Langven.com Forum

Giúp đỡ - Lục lọi - Dân l ng - Lịch
Full Version: Cầu Sao Giải Hạn Thiếu 50k Có được Không ?
Quán nước đầu làng Ven > Sáng Tác - Thảo Luận - Phổ biến kiến thức > CLB Văn Hoá - Lịch sử
Pages: 1, 2, 3, 4
Phó Thường Nhân
Hôm nay khi vào đọc báo VN chính thống, thấy có câu chuyện sao giải hạn liên quan tới chùa Phúc Khánh, nên bàn loạn một chút về tâm linh.
Chùa Phúc Khánh với tôi không xa lạ, nó gần gũi với tôi từ tuổi thơ, vì nhà tôi ở vào khu vực Nam Hà nội. Cùng với chùa Phúc Khánh là chùa Bộc, gò Đống Đa, Lăng Hoàng cao Khải, Đại học Thuỷ lợi rồi chùa Láng.. Ở đây thủa xa xưa là đất các làng Láng (Thượng, Hạ, Trung), Khương thượng, là thập tam trại (13 trại khai hoang) thời nhà Lý, nên các chùa này là chùa làng, và về gốc gác là con cháu người Cham pa, bị vua Lý mang về như một dạng nông nô sau các chiến dịch chinh chiến với Chiêm Thành. Tôi sống ở đây, nhưng quê không phải ở đây, nên không thể tự coi mình là hậu duệ của người Chàm được. Nhưng không phải vì nó là chùa Làng, nên nó không quan trọng, vì hiện nay ta hay hiểu nghĩa « làng » như là chỉ có tính chất điạ phương. Trong thực tế, thời phong kiến chùa nào cũng là của làng cả,vì thế mới có câu « đất vua, chùa làng », ngoại trừ một số chùa được Hoàng Thân của triều đại đương đại lập ra (thường là các công chúa).
Suốt thời tuổi thơ bao cấp của tôi, thì chùa Phúc Khánh rất im lìm. Như đại đa số các chùa chiền vào thời kỳ này ở miền Bắc. Cửa chùa luôn đóng im ỉm. Nhưng không phải vì thế mà chùa không có vai trò quan trọng. Vì nó là một trong nhưng chùa ở ngoài Bắc tham gia vào phong trào cải cách Phật giáo vào nhưng năm 20 của thế kỷ XX dưới chế độ thực dân Pháp.
Từ lúc đổi mới (1986). Tín ngưỡng dần dần được khôi phục lại, và nếu tôi không nhầm, thì cũng ở đây, Tổng bí thư Đỗ Mười đã đến thắp hương, làm lễ.. và có thể coi đó là tín hiệu mở đầu « cởi trói » của nhà nước VN hiện tại trong lĩnh vực tôn giáo tâm linh, ít ra là ở ngoài Bắc.
Tất nhiên, nhà nước có cởi trói hay không, thì điều đó không quyết định được tâm linh của dân. Ví dụ, như chùa Vĩnh Nghiêm (nếu tôi nhớ không nhầm tên) ở phía Bắc Ninh, nơi còn chứa các mộc bản đại tạng kinh VN, là tổ đình của Trúc Lâm Thiền Phái thời nhà Trần. Vào trong sân chùa đầy rẫy các cây được các vị lãnh đạo trồng khi thăm chùa. Ý nghĩa lịch sử của nó cực kỳ lớn, vì là tổ đình lịch sử Trúc lâm cơ mà. Cảnh chùa cực đẹp. Nhưng khách vãng lai cực ít. Như vậy không phải cứ nổi tiếng về lịch sử thì linh thiêng.
Sự linh thiêng của chùa Phúc Khánh gắn liền với nhưng huyền thoại về sông Tô lịch, được sống lại vào thập niên 80, vừa đúng lúc « mở cửa, cởi trói », đồng thời cũng là lúc nạo vét sông Tô lịch, làm sống lại huyền thoại về sự trấn yểm của Cao biền (thời Bắc Thuộc, vào thế kỷ thứ 7) với thần sông Tô lịch. Làm người ta lo lắng. Trong huyền thoại lịch sử, sự trấn yểm của Cao Biền thất bại, bị thần Long Đỗ, tức là Thổ thần của Hà nội đập tan, và đấy là sự mở đầu về tâm linh cho việc giành độc lập của VN về sau (tâm linh, tư duy luôn đi trước thực tế, vì nó phản ánh nhận thức xã hội). Theo như người ta kể (tôi biết là do một người hay đi chùa Phúc Khánh kể lại nên không chắc độ chính xác, chỉ có thể coi là truyền thuyết hiện đại), thì vị sư ở chùa này đã có việc lập đàn trang cúng bái, để giải nạn, khiến việc nạo vét này an toàn. (Cũng nên nhớ là vấn đề nạo vét sông Tô lịch đã có từ lâu, hồi còn học phổ thông, tôi đã từng đi lao động đào sông ở đây).
Đệ tử của sư là người trụ trì chùa về sau này, chính là người đã làm cho chùa phồn thịnh như bây giờ. Và hiện tại nhà sư này còn đóng góp vào việc xây dựng những công trình phật giáo ở Yên Tử (làm tượng đồng..).
Việc tổ chức cầu an, giải mạng sao xấu có thể coi là « dấu ấn gien nê tíc (genetic) của chùa này. Mỗi lần về VN, tôi đều có ghé qua chùa, và có lần đã tham gia ngồi ở sân chùa vào một buổi tối nghe ông sư « giảng đạo », và đọc kinh tập thể. Ông này không phải là ông sư trụ trì (nếu tôi nhớ không nhầm thì sư trụ trì tên là Thuyết). Đây là điều thú vị với tôi. Đó là việc « giảng đạo » này cũng như vấn đề làm lễ giải hạn, trong thực tế không tồn tại trong hành lễ phật giáo truyền thống. Việc « sư giảng đạo » này là ảnh hưởng từ các chùa miền Nam ra. Và ở trong Nam nó cũng chỉ tồn tại từ những năm 60, vì nó bắt chiếc Thiên chúa giáo. Còn việc xem sao giải hạn thì là một tín ngưỡng từ đạo Lão, liên quan đến tử vi. Mà lô gíc của nó là số mệnh con người được quyết định bởi vị trí các vì sao, và sự tương tác của chúng với nhau. Tín ngưỡng này không chỉ có trong đạo Lão mà còn phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Từ thời Ba bi lon, văn hoá lưỡng hà ở Tây Á cũng có. Cũng từ tín ngưỡng này mà có lịch và các con giáp.
Nhưng việc biến nó thành một nghi lễ phật giáo không có gì là sai trái cả. Bởi vì tín ngưỡng là một thực thể sống động, như cái cây phải đâm chồi, nẩy lộc. Chứ nếu không thì nó là cái ..bảo tàng. Hiện nay, do tín ngưỡng phát triển, mà ở mỗi chùa mỗi đền đều đặt ra những lễ lạt khác nhau. Họ thường viện lý do truyền thống, nhưng thực ra nó là sự tái tạo tưởng tượng, suy diễn từ huyền thoại tâm linh (ví dụ việc lễ đền bà chúa Kho chẳng hạn).
Những lễ lạt này, ta có thể coi là một dạng thương mại tâm linh. Thoả mãn nhu cầu tâm linh của nhân dân.
Vậy có nên cấm chúng không. Với tôi là không, nhà nước, giáo hội chỉ cần đặt ra nội quy để các sinh hoạt tín ngưỡng này được tiến hành văn minh, không để gây tai nạn (hoả hoạn, trộm cắp,lừa lọc), và đặc biệt phải nhấn mạnh ý nghĩa đạo đức thẩm mỹ của nó, đừng để nó là một sự mê tín đơn thuần.
Tại sao lại thế. Bởi những hình thức này vừa có tính văn hoá, vừa là nguồn thu nhập cho nhà chùa. VN là một nước có truyền thống văn hoá lâu đời. Để bảo tồn phát triển nó nhất định phải có chi phí. Việc thương mại tâm linh giúp giải quyết được vấn đề này, chứ nếu không thì nhà nước phải cõng (thông qua ngân sách thuế khoá), mà nếu không cõng thì nó sẽ lụi tàn, thui chột.. Như vậy tín ngưỡng của dân lại giúp bảo tồn phát triển văn hoá thì còn gì bằng.
Không những nguồn thu nhập này giúp bảo tồn văn hoá, mà còn có thể làm các hoạt động phúc lợi xã hội khác, như bệnh viện, dưỡng lão.. Như vậy vấn đề không phải là cấm thương mại tâm linh, mà là quản lý nó « hướng thiện ».
Từ đây ta có thể tìm ra câu trả lời cho vấn đề « cầu an thiếu 50K không được làm ». Nhìn về mặt trực quan, người ta sẽ có tâm lý thấy việc này phản cảm, và lên án nhà chùa. Nhưng tôi thì nghĩ thế này. Một người lên chùa, họ phải biết họ muốn gì, và có sự lựa chọn. Ví dụ, nếu muốn cầu an mà không có tài chính thì không nhất thiết phải đòi bằng được một cuộc lễ. họ hoàn toàn có thể cầu trời khấn phật, dâng một cái lễ bình thường ..và mang nó về ăn. Ngược lại nếu họ muốn chùa làm lễ, thì phải sắm sửa đầy đủ. Làm sao có thể « thất lễ » rồi lăn đùng ra ăn vạ đòi nhà chùa « từ bi » làm cho mình. Điều quan trọng là nhà chùa có bắt buộc họ, kể cả các biện pháp tâm lý, để đòi hỏi không ? Nếu không có và người lên chùa có thể chọn lựa hình thái thể hiện tâm linh theo ý mình đâu có sao. Nhưng đã chọn lựa kiểu nào thì phải bảo đảm được nó, chứ đừng để thành chuyện « dở khóc dở cười » như thế này.
Cá nhân tôi, hầu như lần nào về VN cũng lên chùa Phúc Khánh một lần. Nhưng tôi chỉ đi làm lễ đơn giản, bỏ ít tiền cúng dường, kiểu « giọt dầu », « mưa dầm thấm lâu » ủng hộ nhà chùa thôi. Mỗi người đều có cái mệnh của mình.
NVT2002
Em thấy bác cũng hay vãn cảnh chùa, cho em hỏi một câu là: Bác có biết tại sao chùa Hà lại không có sư trụ trì chăng?
Phó Thường Nhân
Tại sao chùa Hà không có sư. Tôi không biết. Tôi cũng không rõ hiện tại, việc phân bổ sư trụ trì ở VN của giáo hội ra sao. Việc này có lẽ cũng rất đời thường, như mọi vấn đề tổ chức khác trong xã hội.
Chùa Hà cũng là dạng chùa mới nổi, từ sau khi đổi mới ở ngoài Bắc. Tôi cũng đã từng đến viếng, nhưng cũng lâu rồi. Chùa này, theo tin đồn dân gian thì linh thiêng với dân văn phòng làm cho chính phủ (tức là cán bộ nhà nước) trong việc thăng quan tiến chức. Nhưng đấy là vào giai đoạn thập niên 90, giờ thì tôi không rõ.
Nếu tôi không nhầm thì thực ra đây không phải là chùa, mà là một ngôi đền. Mà nếu là đền thì không thuộc phạm vi quản lý của giáo hội Phật giáo, (có thể vì thế mà không có sư, nếu tôi không nhầm), mà là ở tổ chức địa phương. Ở VN trong phạm vi tín ngưỡng có nhiều hình thức khác nhau : Chùa, đền, điện, miếu, đình, phủ. Tuỳ theo đó mà pháp nhân quản lý cũng khác nhau. Ngoại trừ chùa, thì đền, miếu, đình, phủ..đều thờ Thần dưới các dạng khác nhau : Thánh, mẫu, thần, cô hồn, .. Nhưng vì ở VN các tín ngưỡng này giao thoa với nhau (việc cầu sao giải hạn ở chùa Phúc Khánh là một ví dụ) và nhiều khi người ta cũng lẫn tên chúng với nhau.
