kiểm soát được kinh tế thị trường, thì người ta cần luật, chính sách tiền tệ, các hệ thống kiểm toán, hạnh toán thống nhất, các cơ chế, cơ quan thống kê. Từ đó dân tới việc học phương tây về ngân hàng, chính sách tài chính, thống kê, ...

*



Bác Phó thử đọc kỹ lại xem, t/g Nguyễn Trần Bạt nói đến thành tích của một thể chế chứ có phải bệnh thành tích trong các cá thể của nền kinh tế đâu. Tôi thấy so sánh hai cái Thể chế và Thành tích chẳng ăn nhập gì với nhau lắm, nhưng có lẽ đó là cái quan tâm suy tư của tác giả. Để phân tích rõ vấn đề thể chế theo tôi ngoài vấn đề lựa chọn của quần chúng còn phải xét đến các yếu tố văn hoá, lịch sử và cân bằng thế lực trong ngoài.

Văn hoá và lịch sử là những yếu tố quyết định ra cách hành sử của quần chúng. Mà thực ra quần chúng chỉ là một đám đông (khi chưa có nhà nước). Cái này áp dụng lý thuyết đám đông có thể đem lại một vài kết luận hay. Còn các thế lực chính trị bên trong và bên ngoài cũng là cái không thể bỏ qua được, cái này nằm ngoài phạm vi nhận thức của quần chúng. Vậy nên đưa thể chế và các thành tích như là một cách lừa bịp quần chúng thì không cho ta hiểu do đâu mà thể chế được lựa chọn.
Phó Thường Nhân
@Thiên Lang,
Đúng thật, nhưng ông này viết mập mờ quá (hay là tôi hiểu mập mờ ý của ông ta). Chắc khi nói đến thể chế ông ấy muốn nói tới chế độ (Régime) kiểu chế độ dân chủ đại nghị phương Tây hay chế độ dân chủ nhân dân như ở VN, TQ. (Tôi cứ giữ nguyên tên từng chế độ tự gọi mình cho tiện và khách quan). Và cái thành tích ông ấy nói tới là lợi thế và thành quả tạo được từ những chế độ đó.
Ông ấy cũng muốn nói đến thành tựu thật sự , lâu dài hay là thành tựu kiểu ăn sổi. Có nghĩa là theo ý sâu xa của ông ta, những gì ở Vn, TQ đạt được không bền vững. Tức là thà dân chủ đại nghị phưong Tây nhưng nghèo vẫn tốt hơn vì nó thật (tôi suy ra là thế ) leuleu.gif

Thực ra điều này vẫn sai, vì bản thân một chế độ dân chủ đại nghị khi vấp phải khó khăn, không giải quyết được, không phát triển được nó vẫn biến thái thành chế độ khác. Ví dụ điển hình nhất là viêc hình thành các nhà nước phát xít ở Đức, Ý, Tây ban Nha, Bồ đào Nha, Agentine. Sở dĩ tôi phải kể tất cả ra như thế, vì nếukhông người ta sẽ đánh đồng chủ nghĩa phát xít với chiến tranh. Nhưng điều này chỉ đúng với Đức và Ý. Việc hiện tại nhà nước Nga "giảm dân chủ" so với thời Elsine cũng như vậy. Sau này , Bồ đào Nha, Tây Ban Nha cũng chuyển thành đại nghị dân chủ rất tốt.
Như vậy, chế độ phải hợp với mức phát triển, trình độ phát triển. Không có sự phát triển nào là ăn sổi, giả hiệu, vì nó được đánh giá bằng cùng một tiêu chí quốc tế. Ngược lại nếu chế độ không phù hợp thì sẽ đổ vỡ, và dù dân chủ đại nghị hay không nó đều không có "thành tich" (không hiẹu quả);.

