Chông Tham Nhũng Thông Qua Quản TrỊ Quốc Gia Theo Nguyên Tắc Dân Chủ(Bài viết riêng cho Nhà Quản lý)
Tham nhũng, nói một cách đơn giản, là việc sử dụng sai trái quyền lực vì lợi ích riêng.
Tham nhũng là vấn đề ở cả các nước đang phát triển lẫn các nước phát triển. Động cơ và cơ hội tham nhũng khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế kinh tế và chính trị trong xã hội. Điều này lý giải vì sao tham nhũng lại thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trên thế giới và vì sao mức độ lan tràn của nó cũng khác nhau.
Tham nhũng gây ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đối với người nghèo vì nó làm chệch hướng sử dụng nguồn tài chính dành cho phát triển, làm suy yếu năng lực của chính quyền trong việc cung cấp các dịch vụ cơ bản, làm gia tăng sự bất bình đẳng và bất công, làm nản lòng các nhà đầu tư và viện trợ nước ngoài".
Kofi Annan, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc
Tham nhũng là vấn đề hệ trọng
"Tham nhũng có tác động đặc thù và trực tiếp đối với triển vọng phát triển của một quốc gia. Xét trên quan điểm kinh tế, tham nhũng có thể dẫn tới những quyết định lựa chọn đầu tư công kém hiệu quả và phân bổ nguồn lực công khan hiếm vào những dự án mang tính khuếch trương nhưng lại không kinh tế.
Nhưng cái giá của tham nhũng còn vượt xa phạm vi kinh tế. Nó đụng chạm tới cả những yếu tố chính trị và xã hội.
Về lĩnh vực chính trị, tham nhũng củng cố một môi trường phi dân chủ mang tính bất ổn định và bất khả tiên liệu, trong đó giá trị đạo đức bị băng hoại và các thể chế hiến pháp và luật pháp bị xem thường.
Về mặt xã hội, tham nhũng có thể phá vỡ cấu trúc xã hội. Sự bất tín gia tăng đối với giới lãnh đạo và chế độ có thể dẫn tới tình trạng bất ổn định.
Tham nhũng phản ánh thực tế là dân chủ, quyền con người và công tác quản trị quốc gia không được thực hiện đầy đủ, làm ảnh hưởng tới những nỗ lực đạt được các mục tiêu phát triển quốc gia và tác động tiêu cực tới sự ổn định xã hội, chính trị.
Nền văn hoá tham nhũng
Một số người cho rằng cần chấp nhận tham nhũng như là một việc làm thông thường trong nhiều nền văn hoá không phải ở Phương Tây. Mặc dù thừa nhận và tôn trọng các tập quán và văn hoá khác nhau của các nước, song không bao giờ nên dùng những quan điểm đó để biện hộ cho sự tham nhũng. Trên thực tế, tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International), một tổ chức đã tiến hành nghiên cứu tham nhũng trên khắp thế giới, thấy rằng không một nền văn hoá hay xã hội nào lại cho phép việc lạm dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân hay việc rút ruột công quỹ để cho vào túi riêng.
Vòng xoáy suy đồi bắt đầu diễn ra khi người ta bắt đầu chấp nhận việc đòi hỏi những khoản tiền nhỏ cho những dịch vụ chính thức như cấp giấy chứng nhận và giấy phép. Mặc dù ban đầu họ có thể không tán thành hành vi này, song họ cho rằng đây là cách hiệu quả nhất để có được những gì họ muốn hoặc cần, và hành vi đó tiếp diễn cho tới một ngày nó thậm chí không còn bị xem như là một hành vi sai trái nữa. Một văn hoá tham nhũng như vậy cực kỳ khó giải quyết, bởi vì lúc bấy giờ chúng ta nói đến những điều không chỉ được chấp nhận về mặt pháp lý mà còn được chấp nhận về mặt đạo đức. Và điều này đòi hỏi không chỉ thay đổi luật pháp, thể chế và quy trình thủ tục, mà thay đổi cả ý thức, quan niệm của người dân - đó là phần khó nhất.
Trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và sự tham gia
Tham nhũng là một hiện tượng phức tạp và đa lĩnh vực. Để giải quyết tham nhũng không chỉ đòi hỏi có khuôn khổ pháp lý tốt, cho dù đó là một điều cực kỳ cần thiết. Chỉ có thể đánh bại tham nhũng khi thiết lập được một cách chắc chắn các cơ cấu thể chế và hệ thống giá trị đạo đức chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc như trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và sự tham gia của người dân vào việc ra quyết định và thực thi quyết định.
Khái niệm về trách nhiệm giải trình rất khó dịch sang tiếng Việt cũng như nhiều thứ tiếng khác. Trách nhiệm giải trình là trách nhiệm, nhưng nó còn có ý nghĩa rộng hơn thế. Nó được áp dụng khi các cá nhân và tổ chức có nghĩa vụ phải giải trình và chịu trách nhiệm về kết quả việc làm của họ được đo lường ở mức độ khách quan tối đa cho phép. Một cách để tăng cường trách nhiệm giải trình trong khu vực công là thông qua một hệ thống tuyển chọn, đề bạt, khen thưởng và kỷ luật công chức mang tính minh bạch và căn cứ vào kết quả công việc.
Tính minh bạch là tạo điều kiện để người dân tiếp cận thông tin và để họ hiểu cơ chế ra quyết định. Nó đòi hỏi mọi hành động của công chức phải mang tính công khai rõ ràng, có thể tiên liệu được và có thể lý giải được. Theo nguyên tắc, mọi thông tin về nhà nước và các công việc của nhà nước - trừ các bí mật quốc gia - phải được cung cấp cho bất cứ công dân nào để xem xét. Một thách thức mà các nhà làm luật và các nhà hoạch định chính sách gặp phải là làm thế nào để cân bằng giữa nguyên tắc minh bạch và quyền riêng tư. Không có giải pháp đơn giản nào, nhưng không nên lấy điều nọ làm cái cớ để né tránh điều kia.
Thông tin sẽ chẳng có mấy giá trị nếu như người dân không thể sử dụng kiến thức của họ để tác động tới hành vi của chính phủ. Để làm điều này, người dân cần phải được tham gia, trực tiếp hoặc thông qua đại diện của mình, vào quá trình ra quyết định, thực hiện và giám sát trong các lĩnh vực đầu tư và phân bổ nguồn lực công; trong việc phát triển và cung cấp các dịch vụ công; cũng như trong việc thiết lập và phát triển các thể chế công.
Tôn trọng và thúc đẩy tự do hiệp hội và tự do báo chí là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự tham gia tích cực của công dân vào cuộc chiến chống tham nhũng. Một khía cạnh sống còn khác là bảo vệ những người tố cáo tham nhũng. Ở những nước mà tham nhũng mang tính hệ thống, nhưng lại không có hoặc có rất ít sự bảo vệ, người tố cáo tham nhũng có nguy cơ bị cấp trên tham nhũng kỷ luật hoặc thậm chí có thể bị cáo buộc rằng chính họ là kẻ tham nhũng. Các hệ thống bảo vệ và khen thưởng đối với người tố cáo tham nhũng trong khu vực công cũng như khu vực tư, sẽ tăng cường khuyến khích người dân tố cáo tham nhũng.
Nhà nước pháp quyền
Không nên đánh giá thấp tầm quan trọng của việc tuân thủ nguyên tắc minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia trong chiến lược chống tham nhũng. Tuy nhiên, cũng cần cân đối điều này với một nguyên tắc quan trọng khác, đó là nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền đảm bảo rằng mọi cá nhân đều phải tuân thủ luật pháp và được luật pháp đối xử công bằng và không có ai chịu sự đối xử tuỳ tiện của chính quyền. Những điều kiện tiên quyết quan trọng của nhà nước pháp quyền là luật pháp tốt đi đôi với hệ thống thi hành có hiệu lực. Nhiều nước có mức độ tham nhũng cao xây dựng được các quy chế chính thống rất điển hình, nhưng những quy chế đó không có ý nghĩa thực sự, bởi vì chúng ít khi được thi hành. Cho nên một quốc gia muốn chống tham nhũng một cách nghiêm túc, phải có các cơ quan điều tra và công tố hiệu quả cũng như một hệ thống toà án hoạt động tốt, mà bản thân hệ thống đó không có tham nhũng.