Phó Thường Nhân
Ở trên, NVT có nhận xét tôi hay vãn cảnh chùa. Tôi không nghĩ rằng số lượng chùa chiền tôi đến vãn cảnh được là nhiều. Vì điều này phụ thuộc vào thời gian tôi có được. Đặc biệt tôi ít khi đến viếng được chùa chiền vào các dịp lễ hội. Nhân nói chuyện này, có một điều mà các chùa ở VN có thể làm, nó rất có ý nghĩa. Khi tới thăm Nhật, tôi thấy phật tử của họ hay tổ chức hành hương thăm các chùa. Mỗi người đều có một quyển sổ, đến mỗi chùa họ xin một con dấu đóng vào đó (giống như kiểu phát ấn đền Trần, có điều đây không phải là phát giấy rời mà đóng vào một quyển sổ), họ cũng có thể « xin chữ » , như tục lệ xin chữ đầu năm của ông đồ ở Văn miếu Hà nội (tất nhiên là người viết chữ đẹp). Đây là dịch vụ, giá của nó khoảng 500 Yên (tức là khoảng 3,5 euros, tức là khoảng 60,70K VND), đối với người Nhật thì không phải là đắt. Tất nhiên nếu VN mà làm thì giá phải rẻ hơn, vì phải tính theo sức mua của xã hội. Tất nhiên, mỗi nhà chùa phải tạo ra một con dấu đặc biệt, có thể gọi là ẤN, đặc trưng chứ không thể giống như dạng dấu má công quyền nhà nước.
Tất nhiên, người ta có thể tự đi. Ở mỗi chùa Nhật, người ta đều bán loại sổ này. Mình mua, rồi đi đến đâu xin ẤN tới đó. Vừa là hành hương, vừa là kỷ niệm.
Nhân nói chuyện chùa chiền này, tôi cũng « bật mí » cách « hành hương » của tôi. Với tôi có 3 loại chùa chiền mà mỗi loại đem lại cho tôi một cảm nhận tâm linh khác nhau, nhưng bổ xung cho nhau.
1- Chùa dân gian, tín ngưỡng. Đây là những chùa dạng như chùa Phúc Khánh, chùa Hà, Bia Bà (tức là cụm chùa, đình, miếu ở làng La Cả la Khê trong Hà đông cũ, giờ là Hà nội mở rộng). Ở đây cái tôi thu nhận được là tâm linh tín ngưỡng. Cái tín ngưỡng này là theo lô gíc dân gian.
2- Chùa lịch sử, địa danh lịch sử. Ví dụ như chùa Vĩnh Nghiêm vốn là tổ đỉnh của Thiền phái Trúc Lâm Yên tử đời nhà Trần. Ở đây tôi có cảm nhận tâm linh lịch sử.
3- Chùa sách vở. Ví dụ như chùa Quán Sứ, vì nó là trung tâm của giáo hội, đến đó tôi có thể tìm kiếm được kinh sách mình muốn tìm đọc.
Tất nhiên có nhưng địa danh, cụm chùa Tâm linh bao phủ, đan giao với nhau. Ví dụ khi tôi tới thăm cụm tâm linh Núi Sam ở châu Đốc, thì nó vừa có chùa dân gian tín ngưỡng (miếu bà chúa Sam), có lịch sử (miếu thờ Thoại Ngọc Hầu), vừa có chùa lịch sử chùa Tây An (nơi còn có mộ của phật thầy Tây An, người khởi sướng nhánh phật giáo Tứ Ân, hiếu nghĩa).
Chùa Quán sứ cũng vừa là trung tâm giáo hội, đồng thời cũng là chùa lịch sử, gắn với phong trào cải cách phật giáo vào những năm 20 ở ngoài Bắc
Phó Thường Nhân
Cái chủ để này tôi mở ra nhân có câu chuyện chùa Phúc Khánh, nhưng theo truyền thống làng ven, nói chuyện lai rai, bốc phét dây cà ra dây muống, thì có thể coi chủ đề này giống như chủ điểm về UK được biến thành bàn loạn thời sự, có điều nó sẽ là thời sự về văn hoá, lịch sử.. Hy vọng là các bác sẽ tham gia cho vui. Vì nó là chuyện thời sự văn hoá tâm linh, nên tôi muốn nói tới câu chuyện chuyển bát hương ở tượng Trần Hưng Đạo tại thành phố Hồ Chí Minh.
Câu chuyện này là một câu chuyện thú vị về quan niệm Ta - Tây về tâm linh, và sau đó nó có thể có một chút gì đó như chính trị nữa.
Là một người VN ở nước ngoài, việc ở những ngã ba ngã tư đường trên các thành phố, thường được người ta đặt các cụm tượng đài trang trí không phải là điều lạ mắt với tôi. Nhưng câu chuyện đầu tiên làm tôi suy nghĩ tới nó và đặt câu hỏi, đó là trong lần đi Nhật, tôi có tới Nara (Nại lương), là thủ đô Nhật thời Hoà an cỡ thế kỷ IV-IX ở Nhật bản. Trong công viên Nại lương, có một viện bảo tàng rất lớn, trong đó có rất nhiều tượng phật đẹp. Nhưng điều làm tôi để ý nhất, là lác đác đâu đó, tôi thấy có những bát hương. Điều mà trong một bảo tàng châu Âu, Mỹ không bao giờ có. Vào bảo tàng Louvre ở Pháp, ví dụ phần nói tới nghệ thuật tôn giáo châu Âu, đố ai tìm được một ngọn nến trước một bức tượng đức mẹ. Tất nhiên nó còn có phần bảo đảm an toàn chữa cháy nữa. Nhưng tại sao ở Nhật, họ lại có bát hương. Và điều đó khiến tôi giật mình tự hỏi phải chăng cái bảo tàng có gì đó trái chiều với văn hoá tâm linh phương Đông.
Một lần khác, khi về VN, lúc ra Côn Đảo, tôi có vào thăm các trại tù của Thực dân Pháp, được biến thành di tích. Và trong một phòng tù tập thể, giữa những bức tượng tù nhân được làm bằng nhựa hay đất tái tạo lại, cũng có một bát hương.
Như vậy giữa quan niệm Ta – Tây, vì bảo tàng thực ra là một ý tưởng của văn hoá phương Tây, nhằm bảo tồn những di sản lịch sử văn hoá, có một sự trái ngược về tâm linh. Với một người châu Á, dù là người Nhật hay người VN, do quan niệm vạn vật hữu linh, có một thế giới âm tồn tại song song với ta, mà điều bảo tồn di tích như những kỷ vật chết không thể tồn tại. Tức là ta không có tư duy bảo tàng. Bởi mỗi di vật ấy đều có linh hồn, sống động, tồn tại cùng ta. Người ta không thể tưởng tượng cái tượng phật bằng gỗ, chỉ là tượng gỗ, thể hiện tài năng của nghệ nhân vào một thời điểm lịch sử, mà còn có sức mạnh tâm linh. Tương tự như vậy, trong một phòng giam của thực dân Pháp, thì linh hồn của các liệt sĩ vẫn ở đâu đó với ta. Mặc dù hiện tại chỉ là tượng đất, chúng vẫn có hồn.
Còn tại sao ở châu Âu, Mỹ họ làm như vậy. Bởi với họ, những hiện vật này chỉ có tính lịch sử, bảo tồn bảo tàng. Tâm linh của họ là nhất thần đạo, chỉ có ông chúa. Vạn vật chỉ là vật chất để con người sử dụng, tàn phá, làm gì có linh hồn. Ngay cả người, khi chết rồi thì hồn về với chúa, hoặc xuống địa ngục vĩnh viễn, còn thân thể trở về với cát bụi. Như vậy khi họ dựng tượng ra giữa trời, thì chỉ là một dạng tri ân bình thường, chứ nó không có tâm linh ở đằng sau. Và tất nhiên không có chuyện thờ cúng.
Ở VN hiện tại cả hai dạng quan niệm này đồng tồn tại. Vì nước VN hiện đại cũng đã “Âu Hoá” bất kể đó là chính quyền bây giờ, hay là chính quyền miền Nam ngày xưa. Vì thế mới có chuyện mang Trần Hưng Đạo, rồi Thánh Gióng ra đứng đầu đường như thế theo kiểu phương Tây, vì đây là công trình của miền Nam cũ. Bởi nếu theo tâm linh VN truyền thống, thì chuyện này không thể xẩy ra. Nếu giả dụ đó là tượng một nhân vật lịch sử kiểu Nguyễn Trãi, Quang Trung..thì nó còn đỡ, ngược lại cả Trần Hưng Đạo lẫn Thánh Gióng không chỉ là nhân vật lịch sử mà còn là các thần linh trong hệ thống thờ cúng của người Việt. Trần Hưng Đạo cũng chính là Đức Ông, Đức Thánh Trần trong đạo Tiên Thiên Thánh Mẫu. Còn Thánh Gióng là nằm trong dòng tứ thánh bất tử cùng với Chử Đồng Tử/Tiên Dung, rồi Thần núi Tản Viên, Từ Thức. Cùng với tục thờ Thành Hoàng, đây là những bộ phận của Thần Đạo người Việt, tức là giống ShinTo của Nhật, mà người ta hay nhầm là đạo Lão, bởi vì trong điện thờ, nhiều khi có cả Ngọc Hoàng Thượng đế (tức là thần linh của đạo Lão). Thì việc này thật ra là rất phản cảm.
Như vậy, việc đặt bát hương trước tượng Ngài, rồi cúng bái là một thứ nửa ông nửa thằng. Không ra làm sao. Để giải quyết việc này, thì tốt nhất là phân định rõ ràng. Bát hương thờ cúng thì nên để ở đền ông, có bàn thờ tự đàng hoàng, có người chăm sóc (ông Từ). Còn với tượng của ngài đã đặt ngoài đường kiểu thế này, thì nên hiểu là tượng Trần Hưng Đạo lịch sử. Có tri ân ngài thì có thể đặt hoa, giống như quan niệm phương Tây. Đừng có lẫn lộn mà nó thành bệ rạc. Vì Ngài có phải là cô hồn đâu mà phải vất vưởng đầu đường xó chợ thế này.
Khi cái sự việc này được đưa ra, thì báo Thanh Niên mạng, có bài nói rằng ở nhiều nơi khác trong VN cũng có kiểu thờ lởm khởm này. Có thể ngụ ý là tại sao các tỉnh được thờ kiểu này mà ở TP HCM lại bỏ. Tôi thì hiểu thế này, TP HCM là thành phố lớn, nó là thành phố trẻ nhất những cũng già nhất ở VN. Trẻ nhất là vì tuổi đời nó không dài tính từ lúc thành lập thành phố Sài gòn dưới thời thuộc địa. Nhưng nó cũng già nhất về tuổi “văn minh phương Tây” ở VN. Một thành phố như thế thì phải đi đầu, chứ sao lại đi sau theo đuôi những nơi khác.
NVT2002
Em chỉ có một ý kiến là người phương Tây không hẳn đã theo nhất thần giáo. Trong 3 tôn giáo anh em là Do Thái, Thiên Chúa và Hồi Giáo thì chỉ có đạo Hồi là nhất thần, nên rất hay khích bác 2 đạo kia là "bọn đa thần giáo"!
Phó Thường Nhân
Bây giờ các bác lại muốn tìm hiểu cả Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo và Do Thái giáo à ?