Như vậy một chế độ hợp lý là một chế độ có tăng trưởng kinh tế, phát triển được tiềm năng của mình. Nếu so về tuyệt đối ví dụ so Pháp với VN thì rõ ràng là Pháp hơn, nhưng điều đó không thể sử dụng để suy ra rằng, phải áp dụng ngay tức khắc thể chế của nước Pháp. Do điều kiện xã hội, lịch sử, kinh tế, văn hoá ... khác nhau, nó sẽ làm biến thái các hiệu quả..
Thực ra ý ông này cũng không khác gì ý bác yuyu, coi dân chủ(phương tây) là một giá trị phải đạt tới. Trong khi thực ra nó chỉ là một biện pháp, phương thức quản lý xã hội.
Bằng cách đánh tráo mục đích tức là tiến bộ xã hội (thành tích) bằng hình thức quản lý dân chủ đại nghị, ông ấy phủ nhận những thực tế có thật để biện hộ cho cái sự "duy ý chí" dân chủ đại nghị của ông ấy.
yuyu
QUOTE(Phó Thường Nhân @ Feb 3 2006, 03:32 PM)
@Thiên Lang,



Như vậy một chế độ hợp lý là một chế độ có tăng trưởng kinh tế, phát triển được tiềm năng của mình.
Nếu so về tuyệt đối ví dụ so Pháp với VN thì rõ ràng là Pháp hơn, nhưng điều đó không thể sử dụng để suy ra rằng, phải áp dụng ngay tức khắc thể chế của nước Pháp. Do điều kiện xã hội, lịch sử, kinh tế, văn hoá ... khác nhau, nó sẽ làm biến thái các hiệu quả..
Thực ra ý ông này cũng không khác gì ý bác yuyu, coi dân chủ(phương tây) là một giá trị phải đạt tới. Trong khi thực ra nó chỉ là một biện pháp, phương thức quản lý xã hội.
Bằng cách đánh tráo mục đích tức là tiến bộ xã hội (thành tích) bằng hình thức quản lý dân chủ đại nghị, ông ấy phủ nhận những thực tế có thật để biện hộ cho cái sự "duy ý chí" dân chủ đại nghị của ông ấy.
*




Bác nói thế thiếu sót cơ bản. Một chế độ mà chỉ có tăng trưởng kinh tế không thôi thì hoàn toàn mất cân đối. Dân Chủ và Kinh Tế như 2 cái chân của một con người. Phải luôn song hành với nhau
Một đất nước chỉ có tăng trưởng Kinh Tế mà không có cải thiện Dân Chủ thì chỉ như một người thọt chân, đi cà nhắc, khồng thể tiến xa và rất có nguy cơ bị ngã. Mặt khác, thiếu vắng dân chủ, công bằng xã hội thì những thành quả tăng trưởng Kinh Tế cũng sẽ được phân phối rất không đồng đều và bị vô cùng lãng phí như các xã hội Vỉệt Nam, Trung Quốc hiện nay cho thấy.
Theo các thông kê mới nhất mà tôi nhớ được, thì 5 % số dân Trung Quốc chủ yếu trong giới chức quyền, chiếm hữu 45% tài sản quốc gia. Điều đáng nói là số 5% này lại không phải là những tinh hoa của xã hội, trái lại họ chỉ là những người có quyền lực và đa số là bất tài, ít học. Tuy nhiên tôi cho rằng 45% vẫn còn là quá ít, vì trên thực tế, với nhà nước toàn trị, đảng nắm độc quyền tuyệt đối, lại với luật đất đai " sở hữu toàn dân, do nhà nước quản lý ", thì thực chất giai cấp thống trị Trung Quốc chiếm hữu toàn bộ đất đai và phần lớn tài sản quốc gia, trá hình dưới mỹ tự " sỏ hữu toàn dân " . Trong khi công nhân, nông dân vẫn là những tầng lớp bị lừa bịp, đói khổ nhất.

Do đó một đất nước phát triển thì Dân Chủ và Kinh Tế phải đi đôi với nhau như hình với bóng. Thậm chí Dân Chủ phải đi trước một bước để tạo nền tảng phát triển kinh tế vững bền và công bằng xã hội. Ngay từ ngày xưa, Khổng Tử cũng đã nói rằgn " không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng ".
Nghĩa là nghèo mà công bằng còn hơn giầu mà bất công. Điều có cũng có nghĩa là có Dân Chủ mà nghèo còn hơn là giầu có mà bất công. Thực chất sự giầu có của xã hội độc tài hoàn toàn vô nghĩa, nếu người dân không có quyền hành gì. Đầy xe hơi nhà lầu, nhưng tuyền của các quan, thì sự giầu có ấy càng gây thêm đau khổ, bất công cho xã hội.
Đây chính là hiện tượng ở TQ, VN ngày nay. Tuyệt đại đa sô nhân dân vẫn nghèo khổ, bị áp bức còn tệ hơn dưới chế độ phong kiến, tư bản, vì không có chút quyền tự do nào, không được lập nghiệp đoàn độc lập, bị chủ tư bản cấu kết với nhà nước toàn trị, nhân danh nhân dân bóc lột thậm tệ , cướp đoạt đất đai mà không dám kêu, không biết kêu ai ?
Trong khi nhà cửa, đất đai, xe cộ tài sản ngút trởi đều của các quan hoặc tài sản XHCN mà dân không được sờ tới ? Như thế thì chỉ riêng tăng trưởng kinh tế ích gì ?
Tất nhiên không phải là dân hoàn toàn không được hưởng một chút gì hành quả tăng trường kinh tế, nhưng sự hưởng lợi của nhân dân là hoàn toàn không xứng đáng với thành quả tăgn trưởng.