Rõ ràng là để giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của tệ tham nhũng và giảm thiểu cơ hội tham nhũng đòi hỏi phải có cách tiếp cận toàn diện trong cả khu vực công và khu vực tư. Cách tiếp cận đó phải huy động sự tham gia của các ngành lập pháp, hành pháp lẫn tư pháp của bộ máy nhà nước, giảm thiểu cơ hội tham nhũng ngay trong những ngành này và tăng cường năng lực cho họ để có thể góp phần vào cuộc chiến chung chống tham nhũng. Nó cũng phải đảm bảo sự tham gia tích cực và bảo vệ tốt cho các công dân, xã hội dân sự và giới báo chí. Để theo đuổi cách tiếp cận như vậy đòi hỏi phải có thái độ sẵn sàng cải cách cũng như những nguồn lực cần thiết để tài trợ cho công cuộc cải cách đó. Đây là một việc làm khó, nhưng cần thiết.
Kinh nghiệm chống tham nhũng ở một số nước trong khu vực
Một số câu chuyện thành công về chống tham nhũng được nhắc tới nhiều nhất trong khu vực là trường hợp của Hồng Kông và Xinh-ga-po.
Tham nhũng lan tràn như một bệnh dịch ở Hồng Kông vào những năm 1960. Hồi đó, đã xảy ra một vụ bê bối liên quan tới một sĩ quan cảnh sát cao cấp, khiến nước này phải thành lập ra Uỷ ban Độc lập Chống tham nhũng (Independent Commission Against Corruption - ICAC). Yếu tố dẫn đến thành công được đề cập rộng rãi của Uỷ ban này là tính độc lập của nó - chỉ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thống đốc lúc bấy giờ, và hoạt động độc lập với cảnh sát, vốn có tiếng là tham nhũng ở mức độ cao. Uỷ ban này có thẩm quyền điều tra và truy tố các vụ tham nhũng và tham gia chiến dịch tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng nhân dân. Các công chức của Uỷ ban này được trả lương cao hơn so với công chức ở các cơ quan chính phủ khác và không bị thuyên chuyển sang các phòng ban khác.
Ở Xinh-ga-po sau Đại chiến Thế giới lần thứ II, công chức có mức lương thấp và không được giám sát chặt chẽ. Tình trạng biếu xén, hối lộ xảy ra rất phổ biến trong ngành cảnh sát. Cũng giống như ở Hồng Kông, giới lãnh đạo nhận thấy rằng cần phải áp dụng phương thức tiếp cận toàn diện trong việc chống tham nhũng. Một nội dung trong chiến lược của Chính phủ là tăng cường quyền lực cho Cục Điều tra hành vi tham nhũng (Corruption Practices Investigations Bureau - CPIB). Từ năm 1970, Cục này trực thuộc Văn phòng Thủ tướng.
Cả ICAC của Hồng Kông và CPIB của Xinh-ga-po đều là những cơ quan chống tham nhũng thành công. Nhưng bất kỳ mô hình nào chỉ chú trọng vào việc thi hành luật pháp và thay đổi ý thức, thái độ của công chúng, đều không chú ý đến tầm quan trọng của các chương trình quản trị quốc gia rộng lớn hơn như cải cách cơ cấu, kể cả cải cách hành chính công và cải cách tư pháp. Cũng như vậy, bất kỳ hệ thống thể chế nào trong đó cơ quan chống tham nhũng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của một người cũng sẽ nảy sinh vấn đề - đặc biệt khi bản thân cán bộ lãnh đạo đó cũng tham nhũng và nhất là khi hệ thống này không cam kết tuân theo chế độ pháp quyền.
Nếu không được ngăn chặn, tệ tham nhũng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng, nếu không nói là phá huỷ hoàn toàn, nỗ lực cải cách của một quốc gia. Song, nếu kiểm soát được tệ nạn này, quốc gia đó có thể xây dựng được một môi trường thuận lợi để tiếp tục cải cách. Nhiều người cho rằng Singapore và Hồng Kông có thể được coi là những ví dụ điển hình về việc chống tham nhũng và thành công của họ trong lĩnh vực này được coi là yếu tố then chốt để đảm bảo tốc độ phát triển nhanh. Việt Nam cũng cần có một sự đầu tư tương tự để xây dựng một đất nước ngày càng thịnh vượng.
Nguồn: UNDP- Việt Nam
http://www.undp.org.vn/undp/unews/features...eat/feat03v.htm