Cả ba đạo đều là nhất thần giáo, chỉ có điều sự cực đoan khác nhau mà thôi.
Họ là nhất thần giáo vì quan niệm và tin tưởng có một ông thần duy nhất (được gọi là Chúa,Giê hô va, hay A la) tạo ra thế giới, thường được gọi chung là creator (tiếng Anh). Tạo ra thế giới và điều khiển thế giới. Cái chữ “tạo ra” này rất quan trọng, vì như trong đạo Lão, có Ngọc Hoàng Thượng đế (mà mọi người biết tới với phiên bản táo quân ngày tết tồn tại cả mấy chục năm nay ở VN) dù có được coi là vị thần cao nhất, và ngay cả khi nếu người ta chỉ thờ mỗi ngọc hoàng thôi, cũng không thể là nhất thần giáo. Vì Ngọc Hoàng chỉ cai quản thế giới mà không tạo ra thế giới.
Một điểm khác nữa là quyển kinh thánh hay quyển Kinh Co ran (hồi giáo) hay quyển kinh Do thái (thực ra chính là kinh cựu ước của Thiên chúa giáo) được coi là lời của ông thần duy nhất kia “tiết lộ thiên cơ”, là linh thiêng. Điều mà ở phương Đông không có.
Bác Hồ, khi trong câu đầu của tuyên ngôn độc lập, có trích câu của tuyên ngôn độc lập Mỹ, và tuyên ngôn độc lập Mỹ lại nói tới ông nhất thần này (vì nó là truyền thống Thiên chúa giáo), bác đã dùng từ “tạo hoá” để chỉ creator. (chế tạo và biến hoá). Trong đó phần “biến hoá” là do ở phương Đông quan niệm thêm đặt vào theo kiểu kinh Dịch của đạo Nho, chứ thực ra nó chỉ là “chế tạo” thôi.
Còn độ cực đoan khác nhau là bởi cách thức và quan niệm tu hành. Với đạo cơ đốc giáo (catholics) thì họ quan niệm có 3 ngôi : Cha (tức là creator, chúa trời), con (là con ông ta tức là chúa Giê Xu), và thánh thần (tức là cái phần hồn của chúa đặt vào mỗi con người, sau khi nặn ra họ bằng đất sét, tức là chế tạo, giống như ta chế tạo cái ô tô). Như vậy ông Chúa vẫn là chủ thể lớn nhất.
Với tin lành thì họ chỉ tin vào chúa trời là chính (là một dạng phiên bản của Hồi giáo), và Hồi giáo cũng vậy. Hồi giáo cũng công nhận chúa Giê Xu và đức Mẹ Ma ria. Nhưng họ chỉ coi chúa Giê Xu là một dạng nhà tiên tri, như Moise, Daniel, ..chứ không phải là con chúa trời… còn Đức Mẹ cũng là người thường, nhưng người hồi giáo vẫn có tên dành cho con gái là Mariam (tức là Ma ria đọc theo âm ả rập).
Như vậy sự khác nhau chỉ là độ cực đoan trong nhận thức và cách thờ cúng tín ngưỡng.
Phó Thường Nhân
Báo lao động tiếp tục đăng một bài nữa về « hủ tục mê tín dị đoan » ở chùa Vàng Quảng Ninh, sau vụ « cầu sao giải hạn » ở chùa Phúc Khánh. Sự liên quan này không phải là tôi nói ra, mà ở cuối bài báo viết.
Hiện nay ở VN báo chí VN đã rất tự do, tôi muốn nói báo chí chính thống, hầu như không thua kém báo chí ở phương Tây. Còn tất nhiên phương Tây vẫn buộc tội là VN không có tự do ngôn luận, bởi sự tự do này không nhằm vào hướng gây rối loạn, bạo động, thất thiệt để họ lợi dụng được. Điều mà ở ngay phương Tây cũng cấm. Chính vì sự rộng rãi của báo chí này, mà tin tức của nó đưa sẽ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Hoặc có yếu tố giật gân, chủ đề hấp dẫn để câu khách. Hoặc là nó bị mua trong một cuộc đấu đá giữa hai lực lượng nào đó. Báo chí được dùng làm công cụ đấu đá, chuẩn bị dư luận, đánh bóng mạ kền, PR .. v..v..Chính vì điều đó mà khi bình luận nóng kiểu này, người ta phải rất thận trọng. Ở đây tôi thấy thú vị, vì nó đụng đến một tập tục văn hoá được xử dụng để kinh doanh, và từ đó đặt ra câu hỏi. Tập tục nào có thể kinh doanh, mức độ thế nào, nên cấm không, cấm thế nào. Vì thế mà tôi bình loạn cho vui.
Việc người âm liên hệ tác động tới dương thế là một trong những đặc trưng của văn hoá VN. Với người Việt, thì thế giới âm là bản sao ngược của thế giới dương, đồng tồn tại. Điều này không chỉ đúng với người Kinh mà với tất cả các sắc tộc tạo ra dân tộc VN. Ví dụ, người Mường có câu « về đêm con chó là con gà ». Bởi vì đêm là thế giới âm, ban ngày là dương. Con gà gáy báo sáng, thì con chó sủa ban đêm cũng vậy. Với các đồng bào ở Tây nguyên, thì việc tang lễ, làm nhà mồ cũng thể hiện tư duy này. Điểm khác nhau chỉ là thời gian. Với người kinh thì sau 5 đời, người mất sẽ thành tổ tiên chung chung, còn với người Tây nguyên thì khoảng 3 năm, lúc bỏ mả là hết.
Không những trong văn hoá VN có thế giới âm bản như thế, mà còn có quan niệm vạn vật hữu linh. Tức là bất cứ sự vật nào, cây cối, cỏ hoa, đất đá, sinh linh, còn người..v.. v.. đều có hồn, hoặc có sự linh thiêng. Từ quan niệm này mà ta có thêm sức mạnh của thần linh. Có tục thờ thần. Có thần đạo, mà biểu hiện lớn nhất của nó là thờ thành hoàng, thờ Mẫu..
Do có văn hoá phật giáo. Thì ta lại có thêm quan niệm kiếp, nghiệp, bởi con người trôi nổi trong luân hồi cuộc sống hiện tại được định hình bởi các nghiệp, tức là các việc, các hệ quả tạo ra từ kiếp trước.
Tất cả những quan niệm này trộn lẫn với nhau, tạo thành những « lô gíc » tâm linh của người Việt, và nhiều lô gíc này trở thành truyền thống văn hoá, ví dụ việc thờ tổ tiên. Bởi nếu không có cái đế lô gíc tâm linh là tổ tiên tồn tại, có tác dụng giao thoa với ta, thì thờ làm gì. Và quả thật có nhiều người theo đạo khác không thờ, ví dụ Thiên chúa, Hồi giáo..(ở VN thực ra đồng bào theo thiên chúa vẫn thờ tổ tiên, vì sau đại hội giáo hội Vatican II, vào giữa những năm 60, Cơ đốc giáo đã chấp nhận điều này, nhưng người nào cực đoan, họ vẫn có thể không thờ, mà vẫn không sai với tín ngưỡng của họ)
Tương tự như vậy với các tập tục như thờ Mẫu, thờ Thành Hoàng.
Ở VN, từ thế kỷ XIX đến nay, đã có những hệ tư tưởng khác muốn « làm trong sạch, chống mê tin », với những ý đồ và nội dung khác nhau. Tôi kể ra đây.
1- Thiên chúa giáo. Với Thiên chúa giáo vào thế kỷ XIX, thì tất cả các tập tục này lẫn phật giáo, nho giáo đều là hủ tục. Nhưng mặc dù thế, Thiên chúa giáo ở VN không trở thành được tôn giáo số đông như thực dân Tây ban Nha làm ở châu Mỹ la tinh. Cách đây không lâu, khi về VN chơi, tôi có ghé qua thăm nhà thờ Đá Phát Diệm, và nhân đó vào tiệm sách (rất to) ở đây để tìm kiếm ít sách về Thiên chúa, do người Việt viết. Sách rất là phong phú. Tôi thấy cô bán hàng đang xem một cái video có lẽ youtube, trong đó một linh mục thiên chúa đang khuyên con chiên không nên sa vào các tập tục thờ cúng mà tôi nói ở trên, vì nó là « mê tín ».
2- Phật giáo cải cách. Đây là nói tới phong trào phật giáo cải cách bắt đầu từ trong thời thuộc địa, như một phản ứng của văn hoá bản địa với Thiên chúa giáo. Và thực dân Pháp cũng không ngăn cản, vì họ muốn dùng nó như đối trọng với Nho giáo, vì từ trong Nho giáo mà xuất phát các phong trào cách mạng. Tất nhiên Pháp cũng khuyến khích các loại « Nho đểu » mà Ngô Đình Diệm là một điển hình. Nếu Phật giáo cải cách có tác dụng tiến bộ, đưa Phật giáo thoát khỏi vị thế một tín ngưỡng dân gian, mang trở lại cái đế triết học, tu tập, nhân văn.. thì nó cũng bị vướng vào vấn đề giáo điều, muốn một thứ phật giáo « thuần tuý phật giáo, duy lý ». Một dạng phiên bản ngược của Thiên chúa giáo tưởng tượng (là đối thủ nó cạnh tranh). Trong trường hợp này, thì nó còn gì là văn hoá VN. Tại sao tôi lại nói là « thiên chúa giáo tưởng tượng », bởi vì nếu xét Thiên chúa chỉ qua sách vở thần học của nó, giống như các nhà sư cải cách đọc kinh lý thuyết mà không xét đoán tín ngưỡng, thì cũng như vây. Trong thực tế Thiên chúa cũng có mê tin của nó.
3- Chính quyền cách mạng. Điều này thì nhiều người biết, nhất là ai ở miền Bắc và nó cũng được lề trái thổi lên, coi như một dạng « sai lầm của cách mạng ». Tôi thì không nghĩ như vậy. Với tôi lúc đó (tức là thời điểm kháng chiến) không làm thế không được, vì phải thống nhất, quyết tâm trước kẻ thù mạnh hơn nhiều lần về sức mạnh vật chất. Cũng phải nói thêm rằng, mặc dù coi « tôn giáo là thuộc phiện », nhưng công trình tôn giáo lớn vẫn được bảo dưỡng, như một kỳ tích văn hoá. Nhưng ở đây nó lại đẻ ra một điều là, nếu bảo vệ như những di tích văn hoá, không còn tín ngưỡng, thì chúng trở thành bảo tàng tất cả, không còn sống động, không còn là cuộc đời. Chính vì tôi vừa là người theo chủ nghĩa Mác-Lê nin, đồng thời là phật tử, cũng là người yêu văn hoá, đặc biệt là văn hoá truyền thống, thì điều này làm tôi rất suy nghĩ. Điều đó cũng khiến tôi có một nhận thức tương đối mềm, rộng rãi với các khái niệm mê tín.
Cả ba lực lượng này đã đều « chống mê tín » vì những lý do khác nhau. Trong nhiều trường hợp, ví dụ như với Thiên chúa, hay phật giáo cải cách.. thì là một dạng thay mê tín này bằng mê tín khác.
Trong vấn đề của câu chuyện « chùa Vàng » mang lên, sai phạm với tôi, chủ yếu là hình thức, và sự sử dụng những lô gíc tâm linh này, cũng như cách lý giải nó. Và ở đây nó có sự đan xen lẫn nhau.