Do đó Dân Chủ không phải chỉ là một phương tiên như bác cố tình xuyên tạc mà thực chất nó là một một mục tiêu, một Lý Tưởng Xã Hội.

Điều này không phải tìm đâu xa. Chính chủ tịch Hồ Chí Minh cũng coi Dân Chủ là một mục tiêu , được viết trong di chúc : " Xây Dựng một nước Việt Nam Dân Chủ - Giàu Mạnh ", còn trong nghị quyết Đảng IX thì Dân Chủ là 1 trong những mục tiêu " Dân Giàu, Nước Mạnh, Xã Hội Công Bằng, Dân Chủ, Văn Minh ".

Dân Chủ còn là mục tiêu lý tưởng của nhiều nước, dù là thực hay giả thì nó cũng được mang trên nhiều quốc hiệu, trong đó có cả Việt Nam.
Nói tóm lại gọị Dân Chủ là phương tiện chỉ là một cách chơi chữ nhắm dụng ý hạ thấp vai trò của Dân Chủ, nhưng hiển nhiên nó vẫn là mục tiêu hướng tới của nhiều xã hội nếu không muốn nói là của mọi xã hội.

Còn nếu nói rằng Việt Nam chưa đủ điều kiện để thực hiện dân chủ, thì cũng vẫn chỉ là lỹ lẽ ngụy biện của thực dân Pháp ngày xưa " An Nam chưa đủ điều kiện để trao trả độc lập ".
Trên thực tế Việt Nam đã phát triển hơn xưa rất nhiều. Ấy vậy mà Dân Chủ vẫn không bằng ngày xưa và kém cả những nước lân bang vốn kém ta về trình độ phát triển.
Phó Thường Nhân
@yuyu,
Bác nói một điều mà tôi đồng ý với bác. Đó là phải luôn tiến hành cải cách xã hội, cho nó phù hợp với sự phát triển kinh tế. Nhưng với tôi những cải cách trước mắt cần thiết là hành chính, pháp luật. Có cả những cải cách mang tính kỹ thuật nữa như ngân hàng, giáo dục,...Có nhiều cái phải học phương Tây (và quan sát cả TQ) về công nghệ, communication, Marketing (cả về hàng hoá và chính trị), rồi các cơ cấu kinh tế...
Tóm lại là có rất nhiều thứ phải học, phải đuổi thao người ta, chứ không phải là đông cứng lại "bế quan toả cảng", tự cho mình là nhất như thời nhà Nguyễn.
Nhưng áp dụng tức khác kiểu "đa nguyên, đa đảng" thì sẽ có hại nhiều hon có lợi. Vì cái hại cua xã hội hiện tại (tham nhũng, lạm quyền, ...) sẽ không bị xoá, mà các cái hại khác sẽ thêm vào (địa phương chủ nghĩa, ly khai, xã hội lộn xộn, căng thẳng trong quan hệ quốc tế...)

Bác không thể so sánh độc lập và dân chủ như nhau được. Nước VN từ thời xa xưa, bất luận tình trạng kinh tế, xã hội thế nào đều là một nhà nước độc lập. Khái niệm đôc lập là một mục đích. Đó cũng là essence của dân tộc VN. Nếu không có độc lập, thì có nghĩa là dân tộc VN bị xoá sổ.

Ngược lại, dân chủ(phương tây) chỉ là một biện pháp, một phương thức quản lý xã hội. Sao lại co thể coi nó là mục đích được. Bản thân xã hội phương Tây có phải lúc nào nó cũng dân chủ đâu. Như vậy nó đâu phải là cái bất biến, tồn tại vĩnh viễn.
Bây giờ phương Tay họ nói thế, vài năm nữa, quyền lợi họ thay đổi, họ lại nói khác. Làm sao bác cho nó một giá trị vĩnh cửu được.