- Khi người ta nói người âm đòi người dương nộp tiền, thì đây không phải là phật giáo. Mà là tín ngưỡng quan niệm hai thế giới của người Việt. Nó cùng lô gíc với lên đồng trong đạo Mẫu. Người âm không thể dùng đồ vật của người dương, mà chỉ có thể dùng đồ vật biểu tượng thôi, vì thế mới có hàng mã, người rơm. Nếu người ta muốn nhân việc đó công quả cho chùa, thì còn có thể chấp nhận, nhưng phải nói rõ ràng, và không thể dùng hình thức đe doạ tâm linh dựa vào niềm tin của người ta để lừa bịp.

- Việc phán xét câu chuyện nghiệp trong vụ án hình sự ở Điện Biên, nếu có thật thì chuyện này không thể chấp nhận được, và toà án tỉnh Quảng Ninh có thể truy tố người này với tội trạng thoá mạ người khác. Đây không phải là câu chuyện về nghiệp,vì ở đây nó có điều bí ẩn thế này. Nghiệp báo là một nhận thức tâm lý trong phật giáo, nó đúng với phật giáo nguồn Ấn độ nhiều hơn là Phật giáo Đông Á (tức là nguồn gốc nguyên thuỷ, giống như phật giáo ở Thái Lan, Miến Điện, Lào, Cam pu chia). Trong phật giáo Đông Á tất cả các tông, từ Tịnh độ, Pháp Hoa, tới Thiền.. điều này ít được quan tâm. Chỉ có phật giáo Ấn độ, với truyền thống văn hoá của họ rất trìu tượng, thì các khái niệm kiếp nghiệp dai dẳng mới quan trọng. Với phật giáo Đông Á, vốn quan niệm tu trong một đời, tu đời là một, hay khi chết lên cõi tịnh độ, thì vấn đề nghiệp không phải là lớn. Vấn đề nghiệp trong lịch sử phật giáo VN chỉ có vai trò quan trọng tới đời nhà Lý. Nhưng từ đời nhà Trần về sau, với Thiền,với Nho giáo, thì điều này chìm dần đi. Đây cũng là đặc điểm văn hoá Phật giáo VN. Nếu người nhà nạn nhân mà suy nghĩ như thế tức là quan niệm « nghiệp của em nó vậy », thì đây có thể là một sức mạnh tâm lý rất lớn, để họ vượt qua đau đớn vừa trải qua. Và điều này không thể thay thế một vụ sử án nghiêm túc. Nó có thể có tác dụng, vì ngay cả khi vụ án được sử công minh nhất, nó cũng không thay thế được cảm nhận đau đớn, tình cảm, vì lĩnh vực này là tâm lý, tâm linh của người thân không có một công lý đời thường nào an ủi được hoàn toàn. Ngược lại nếu là người ngoài dùng nó như một sự phán sử dửng dưng thì lại không được. Từ bi hỉ xả của phật tử để đâu ?

- Trong tất cả các tôn giáo, bất kỳ tôn giáo nào, nó cũng có những món « thuốc phiện » kiểu này. Ví dụ trong thiên chúa giáo. Khi gặp những điều khó khăn, thậm chí bị trừng phạt vì vi phạm pháp luật rõ ràng, con chiên vẫn có thể nghĩ họ đang bị « chúa thử thách niềm tin ». Hồi giáo thì đã là ngoại đạo tức là sai. Có điều dùng nó thế nào, lúc nào, có đúng nhân duyên điều kiện không thì phải tính. Chứ không thể nói linh tinh.
Phó Thường Nhân
Sư trụ trì chùa Ba Vàng đã công nhận sự việc là sai. Nhưng tiện đây tôi cũng nói thêm một chút về quan niệm NGHIỆP, vì ở một chủ đề khác, khi nói tới nhà Sư Thích Thanh Từ, tôi có nói tới « Tu là chuyển nghiệp » của thầy Thích Thanh Từ. Đồng thời ở chủ đề này, tôi lại nói trong phật giáo đại thừa Đông Á (Nhật, TQ, VN, Triều tiên, Hàn quốc), tức là những nước nằm trong văn minh Nho giáo, khái niệm naỳ không được coi trọng. Như vậy là mâu thuẫn nhau. Vì nếu nó đã không quan trọng, thì sao lại coi tu là chuyển nghiệp được. Nguyên nhân là phải hiểu nghiệp là thế nào, thế nào là chuyển nghiệp, chuyển nghiệp có thể làm bằng mua bán không ?

Nghiệp là hệ quả của các việc làm hiện tại và quá khứ, theo lô gíc nhân quả, nhân nào quả ấy. Điều này thực ra rất là khoa học. Nhưng nó lại trở thành tâm linh, khi người ta đặt nhân và quả không cùng trong một đời người, mà trải nó qua nhiều kiếp khác nhau. Người ta có thể nhận quả , của những việc làm từ kiếp trước. Và từ đây nó mở ra một cái cửa tâm lý, tâm linh rất lớn, vì không được chứng kiến nhân (nguyên nhân) ra sao, người ta chỉ có thể suy ngược từ quả. Nhưng đây chỉ là một sự suy đoán. Phật giáo nguyên thuỷ có những luận thuyết rất dài dòng về vấn đề này, và chia nó ra nhất nhiều ca khác nhau, theo đúng truyền thống văn hoá Ấn độ, chi li từng chi tiết, giống như kiểu thống kê kế toán.

Đối với NGHIỆP, người ta chỉ có thể có hai thái độ. 1 chấp nhận nghiệp, 2 có ứng sử để giảm nghiệp. Với điều 1 thì chấp nhận nghiệp bao hàm cả sám hối, với điều 2 thì giảm nghiệp, không có nghĩa là không còn nghiệp, xoá được nghiệp cũ, mà là không tạo ra nghiệp mới. Với phật giáo nguyên thuỷ, do quan niệm niết bàn là hết nghiệp, người ta thường ví đời người như chiếc đèn dầu, mà nghiệp là dầu trong bình, ngọn lửa là hành động để tiêu nghiệp. Ngọn đèn cháy hết dầu, giống như người tu hết nghiệp thì là vào Niết bàn, được giải thoát. Trong phật giáo đại thừa thì quan niệm này không có. Vì với người tu đại thừa, thì đèn hết dầu chỉ là hư vô, thực ra là « hầm sâu vô minh », không phải là Niết bàn. Niết bàn ở trong TÂM,ngộ được TÂM mà niết bàn. Chính vì thế nghiệp quan trọng với phật giáo Nguyên Thuỷ, nhưng ít quan trọng với Đại thừa, nhưng với Đại thừa, thì NGHIỆP lại là động lực hành động để tu, để phá vô minh. Và từ việc này đạt tới TÂM. Tôi sẽ lấy dẫn chứng bằng giải công án cho mọi người thấy. Nhưng ở trong cả hai, Đại thừa hay phật giáo Nguyên thuỷ, để tiêu nghiệp thì phải sám hối và hành động đạo đức (theo đạo đức phật giáo), chứ không thể mua. Nó không phải là thương mại. Tất nhiên nó có một cái cửa. Đó là khi người ta đóng góp công quả để phát triển, hoàng hoá phật giáo đúng đắn, ví dụ như dựng chùa, thì có thể coi là hành động đúng. Nhưng không bao giờ người ta có thể mua nghiệp được.

Ở các tôn giáo khác, vì họ là niềm tin nhị nguyên (tức là có chúa và có ta), thì cái khái niệm nghiệp này được coi là « sự an bài của chúa » (hay A la nếu là đạo Hồi).

Vào thập niên 80,90, ở VN có rất nhiều người đi xuất khẩu lao động I rắc, lúc đó I rắc còn là chế độ theo hướng XHCN dân tộc Ả rập, trước khi bị Mỹ phá tanh bành như bây giờ. Mặc dù thế dân sở tại rất sùng đạo. Họ theo đạo Hồi. Và không ít người Vn sang lao đông, rất ngạc nhiên là tại sao chó bị xe cán chết giữa đường mà người ta để mặc, hay người bị tai nạn, mà dân đi qua dửng dưng. Tại sao ? bởi chính cái quan niệm « an bài của A la » này. Họ quan niệm những việc đó là do chúa đã an bài rồi, nếu cứu vớt thì sẽ là ngược ý chúa.

Ở các nước theo đạo phật nguyên thuỷ cũng có tình trạng này. Đó là việc gì xẩy ra thì được coi là nghiệp. Giầu là nghiệp nghèo là nghiệp, từ đó cũng có tình trạng dửng dưng với hoàn cảnh, và từ đó không có thái độ « khuyến thiện trừng ác », mà lại trở thành « phù thịnh mà không phù suy ». Thấy người giầu thì bám vào, thấy người nghèo thì bỏ đi. Bất chấp Thịnh do đâu mà ra. Thái độ này ngược với thái độ của phật giáo đại thừa. Với phật giáo đại thừa có thiện có ác. Thiện mà suy thì vẫn là thiện, là vương đạo, được tôn sùng. Ác mà thịnh thì vẫn là ác là, bá đạo, bị phỉ nhổ. Không thể có chuyện lẫn lộn.

Chính vì thế mà phật giáo Đại Thừa, còn được gọi là Bồ Tát đạo, trong 6 ba la mật, tức là các điều người phật tử phải theo, thì ngay điều một đã là TỪ BI (tiếng phạn là karuna), tức là cứu người, nói nôm na. 6 ba la mật bao gồm : từ bi, trì giới, nhẫn nại, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Các môn phái đại thừa, tuỳ theo họ nhấn mạnh điều gì Giới hay Định, hay Tuệ mà khác nhau, nhưng cái từ bi này luôn luôn có. Điều từ bi này chính là một trong những nguyên tắc ứng sử để khỏi tạo nghiệp mới, giảm nghiệp cũ.

Nội dung của từ bi, vì tôi theo Thiền Tào động là chủ yếu(vì tôi không bỏ các môn phái khác), nên sẽ đưa kiến giải của thiền sư Đạo Nguyên (Dogen) nói về điều này. Nó bao gổm bốn điều

1- Bố thí. Bố thí đây không phải chỉ là vật chất tiền bạc, mà một lời khuyên đúng, một lý giải phật giáo đúng, cũng được coi là bố thí. Trong nhiều trường hợp, nếu bố thí tiền bạc không đúng, công quả không đúng cũng không được gọi là bố thí. Vì nội dung cuối cùng của nó là tiến bộ về phật pháp.
2- Lời nói chân thành. Đây là phần trùng với một bộ phận của thập thiện, như không nói bịa đặt, không nói dối, không tán láo …
3- Đối sử với mọi người như nhau, không phân biệt sang hèn hay quyền quý. Bởi ai cũng có phật tính, bình đẳng như nhau. Điều này là điều khác cơ bản với đạo đức Nho giáo, vốn phân chia theo từng thứ lớp tuỳ theo vị trí : cha mẹ, bạn bè, cấp trên, cấp dưới..
4- Từ bi, có lòng cảm thông, bởi vì không có cái tôi (vô ngã). Điều này cũng khác với tình thương trong thiên chúa giáo chẳng hạn có phân biệt người và ta.
Thiền sư Đạo nguyên nói như vậy, nhưng trong tiếng việt, thì điều đầu tiên trong 6 ba la mật này được gọi là Từ, Bi, Hỉ, Xả cũng là 4 điều. Ta có thể thấy Xả đúng với điều 1, Từ điều 4, Hỉ là điều 3 , còn điều 2 là Bi hay sao ?? cái này thì tôi không rõ, hiện tại vẫn có thể coi là « công án » (hiểu theo nghĩa rộng là câu hỏi chưa được trả lời với tôi).

Như vậy thái độ của một phật tử khi đối xử bên ngoài, đánh giá người khác, có thể tạm gọi là nhân sinh quan chính là 4 điều này. Còn Nghiệp thì của ai người ấy biết. Thậm chí người ta cũng không thể biết. Nó là một phép thuốc tâm linh, tâm lý « ta tự đối diện với chính mình » để sám hối, chứ không thể dùng để phán xét người khác. Nhưng người ta có thể hiểu rằng, nếu là phật tử mà hành động đúng theo 6 ba la mật, thì đó là cách tốt nhất để giải nghiệp. Bất kể là nghiệp gì.
Tiếp theo tôi sẽ nói Thiền tông nói tới NGHIỆP như thế nào
(còn tiếp)
Phó Thường Nhân
Hôm nay trên báo chí tiếp tục có nhiều bài viết về chùa này. Có nhiều thông tin thú vị, nhưng cũng nên hiểu là hiện nay câu chuyện này trở thành một câu chuyện « đánh hội đồng », đây là điều rất bình thường trong một thị trường báo chí, vì thế khi đọc chúng người ta phải có tâm lý, nhận thức « trừ bì » đi và đánh giá khách quan.

Trước khi nói tới Thiền tông quan niệm thế nào về nghiệp. Tôi phải chú giải mấy điều ở trên khi nói về các tôn giáo khác hay về phật giáo nguyên thuỷ. Khi tôi nói về các tôn giáo khác, tôi muốn nói ở đây không có tôn giáo nào « khoa học » hơn tôn giáo nào, để tránh vấn đề chụp mũ cho đạo Phật. Trong thực tế, nếu xét hoàn toàn đơn thuần về giáo lý, thì đạo phật thực ra là khoa học nhất. Nhưng tất cả các tôn giáo, khi đưa vào hiện thực,trong thực tế cuộc sống chúng chiếm lĩnh phần tâm lý, tâm linh.. của đời sống là những phần khoa học khó với tới, mà nếu có với tới thì có khi không có tác dụng. Ví dụ, với tin lành, đặc biệt là các phong trào « reborne » (tức là sống lại ở Mỹ, vì trong những phong trào này, bản thân người đã theo thiên chúa, đã được rửa tội, vẫn phải « rửa lại » vì thế nó mới là reborn, mỗi lần rửa là một lần tái sinh nhập đạo), thì các chức sắc của họ vẫn phủ nhận tuổi của quả đất mà khoa học đã chứng minh là có hàng triệu năm có chứng cớ đường hoàng, để khẳng định quả đất chỉ có 5000 năm, theo như họ suy ra từ kinh thánh. Điều khó tin như thế mà họ vẫn tin. Như vậy giữa khoa học và tâm linh có một khoảng cách. Nhưng người ta không thể bao biện lấy tâm linh phủ lên khoa học. Với tôi khoa học là điều kiện cần, tâm linh là điều kiện đủ. Tâm linh nói tới những vấn đề khoa học không giải quyết, nhưng không chống lại khoa học.

Khi tôi nói tới phật giáo nguyên thuỷ, nhưng yếu điểm của nó trong vấn quan niệm nghiệp, cũng chính là để cảnh báo kiểu phật giáo cải cách có từ thời thuộc địa, nhằm biến phật giáo thành một loại tôn giáo integrisme (giống như kiểu hồi giáo cực đoan, thiên chúa cực đoan..), tạo dựng lại phật giáo theo hình ảnh « đối thủ cạnh tranh » của nó là Thiên chúa. Theo đó, với tư duy « về nguồn », họ sẽ tìm cách áp dụng những nhận thức của phật giáo nguyên thuỷ mà phật giáo Đại thừa đã làm mềm đi trong quá trình phát triển (như dẫn chứng tôi nói ở trên : Từ bi làm mềm cái Nghiệp trong nhân sinh quan phật giáo), nhân sinh quan phật giáo Đại thừa theo Bồ Tát đạo, lấy cứu người làm chính, thay vì chỉ tu tập cá nhân (mô hình La hán) trong phật giáo nguyên thuỷ. Trong thực tế thì cần cả hai, trong chùa Đại thừa vẫn có tượng 18 vị La hán để nhắc nhở phạt tử tu tập cá nhân, nhưng Tu tập cá nhân để có đức cứu người, chứ không phải để cho tự mình lên niết bản. Và tất nhiên khi tu tập cá nhân không ổn thì không thể cứu người. Nhưng tu tập cá nhân không thì cũng không ổn. Không kể có những phần trìu tượng khác trong nhận thức triết học về TÂM về KHÔNG, khiến Đại thừa có nhiều chân trời mới hơn. Ngược lại yếu điểm của nó là đạo đức học (đây chính là phần tu tập cá nhân), vì nó dễ sa vào hư vô, trở thành lung tung đạo, là cái cửa biện minh cho các hành động sa đoạ hay mê tín.
(còn tiếp)
Phó Thường Nhân
Để tìm hiểu trong Thiền Tông quan niệm thế nào về nghiệp. Tốt nhất là giải mấy công án. Thiền Tào động mà tôi theo thực ra không lấy việc giải công án để hiển trí tuệ giác ngộ. Vì với phép « chỉ quán đả toạ », « thân tâm nhất như » mà tôi đã từng giới thiệu, thì người ta quan niệm « ngồi thiền là ngộ », nhưng ta vẫn có thể dùng công án như giải đáp cho các quy tắc nhận thức tu tập. Thiền đời nhà Trần cũng dùng phương pháp, đặc biệt là vua Trần Thái Tông. Trong quyển « Khoá hư lục » của vua, có phần « Niêm, tụng, niệm », mà ở đây nhà vua dung công án nếu lên những chủ điểm nhận thức trí huệ trong phật giáo để bình và rút ra nhận thức, chỉ có điều nó được viết dưới dạng ẩn dụ, biểu tượng, ví dụ.. chứ không viết thẳng ra như ta bây giờ.
Ta có thể lấy công án của tổ Bồ đề đạt ma truyền thừa cho tổ thứ hai là Huệ Khả. Tôi nói tóm tắt ở đây cái công án. Còn nguyên bản của nó thì các bác có thể tìm trên mạng, không khó. Theo công án này, thì thầy Huệ Khả tới xin tổ Bồ đề đạt ma làm đệ tử học Thiền . Nhưng tổ Bồ đề đạt ma đóng cửa không mở, để thầy Huệ Khả đứng ngoài trời tuyết hai ngày. Đến ngày cuối, Thầy Huệ Khả tự lấy dao chặt một tay « cúng dường » để chứng tỏ quyết tâm. Đến lúc này Tổ Bồ đề đạt ma mới nhận. Câu đầu tiên Thầy Huệ Khả tham vấn đó là « xin thầy làm cho con an tâm ». Tổ trả lời. « Tâm của ngươi đâu, mang ra đây ta an cho ». Nghe đến đây Thầy Huệ khả tức ngộ. Công án này còn có đoạn sau nữa, khi Tổ Bồ đề đạt ma ấn chứng cho thầy Huệ Khả, và ấn chứng là bằng kinh Lăng Già, chứ không phải bằng kinh Kim cương như từ Lục tổ Huệ Năng về sau.
Công án nói như vậy, nhưng sự việc thực ra có những tình tiết sau. Khi Thầy Huệ Khả tới đòi làm đệ tự Tổ Bồ đề đạt ma, thầy mang tội giết người, sát sinh bị truy đuổi. Như vậy khả năng thầy tới xin học có thể còn là sự tá túc lẩn tránh nữa. Tổ Bồ đề đạt ma lúc đó, khác với bây giờ Thiền tông vinh danh tổ, vào lúc tổ tới Trung quốc, tổ cũng bị chư tăng ở đây kỳ thị, xua đuổi, vì cách tu của tổ động tới quyền lợi của chư tăng phật giáo TQ lúc bấy giờ, vì phật giáo trọng lễ nghi, lễ lạt hơn, « thương mại » hơn. Theo lịch sử, thì tổ cũng bị đầu độc chết. Như vậy lúc thầy Huệ Khả tới xin học, thì tổ đã bị đặt trước một tình trạng rất khó xử, vì thầy Huệ Khả không chỉ là một người xin học thiền bình thường, mà còn là một tội phạm. Tội phạm thật sự,mang nghiệp, chứ không phải là nghiệp tâm linh từ kiếp nào để lại, dự đoán mông lung. Nếu xét tất cả sự việc, thì ta sẽ hiểu hơn ý nghĩa thầy Huệ Khả chặt tay. Vì đấy chính là cách thầy sám hối tội lỗi của mình. Tay giết người, tay bị chặt. Và chỉ sau đó,khi nghiệp đã trả, tổ mới nhận thầy Huệ Khả. Nhưng mặc dù đã « tự trả nghiệp » như vậy, thầy Huệ Khả cũng không an tâm. Và đây là nội dung tuyệt vời của công án. Đó là từ cái tâm tâm lý hoảng loạn của thầy Huệ Khả, tổ đã nâng cấp nó lên chỉ ra cái TÂM thật sự, vô thuỷ vô chung mà chúng sinh nào cũng có, nhưng bị che phủ đi vì tham,sân, si.. cảm nhận cái TÂM ấy là NGỘ.
Như vậy ta có thể nhận thấy, cái điều mà tôi tóm tắt ở trên khi nói về phật giáo Đại thừa. Có nghiệp thì phải chịu nghiệp, nhưng không thể mua được nghiệp. Nhưng nghiệp có thể là động lực cực lớn để người ta tu tập ngộ đạo. Như trường hợp thầy Huệ Khả là tổ thứ hai của Thiền Tông.
(còn tiếp)
Phó Thường Nhân
« Mỗi ngày Sư thăng tòa thường có một cụ già theo chúng nghe pháp.
Một hôm chúng tan rồi mà cụ không đi. Sư mới hỏi :
"Người đứng đó là ai vậy?".
Cụ già đáp :
"Tôi chẳng phải thân người. Vào đời Phật Ca Diếp trong quá khứ tôi đã từng ở núi nầy. Có người tham học hỏi tôi : "Người đại tu hành có còn lọt vào nhân quả không?". Tôi đáp : "Bất lạc nhân quả" (chẳng lọt vào nhân quả), nên bị đọa làm thân chồn năm trăm kiếp. Nay xin Hòa Thượng cho tôi một chuyển ngữ để tôi được giải thoát thân chồn.
Sư nói :
"Người hỏi đi?".
Cụ già bèn hỏi :
"Người đại tu hành có còn lọt vào nhân quả không?".
Sư nói :
"Bất muội nhân quả" (nhân quả rõ ràng).
Cụ già ngay đó đại ngộ, đảnh lễ rằng :
"Tôi đã thoát thân chồn, nay xác ở sau núi, xin Sư y theo lệ tăng mất mà thiêu cho".
Sư bảo Duy Na đánh chuông báo cho đại chúng biết thọ trai xong xin mời tất cả đi đưa đám tăng chết.
Đại chúng không rõ ra sao. Sư dẫn chúng đến hang đá phía sau núi lấy gậy khều ra một con chồn chết rồi y theo thường lệ mà hỏa táng. Như một ông tăng viên tịch.”