Ngược lại tôi đồng ý là có nhiều điều có thể học được (học nhưng không phải là bắt chiếc), vì VN cũng theo kinh tế thị truờng. Nhưng phải xem tinh trạng mình ở giai đoạn nào mà học, chứ làm sao mà bắt chiếc y hệt được.



yuyu
QUOTE(Phó Thường Nhân @ Feb 4 2006, 10:24 AM)
@yuyu,
Bác nói một điều mà tôi đồng ý với bác. Đó là phải luôn tiến hành cải cách xã hội, cho nó phù hợp với sự phát triển kinh tế. Nhưng với tôi những cải cách trước mắt cần thiết là hành chính, pháp luật. Có cả những cải cách mang tính kỹ thuật nữa như ngân hàng, giáo dục,...Có nhiều cái phải học phương Tây (và quan sát cả TQ) về công nghệ, communication, Marketing (cả về hàng hoá và chính trị), rồi các cơ cấu kinh tế...
Tóm lại là có rất nhiều thứ phải học, phải đuổi thao người ta, chứ không phải là đông cứng lại "bế quan toả cảng", tự cho mình là nhất như thời nhà Nguyễn.
Nhưng áp dụng tức khác kiểu "đa nguyên, đa đảng" thì sẽ có hại nhiều hon có lợi. Vì cái hại cua xã hội hiện tại (tham nhũng, lạm quyền, ...) sẽ không bị xoá, mà các cái hại khác sẽ thêm vào (địa phương chủ nghĩa, ly khai, xã hội lộn xộn, căng thẳng trong quan hệ quốc tế...)

Bác không thể so sánh độc lập và dân chủ như nhau được. Nước VN từ thời xa xưa, bất luận tình trạng kinh tế, xã hội thế nào đều là một nhà nước độc lập. Khái niệm đôc lập là một mục đích. Đó cũng là essence của dân tộc VN. Nếu không có độc lập, thì có nghĩa là dân tộc VN bị xoá sổ.

Ngược lại, dân chủ(phương tây) chỉ là một biện pháp, một phương thức quản lý xã hội. Sao lại co thể coi nó là mục đích được. Bản thân xã hội phương Tây có phải lúc nào nó cũng dân chủ đâu. Như vậy nó đâu phải là cái bất biến, tồn tại vĩnh viễn.
Bây giờ phương Tay họ nói thế, vài năm nữa, quyền lợi họ thay đổi, họ lại nói khác. Làm sao bác cho nó một giá trị vĩnh cửu được.

Ngược lại tôi đồng ý là có nhiều điều có thể học được (học nhưng không phải là bắt chiếc), vì VN cũng theo kinh tế thị truờng. Nhưng phải xem tinh trạng mình ở giai đoạn nào mà học, chứ làm sao mà bắt chiếc y hệt được.
*



Không ai nói đòi ngay lập tức " đa nguyên - đa đảng ". Nhưng trước mắt phải thực hiện các " quyền tự do cơ bản " đã ghi ngay trong hiến pháp. Đó là các quyền tự do ngôn luận, xuất bản, báo chí, lập hội, biểu tình v.v.....Những quyền này đều có dưới các chế độ cũ, dù mức độ khác nhau, nên không thể viện bất cứ lý do nào để từ chối. Mặt khác đó là những " quyền cơ bản " nghĩa là bất khả kháng.
Một chế độ không có những quyền tự do cơ bản là một chế độ tồi tệ và bất hợp pháp, bởi lẽ nó không được nhân dân lựa chọn.


Không nói về đa nguyên-đa đảng ngay cũng khônng có nghĩa là Việt Nam không đủ trình độ để làm việc này. Bởi vì thực chất Việt Nam đã đa nguyên đa đảng ít nhất từ gần 100 năm nay và hiện nay nó vẫn đa nguyên, đa đảng, không thiếu một ngày nào. Chẳng qua đảng nắm quyền cấm đoán, tiêu diệt các đảng phái đối lập với mình nên mới có hiện tượng bề ngoài nhất đảng như hiện nay mà thôi.