Ở trên tôi chép nguyên lại một công án của Bách trượng Hoài hải. Bởi cái công án này khó tóm tắt, mà nếu tóm tắt thì nó mất đi cái vị của nó. Đây cũng là một công án đặc biệt, vì nó nói tới « nhân quả » trong Thiền tông, tức là nói tới vấn đề nghiệp mà ta đang bàn loạn ở đây.
Ý nó muốn nói thế này. Ngay cả khi « đại tu hành » rồi, tức là ta có thể tạm coi như ngộ, thì nhân quả vẫn còn. Vì thế cho nên cụ già (vốn là một đại đức) vì nhận thức đã là đại đức thì không còn bị nhân quả chi phối tức là sai, và phải đoạ « 500 năm kiếp con chồn ». Câu trả lời của Bách Trượng Hoài Hải rất là thú vị, như là chơi chữ. Thiền sư nói « nhân quả rõ ràng », nó rõ ràng ở đây là ứng luôn vào kiếp ông già, nó cũng rõ ràng ở đây là trong cuộc đời thường luôn có nhân quả ngay với cả người đã ngộ. Nói một cách khác, trong thiền đã ngộ chỉ là bước đầu, như người sinh viên học đại học có bằng kỹ sư. Nhưng sau đó có là kỹ sư thật hay không là do sử dụng đúng đắn cái kiến thức mà cái bằng đó mang lại. chứ không phải vì cái bằng. Trong việc tu tập phật giáo cũng vậy, dù bất cứ ở trình độ nào, ngộ đến đâu, có chứng hay không, ..thì điều quyết định là ứng sử sau đó có đúng như thế không, nếu đúng thì không tạo nghiệp, còn nếu không thì vẫn có nghiệp như thường.

Chính vì vậy mà vào thế kỷ XV, đời nhà Minh, Thiền Sư Tông Mật, là một thiền sư xuất phát điểm là nhà Nho (giống như Thiền Sư Hương Hải ở VN), đã nêu ra chủ thuyết « đốn Ngộ, tiệm tu ». Tức là Ngộ đạo phật thì có thể đột biến Ngộ được, nhưng dùng được nó ứng dụng được nó thì lại là Tu dần dần, tức là chuyển nghiệp. Chuyển nghiệp bằng TU, chứ không phải bằng MUA. Và đây cũng là điều tôi nói tới khi nói « TÂM PHẬT, THÂN NHO ». Trong 6 ba la mật của phật giáo Đại thừa, thì đã có hai điều nói tới thái độ tu rồi, nhưng người ta ít để tới đó là : nhẫn nại, và tinh tấn(tức là luôn cố gắng). Và chính nhẫn nại và tinh tấn mà lại hiểu đúng ( Thiền định, trí huệ) cộng với (Từ Bi Trì giới) là cách giảm nghiệp đúng đắn nhất. Nếu muốn xét đoán ai trong tu tập phật giáo thế nào, thì bám vào 6 điều này sẽ chính xác nhất.
Phó Thường Nhân
Tôi « giải » tiếp một cái công án khác, cũng của tổ Bồ đề đạt ma, coi như là kết thúc quan niệm của Thiền về công quả. Đó là việc Tổ Đạt Ma tham vấn với Vua Lương Võ Đế. Công án này thường được coi là nói lên khí phách của Thiền Tông. Vì khi vua Võ Đế hỏi Tổ. « Trẫm xây dựng rất nhiều chùa chiền, ủng hộ chư tăng vậy có được công đức không ». Tổ trả lời « Không có công đức nào cả ». Tiếp đó vua lại hỏi « Người biết ta là ai ». Tổ trừng trừng nhìn Vua không nói gì cả. Một cái version khác thì nói. Vua hỏi « tại sao lại thế ». Thì tổ trả lời « phải cắt đứt các trói buộc ».
Với cái công án này, nhiều người nghĩ là làm công đức không mang lại công đức. Thực ra hiểu thế là sai. Vấn đề ở đây là vấn đề TÂM, tức là làm công đức với cái TÂM như thế nào. Nếu làm công đức với TÂM KHÔNG, tức là không kỳ vọng, không mục đích..thì làm công đức như thế sẽ mang lại công đức, làm chuyển nghiệp, tức là tu. Ngược lại kỳ vọng vào nó, như Vua đã hỏi ở trên, thì điều đó có nghĩa là Vua càng làm công đức, thì cái tôi của Vua càng lớn lên. Vì Vua làm có mục đích, đó là để có công đức, vị kỷ. Chính vì thế mới có cái câu thứ 2, Vua hỏi « người biết ta là ai » (vì hỏi thế, đã chứng tỏ cái ngã của vua rất lớn). Cái version thứ hai, Tổ nói « phải cắt đứt trói buộc », thực ra đã là giải cái công án này rồi, và thế thì không còn là công án nữa. Nhưng nếu chấp nhận nó thì có thể thấy, tổ đã thấy cái mục đích của vua, cái tôi của Vua như những thứ dây trói tạo nghiệp, khiến làm công đức mà không là công đức. Cũng chính vì thế mà Vua Trần Nhân Tông, tổ của thiền Trúc lâm, có bài kệ dài nói về việc cắt đứt nhân duyên, mà vua ví như là dây bìm bìm, dây sắn.. rất thú vị.
Cũng phải nói thêm là ở trên tôi có nói là đây là quan niệm của Thiền Tông, vì Thiền tông vốn trọng « trí huệ » trong phật học. Có những tông phái khác trọng làm công quả hơn. Ví dụ Tịnh độ Tông. Nhưng ở đây, vì có niềm tin vào Phật A di đà. Buộc tâm của mình bằng lòng tin vào Phật A di đà, nên cũng không có NGÃ. Nói sơ sơ vậy, lúc nào tôi có dịp, sẽ trình bầy các tông phái khác Tịnh độ, Pháp Hoa, Mật tông mà tôi chiêm nghiệp sau.
(còn tiếp)
Phó Thường Nhân
Tiếp đây, nhân dịp có câu chuyện « chùa Ba vàng » này. Tôi sẽ nói tới cái vế bí ẩn của Tâm linh VN, đó là vấn đề « HỒN ». Và từ đó xem các tôn giáo phổ quát ở VN như đạo Phật, đạo Nho đã làm thế nào với vấn đề này. Từ đó trở lại câu chuyện chùa Ba Vàng « gọi vong » tôi đánh giá ra sao ? từ đó tôi cũng nói quan niệm của tôi về Phật giáo ?
Vì tôi không có nhiều thời gian, nên có thể sẽ viết lâu, vì thế tôi nói tóm tắt quan niệm của tôi về « chùa Vàng » ở đây cho những ai « sốt ruột ». Với tôi, chùa Ba Vàng có sai phạm, vì đã khai thác không đúng vấn đề tâm linh dân gian này. Nhưng con đường đi không sai. Với tôi. Với việc có các chùa như Bái Đính, Ngôi chùa mới ở Hà Nam mà sẽ tổ chức Phật Đản 2019, rồi chùa Ba Vàng…Phật giáo VN đã chuyển qua một giai đoạn mới mà tôi đặt tên là Phật giáo VN 4.0, là phật giáo của tương lai, phật giáo thế kỷ XXI, phật giáo trong kinh tế thị trường. Ta có thể chia lịch sử Phật giáo VN ra nhiều giai đoạn. Phật giáo VN 1.0 là từ khởi thuỷ lúc VN còn trong thời Bắc Thuộc tới hết đời nhà Trần (khoảng từ thế kỷ IV đến thế kỷ XV). Phật giáo VN 2.0 là từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Phật giáo VN 3.0 là giai đoạn phong trào cải cách Phật giáo từ những năm 20 của thế kỷ XX cho tới năm 1986, lúc đổi mới mở cửa. Và bây giờ là phật giáo 4.0.
Tôi nói những điều này không phải vì tôi chỉ là phật tử, mà tôi còn là một người nghiên cứu văn hoá, đặc biệt là văn hoá Tâm linh, những khía cạnh triết học của nó, không chỉ riêng VN mà toàn thế giới. Tôi cũng là người theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, là một chủ nghĩa rất chú trọng tới ý nghĩa xã hội của tôn giáo, cũng như cái đế kinh tế của nó. Có thực mới vực được đạo. Ông bà ta vẫn nói thế.Tất nhiên tôi chỉ là người nghiên cứu nghiệp dư, không thể bằng các ông tiến sĩ trong học viện, nhưng cũng chắc chắn là tôi có thể nhìn thấy những điều mà trong cơn bão báo chí « đánh hội đồng », người ta không để ý.
Trong cách tiếp cận này, tôi sẽ sử dụng công cụ phân tích quen thuộc của tôi, đó là công cụ « duy vật lịch sử », để xem trong thời gian và không gian, từ khởi thuỷ tới nay, phật giáo Vn đã phát triển như thế nào, quan hệ tâm linh của nó với tâm linh dân gian ra sao, nó sống thế nào, có ý nghĩa xã hội gì ..
Tôi cũng sử dụng những thông tin về tôn giáo thế giới, như cách kinh doanh tôn giáo ở Mỹ, ở châu Âu, các vấn đề mà nó đặt ra.. từ đó mà xem phật giáo VN phải làm gì để đáp ứng được nhu cầu tâm linh của nhân dân, nhưng lại làm sáng được đạo pháp,giải quyết được những vẫn đề như ở nước ngoài sa vào, chứ không phải chỉ là GATO (ghen ăn tức ở) với nhau, dựa vào một sai lầm có thật, để rồi tự huỷ diệt lẫn nhau. Kiểu nghêu sò đánh nhau, để rồi ngư ông thủ lợi.
Với tôi sai phạm của chùa Vàng phải xử lý. Nhưng không thể xử lý kiểu « Bisounours » (cảm nhận gấu bông), như tôi đã nói đó là kiểu vuốt theo chiều lông chân dư luận, không soi sáng được vấn đề..để rồi đi giật lùi.
(còn tiếp)
Phó Thường Nhân
@NVT,
Với tôi không có khái niệm sư quốc doanh. Nếu nói thế thì trong tất cả lịch sử VN, tất cả các vị tổ đều là sư quốc doanh cả, vì đều gắn với nhà nước VN đương thời. Nói theo lô gíc ấy, thì Vạn Hạnh là sư quốc doanh thời nhà Lý, Huyền quang là tổ quốc doanh đời nhà Trần. Cũng như vậy, người ta không thể bắt dân đi chùa, cái đó là cảm nhận tâm linh của người dân.

Khái niệm sư quốc doanh chỉ là do lề trái đặt ra, vì nó muốn lợi dụng phật giáo, tôn giáo để gây rối. Là một dạng GATO (ghen ăn tức ở). Hiện tại ở nước ngoài vẫn có những chùa « ba sọc », tôi không muốn nói tên ở đây. Tại sao lại thế thì ta có thể tìm hiểu một chút lịch sử hiện đại VN sẽ thấy.
Khi có phong trào chấn hưng phật giáo vào những năm 20 ở VN thời thuộc địa. Như tôi đã nói đây là phản ứng của một bộ phận người Việt với Thiên chúa giáo, vốn được thực dân Pháp ưu đãi, vì những tai sai trung thành nhất với thực dân Pháp là từ đây mà ra. Thực dân Pháp cũng biết là không thể cải đạo người Vn, vì truyền thống văn hoá, cũng như số lượng người. Vào thời điểm đó dân số VN khoảng 30 triệu, tương đương với số dân Pháp ở mẫu quốc, vì thế nó phải chia ra làm 3 nước, với 3 cái tên khác nhau, để tạo ra ba dân tộc. Hiện trạng này ở VN đã bị xoá bỏ, nhưng ở châu Phi chẳng hạn, thì cái biên giới thuộc địa này chính là biên giới quốc gia ngày nay, vì thế đem tới rất nhiều khó khăn cho những nước này. Đối tượng mà thực dân Pháp lo ngại nhất là nhà Nho, vì thế Pháp cũng nhìn với ánh mắt « nhân từ » phong trào chấn hưng phật giáo này.

Khi cách mạng tháng 8, rồi kháng chiến, không phải tất cả các sư sãi đều đi theo kháng chiến, mà một bộ phận ở trong vùng kiểm soát của Pháp (ví dụ ở Đồng bằng Bắc Bộ) vẫn theo Pháp. Hiện tại, tôi vẫn có một quyển « chư kinh nhật tụng » in ở trong vùng Pháp kiểm soát này,vì tôi có tư duy « duy vật lịch sử », cũng như thích sách vở nên sưu tập tìm hiểu, mà trong đó khi giới thiệu hành trạng của Sư trụ trì, người ta có thể thấy ông ta theo Pháp, hay ít nhất không theo cách mạng.

Tất nhiên một phần chính sách của Việt Minh đã tạo ra điều này. Nhưng trong một đất nước có chiến tranh, thì việc này là không tránh khỏi. Nếu không có chính sách của VM như thế, thì kháng chiến không thể thắng lợi. Người ta hiện nay có thể nhìn vào tình hình Vê nê duy ê la mà đánh giá, thấy sự tai hại của vấn đề một đất nước « năm cha ba mẹ » này.

Ở miền Nam, sau năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo, vì trong bộ máy hành chính của nó chủ yếu là người theo thiên chúa giáo. Đây cũng là hệ quả của chính sách tinh vi thời thuộc địa. Với chính sách chia để trị, thực dân Pháp nâng đỡ những người theo Thiên chúa, để bảo vệ hệ thống thống trị của nó. Chính quyền miền Nam cũ thực ra là chính quyền thuộc địa để lại,nên dấu ấn này rất rõ. Mà bản thân Ngô Đình Diệm cùng gia đình ông ta là một ví dụ điển hình. Có điều do nhãn quan chính trị ngu dốt,phong kiến man rợ, mà Ngô Đình Diệm thể hiện điều này ra rõ ràng hơn. Chứ Pháp thì nó còn khôn. Thầy nó phải khôn hơn tớ.

Sau năm 1963, khi chính quyền Ngô Đình Diệm đổ, trong « đệ nhị cộng hoà » của Thiệu, Thiên chúa giáo vẫn được coi là trung thành nhất, nhưng nó cũng mở rộng ra cho Phật giáo. Đây là thời kỳ nhiều ngôi chùa lớn được xây ở TP HCM, ví dụ Việt nam quốc tự, Vĩnh Nghiêm, rồi Đại Học Vạn Hạnh. Phong trào Phật giáo ở trong Nam vùng tạm chiếm này cũng phân rã. Một bộ phận lớn là « trung lập », nhưng cũng có sư làm tuyên uý trong quân đội miền Nam cũ. Cũng thời gian này mà chính quyền miền Nam tạo ra « giáo hội VN thống nhất ». Sau khi thống nhất đất nước, thì nhà nước Vn hiện nay đã sát nhập tất cả các hội đoàn phật giáo toàn quốc để thành lập giáo hội phật giáo VN. Phần lớn những chức sắc quan trọng của giáo hội VN hiện tại xuất thân từ giáo hội phật giáo VN thông nhất ngày trước. Nhưng có một bộ phận thiểu số chống lại. Đặc biệt ở nước ngoài. Điều này cũng dễ hiểu, vì phật tử và nhiều khi cả sư họ vốn có quan hệ chính trị kinh tế chặt chẽ với chính quyền Sài gòn cũ. Và vì thế hiện nay ở nước ngoài vẫn có các chùa « cờ vàng ba sọc đỏ ». Một điêù nữa cũng nên để ý, đó là ở trong các nước phương Tây này, chính quyền của họ tất nhiên là không muốn có các chùa chiền liên quan tới VN, mặc dù về nguyên tắc đó là tự do tôn giáo. Còn các chùa VN này, muốn chính quyền phương Tây để yên, tạo điều kiện, thì nó cũng phải dương cao ngọn cờ « chống cộng » để kiếm sống. Tất nhiên với các loại sư này, thì sư sãi ở VN, đặc biệt ở các chùa có tiếng, sư phải là sư quốc doanh.
Câu chuyện sư quốc Doanh là như thế.
Phó Thường Nhân
Lần đầu tiên, cũng rất lâu rồi, tôi để ý tới tâm linh bản địa của người Việt Nam, là khi tôi đọc ..Kinh Thánh. Tôi đọc kinh thánh không phải vì tôi theo đạo Thiên chúa, mà bởi vì tôi rất thích tìm hiểu lịch sử văn hoá, mà nếu muốn tìm hiểu lịch sử văn hoá phương Tây thì không thể khong tìm hiểu đạo Thiên chúa. Nhưng tôi tìm hiểu đạo Thiên chúa, cũng như một học giả phương Tây sang VN tìm hiểu đạo Phật trong mối tìm hiểu văn hoá VN, chứ không có niềm tin. Tất nhiên trong trường hợp của tôi thì chỉ là hobby tò mò. Tôi có một quyển kính thánh cựu ước, bằng tiếng Pháp. Và một quyển kinh tân ước bằng tiếng Việt, do những người Việt theo đạo tin lành lúc đi biếu kinh thánh cho, trong một cố gắng truyền đạo của họ. Khi đọc chúng, đặc biệt là kinh cựu ước, tôi chợt nhận thấy đó là lịch sử của các tộc người Do thái, nhưng họ huyền thoại hoá, triết học hoá nó để thành một hệ thống ứng xử. Đức chúa trời khởi nguyên chỉ là một ông thần, như là tổ tiên của người Do Thái. Rồi dần dần từ đó mà người ta thổi nó lên thành thượng đế duy nhất.

Nhưng người Do Thái không phải là người duy nhất có lịch sử. Các dân tộc khác cũng có. Vậy nếu ta lấy lịch sử Vn ra thì cũng có thể có được một tôn giáo. Tất nhiên ở đây tôi nói lịch sử theo nghĩa rộng, đó trong đó các tư duy thần thoại tạo dựng thế giới quan, nhân sinh quan cũng nằm trong đó.
Ở thời điểm đó, tôi cũng đọc thuyết cấu trúc của Lewis-Strauss, mà điều tôi rút tỉa ra được, đó là bản thân ngôn ngữ cũng có tính chất triết học trong đó, có thể coi nó như những viên gạch của tư duy. Tư duy của một dân tộc, phụ thuộc vào ngôn ngữ họ có, và vì ngôn ngữ ít biến đổi theo thời gian, nên hệ tư tưởng của một dân tộc, thường được cập nhật mà không thay đổi. Cái không thay đổi của tư duy này được gọi là cấu trúc (structuralisme). Lewis-Strausse còn đi xa hơn nữa, là ông ấy bẻ vụn các thần thoại ra thành các khái niệm ngôn nhữ cấu tạo ta nó. Ví dụ ông ấy nói về « tính triết học » của các mặt nạ người da đỏ (tên quyển sách là « la voie des masques », con đường của các mặt nạ, mà từ con đường ở đây có thể hiểu kiểu châu Á là ĐẠO, đạo của mặt nạ).

Nhưng chuyện này làm tôi nhớ lại các thần thoại VN, như « đẻ đất đẻ nước » của người Mường, Hay Trường ca Đam San (người Ê đê), trường ca Sinh Nhã (hình như cũng của người Ê đê), hay truyện Lạc long quân, Âu cơ, truyện đẻ trăm trứng, mà tôi đọc hồi còn là nhi đồng.

Và tôi cũng nhớ lại kỷ niệm tuổi thơ, khi đó là thời gian kháng chiến chống Mỹ. Mỹ ném bom miền Bắc rất ác liệt, tôi đi sơ tán theo ông bà. Sự ác liệt của chiến tranh cũng không thể thay đổi việc ông bà tôi triệu tập con cháu để tảo mộ, để sang tiểu.. lúc đó tôi cứ nghĩ rằng đó là theo đạo Phật hay đạo Nho. Vì Bà tôi thờ Phật, thờ phật bà quan Âm, còn ông tôi thì lại giáo huấn cho tôi về Nho giáo. Tất nhiên là Nho giáo bình dân, như quan niệm ứng xử của người Việt vào nửa đầu thế kỷ XX, vì ông tôi cũng học tây học chứ không phải là nhà Nho thật sự. Sau này mới biết là chuyện sang cát, sang tiểu ..không có trong phật giáo và cũng không có trong Nho giáo. Nhưng điều này tôi lại tìm thấy khi tìm hiểu văn hoá dân đảo Ma đa gát xơ ca (Madagascar), là một hòn đảo lớn ở Ấn độ dương đối diện với Mô dăm bích. Mặc dù thuộc châu Phi. Dân đảo này đa số có gốc từ ĐNA, và họ cũng có văn hoá trồng lúa như ở ĐNA. Do hòn đảo không tiếp nhận các tôn giáo phổ quát lớn cho tới thế kỷ XVI, trước khi đạo tin lành du nhập văn hoá của họ có thể coi là có mầu sắc ĐNA cổ, và điều đặc biệt là việc sang mộ thường xuyên cho tổ tiên, nhưng họ thay quần áo bằng vải chứ không phải nhặt xương, dùng tiểu sành. Giống như việc sang tiểu đặc trưng ở Đồng bằng Bắc Bộ.
Như vậy trong quan niệm ứng xử của ông bà tôi, có một bộ phận không phật, không nho..cũng không phải là vô thần, mà là một tiếng vọng tâm linh từ nguyên thuỷ, từ cội nguồn của người Việt. Nhưng vì các tôn giáo không chấp nhận nó, hoặc vì nó không khoa học, nên bị đẩy vào lĩnh vực mê tín. Chỉ có điều vì không có một tôn giáo nào, cũng như khoa học ở Vn có thể trả lời hết mọi câu hỏi tâm linh cho người Việt, mà nó tồn tại được.