Chúng ta hãy nhìn ra thế giới : không có nước nào lại nhất đảng. Do đó Việt Nam cũng không ngoại lệ, vì bản chất của xã hội loài người là đa nguyên.
Đa nguyên ắt phải dẫn đến đa đảng. Đó là sự phát triển bình thường. Nhất đảng là một sự cưỡng ép, trái tự nhiên nên nó chứa chấp nhiều nguy cơ bất ổn, thậm chí rối loạn sụp đổ như lịch sự đã chứng minh : tất cả các chế độ độc tài đều sụp đổ, không có ngoại lệ. Ngược lại không có một chế độ dân chủ đa đảng nào lại sụp đổ để phải quay về với nhất đảng, ngoại trừ việc bị cưỡng ép.

Điều đó cho thấy rằng tình hình hiện nay ở Việt Nam cần thiết phải có đa đảng và hoàn toàn có đủ điều kiện để làm việc đó, nếu không muốn nói rằng đa đảng đã và đang là thực tế, chỉ cần hợp pháp hoá tình trạng đó mà thôi.
Nghĩa là giai đoạn 2 của Đổi Mới, tiếp theo Đổi Mới Kinh Tế, phải có Đổi Mới Chính Trị.
Hiện nay đất nước đang có nhu cầu cấp thiết đổi mới chính trị, theo hương dân chủ hoá xã hội, tương xứng với những thành quả tăng trưởng kinh tế và cũng là điều kiện tối cần để đảm bảo đổi mới kinh tế có hiệu quả và những thành quả này được phân phối đồng đều hơn cho toàn dân, chứ không phải bị cướp đoạt một cách vừa trắng trợn vừa tinh vi cho giai cấp thống trị như hiện nay.

Bước đầu của Đổi Mới Chính Trị tất yếu phải là thực hiện các quyền tự do cơ bản. Chừng nào chưa có các quyền này một cách thực sự, mọi cải cách khác chỉ là giả hiệu và sự tăng trưởng kinh tế chỉ gây thêm bất công xã hội, tăng nguy cơ bất ổn mà thôi.

Dân Chủ không những có thể so sánh với Độc Lập mà thực ra nó còn là điều kiện quyết định giá trị Độc Lập. Thời đại ngày nay Độc Lập phải gắn liền với Tự Do, Dân Chủ, nếu không sẽ không có Độc Lập thực sự .
Chính chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ năm 1945 cũng đã nói rằng :" Nước Độc Lập mà dân không có Tự Do thì Độc Lập cũng vô nghĩa ".
Thực tế cho thấy vì dân không có tự do thực sự, nên cái gọi là " Độc Lập " đối với người dân chỉ là " Đổi Chủ".
Chính vì thế nước ta thoát khỏi chủ nghĩa thực dân lại bị nô lệ vào chủ nghĩa cộng sản còn tệ hại hơn và kết quả là đất nước khôgn có độc lập thực sự, hết bị lệ thuộc vào Pháp, Mỹ, lại lệ thuộc vào Nga, Tàu. Chiến tranh tàn phá đã đành, lại thêm các chính sách sai lầm tự tàn phá đất nước đến kiệt quệ, gần bờ vực thẳm mới phải Đổi Mới.
Mà Đổi Mới cũng chỉ nửa vời, giả hiệu, có tính chất chiến thuật, để kéo dài chế độ độc tài, chứ không phải Đổi Mới Chiến Lược với chính sách Vương Đạo Quang Minh Chính Đại mang lại Dân Chủ Thịnh Vượng, phát triển vững bền cho đất nước và tự do cho nhân dân.

Nói là Độc Lập nhưng đến bây giờ vẫn chưa thoát khỏi vòng ảnh hưởng của Trung Quốc và đất nước bị mất chủ quyền, mất lãnh thổ, mất lãnh hải, nhân dân bị ngoại bang bắn giết, vu cho là ăn cướp, cũng không được quyền phản đối và một người như bác Phó, luôn mồm nói về "chủ quyền dân tộc " một cách sáo rỗng, nhưng khi có người nói đến chuyện mất lãnh thổ, lãnh hải của Tổ Qóoc, thì lại bảo người ta " thương vay khóc mướn " !!!
Pages: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25
Quán nước đầu làng Ven > Gặp Gỡ - Trao Đổi - Làm Quen > Thời Sự
Bạn đang xem phiên bản gọn nhẹ của diễn đ n dưới dạng text, để xem các b i viết với đầy đủ mầu sắc v hình ảnh hãy nhấn v o đây !
Invision Power Board © 2001-2024 Invision Power Services, Inc.