Từ những câu chuyện trên, mà tôi muốn đi tìm gốc tâm linh VN. Tất nhiên không phải để đi tán phét, mà để sử dụng cho chính mình. Nhân có câu chuyện « vong báo » này thì tôi viết ra đây.
Để tìm hiểu điều này, thì tốt nhất là tìm nó trong các phong tục liên quan tới cuộc đời một con người, đặc biệt là tang lễ, các nghi thức với trẻ con, các tác phẩm nghiên cứu về các tộc người …Ở VN may mắn là có các tác phẩm này khá dồi dào. Đặc biệt là các tác giả nửa đầu thế kỷ XX. Tôi kể ra đây một số tên, như Toàn Ánh (tác giả miền Nam cũ), Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Huyên(ông là bộ trưởng bộ giáo dục đầu tiên), Đinh Gia Khánh (giáo sư đại học tổng hợp Hà nội), ..với người Kinh. Tác giả Nguyễn Tử Chi với người Mường, Đặng Sĩ Hùng, Đặng Nghiêm Vạn những người sưu tập đẻ đất đẻ nước (không phải là bản tóm tắt mà tôi đọc lúc trẻ con, mà là bản nghiêm viết theo lối thơ trường ca), và các bản mo mường như « vườn hoa núi cối ».
Phó Thường Nhân
Là tâm linh dân gian, nó không có lô gíc. Lô gíc ở đây là do tôi trình bầy, để cho nó rõ ràng. Trước hết nói về HỒN. Ta có bao nhiêu hồn ?

Với người Kinh thì mỗi người có 3 hồn. Không những có HỒN mà ta còn có VÍA. Có bẩy vía tất cả. Vía nhiều khi còn được gọi là PHÁCH. Vì thế khi nói tới một người sững sờ không kiểm soát được mình, thì có từ « Kinh hồn, bạt vía », hay « Hồn xiêu phách lạc ». Vía có thể hiểu là như sự điều khiển của hệ thần kinh với chân tay, mắt mũi, để sinh hoạt. Nó cũng nói lên tính chất tinh thần của người đang sống. Người tốt thì Vía nhẹ, người xấu thì vía nặng. Vía cũng có thể là hình bóng phi vật thể lưu lại khi người ta đã đi qua, giống như người hút thuốc lá, đi qua rồi là mùi thuốc lá vẫn còn. Chính vì thế mới có tục « đốt vía » còn tồn tại đến giờ. Buổi sáng, khi đi qua chợ, không mua đồ cho người ta mà còn gây khó khăn, thì nhiều khi người bán đốt giấy, hương đuổi vía xấu.
Còn Ba Hồn thì gồm những gì : nó gồm có Tinh, Khí, Thần. Nhưng những khái niệm này đã được Nho giáo hoá. Các bác đọc truyện TQ , người ta vẫn nói nhìn « Thần Khí » mà biết người đó có bệnh hay không. Khí ở đây có thể coi là phần vật chất nhất của phần Hồn con người. Nhiều khi người ta quan niệm nó là năng lượng, khí ở đây cũng chính là phần tu tập của đạo Lão nếu bác nào « luyện khí » (ví dụ như tập khí công). Vì thế nhiều khi người ta nói « Tinh Thần » để nói tới phần thần kinh, nhận thức, ứng sử. Ngược « Thần Khí » có thể coi như cơ thể vật chất. Mới đây, khi Obama sang VN, lúc thăm ngôi chùa ở TP HCM, ông giáo sư văn hoá giải thích cho Obama, tại sao thắp hương lại ba nén, và nói rằng nó là đại diện cho « Tinh, Khí, Thần » mà tôi nói ở đây. Nhưng tôi không nghĩ thế, mà số 3 ở đây nếu là ĐỀN thì nó là tam tài : Thiên , Địa , Nhân. Nếu là Chùa thì đó là Tam bảo : Phật, Pháp, Tăng..

Vậy khi người ta chết đi thì ra sao. Lúc này 3 cái hồn tan ra. Phần TINH thì lên trời, phần THẦN thì lên bàn thờ tổ tiên, còn phần KHÍ thì ở lại mộ.
Khi người ta vừa mất. Theo tục lệ cổ, thì người con cả phải leo lên mái nhà hô « ba hồn bẩy vía cha (hay mẹ) về nhập quan ». Sau đó thắt nút một cái khăn lụa trắng thành hình hình nhân để lên trên mặt người mất để cho hồn nhập vào khỏi lang thang đi đâu mất. Tương tự như vậy, khi đi đám tang, thì bao giờ cũng có người ngồi cùng để rải vàng mã, mục đích như Mỵ nương rải lông ngỗng để Trọng Thuỷ tìm ra mình, nhưng ở đây là để HỒN, ở đây là phần THẦN có thể tìm được về nhà. Hiện nay ở thành phố, người mất trong bệnh viện, xác ướp lạnh để trong nhà xác, đâu có còn quàn ở nhà. Nhưng tục lệ này vẫn còn. Ngược lại tục thắt khăn lụa thì không còn.

Phần TINH khi lên trời có thể được thờ trong các đền, miếu..nếu người mất là người được xã hội coi là linh thiêng. Phần THẦN thờ ở bàn thờ tổ tiên thì rõ rồi, còn KHÍ thì được thờ ở mả. Chính vì trong đền thờ TINH, nên tôi mới nghĩ là lời ông giáo sư văn hoá nói là sai. Nhưng trong văn hoá dân gian thì nó không có « norme », có chuẩn. Lô gíc của nó tương đối rộng rãi.

Ở VN, cả ba nơi này đều có tính linh thiêng. Ví dụ, mộ thiêng, nên người ta mới xem thuật phong thuỷ để đặt vào vị trí tốt. Người ta cũng có thể thờ các ngôi mộ vô chủ, những người chết kỳ dị. Vì ở trong trường hợp này, thì có vấn đề TINH ,THẦN đi lang thang vô gia cư.

Trong trường hợp người KINH, thì khái niệm HỒN đã được Nho giáo hoá, nhưng khái niệm nhiều hồn nhiều vía này cũng tồn tại ở các tộc người khác ở VN. Tôi đọc về người Mường đã lâu, nên không còn nhớ họ quan niệm bao nhiêu HỒN, nhưng người Mường cũng có khái niệm HỒN, VÍA. Với người Thái, thì họ còn có nhiều vía hơn cả 7, nếu tôi nhớ không nhầm là 81, và cả người Thái lẫn người Mương, Vía được phân bổ trên cơ thể trước ngực sau lưng như một dạng huyệt.

Nếu đã có HỒN, VÍA thì HỒN vía này có thể rời khỏi cơ thể đi lang thang, có thể nhập vào người khác, vì thế mới có chuyện « Hồn Trương Ba, da hàng thịt » Câu chuyện này đã được phật giáo hoá, theo phật giáo dân gian. Và người ta thấy là ở đây, khái niệm HỒN được chấp nhận tự nhiên. Trong khi ở luân lý phật giáo « kinh điển », « giáo điều », không tồn tại khái niệm Hồn mà chỉ có khái niệm NGHIỆP (karma).
(còn tiếp)
Phó Thường Nhân
Có người có thể thắc mắc là tại sao tôi lại nói về HỒN mà câu chuyện ở chùa Ba Vàng là VONG. VONG là hồn của người đã mất. Vong có nghĩa là mất như trong từ « vong quốc » (mất nước), và nếu nói đầy đủ phải gọi là Vong Hồn, nhưng tiếng việt có xu hướng rút gọn từ ngữ thành từ hai âm hay một âm nên người ta gọi gọn là vong.
Vì hồn có thể rời khỏi thân thể, và tồn tại sau khi đã chết, nên tất nhiên đặt ra vấn đề liên lạc với Hồn. Không phải ai cũng có thể làm được việc này, mà chỉ có một số người đặc biệt có linh cảm, đây chính là thầy mo. Và câu chuyện này chính là tín ngưỡng Sa man giáo (chamanisme). Trong thực tế, vì thầy mo ở nhiều nơi là cha truyền con nối, nên nhiều khi cái phần linh cảm kia giảm đi, thay vào đó là các hình thức nghi lễ, khấn cúng, và đặc biệt họ kế thừa các món thuốc truyền thống, dựa trên sự hiểu biết về các loại thảo dược có thể dùng chữa bệnh, hay có tác dụng như thuốc phiện làm thăng hoa, dẫn họ vào một trạng thái được coi là tiếp cận với thế giới vô hình. Ví dụ, các thầy mo saman giáo ở bắc Phần lan, họ dùng nước tiểu của tuần lộc để thăng hoa. Cái bí mật này có được bởi trên thảo nguyên bắc cực có một loại rêu, mà con người không ăn được, nhưng con tuần lộc thì ăn được. Khi ăn phần con tuần lộc thải ra qua nước tiểu vẫn có tính chất thăng hoa như rêu, nhưng phần độc tố đã bị con tuần lộc loại mất. Vì thế nước tiểu tuần lộc được dùng trong hành lễ gọi hồn. Người da đỏ ở mễ tây cơ (Mexico) thì biết một loại xương rồng có nhưng chất này.
Nhưng cũng có trường hợp khác, như với người Kinh, thì các cô đồng, cậu đồng có thể coi là thầy mo, nhưng ở đây sự thăng hoa qua những người có tâm lý đặc biệt, thông qua âm thanh, hương khói, ..
Nếu hồn có thể rời thân thể, thì sống ở đâu ? để giải quyết vấn đề này thì ta phải đi tìm vũ trụ quan của người việt cổ. Người việt cổ không còn, nhưng ta có thể suy ra từ quan niệm của người Mường. Người Mường với người Kinh chỉ khác nhau là người Kinh chịu ảnh hưởng của văn hoá TQ, ngược lại người Mường thì không. Sự phát triển của tâm linh người Mường có chịu ảnh hưởng của người Thái, nhưng họ không bị thâm nhập bởi bất cứ một tôn giáo phổ quát nào, dù là Phật hay là Nho. Vì thế nhiều dấu vết của người việt cổ còn tồn tại ở mức độ tương đối « trong sáng » có hệ thống, so với người Kinh, nơi mà nó chỉ còn những mảnh vụn thông qua thần thoại.
Theo như học giả Nguyễn Tử Chỉ, thì vũ trụ quan của người Mường có 3 tầng (trời, đất và dưới đất), bốn thế giới (trời, trần thế, âm thế, thuỷ cung). Theo tác giả, thì quan niệm tầng dưới đất của người Mường rất mờ nhạt, nơi sống của sinh linh bé tí. Thế giới này không có tác động lên trần thế. Nên thực ra vũ trụ quan chỉ có hai tầng (trời và đất). Thế giới thuỷ cung cũng không có tác động lớn lên trần thế, nên thực ra chỉ có 3 thế giới chính : Trời, trần thế, âm thế.
Trong các tang lễ, các thầy mo thường đọc các bản mo, trong đó thầy mo sẽ dẫn hồn lên trời, chào hỏi làm quen nhận mặt tổ tiên. Ngược lại hồn có thể ở ngoài rừng, nhưng không rõ ràng
Sa man giáo là một tôn giáo, vì thông qua các nghi lễ liên quan tới liên lạc với hồn, điều nó tiến tới là những thái độ ứng xử, có nhân sinh quan, thế giới quan. Không những là một tôn giáo, mà ta có thể coi nó là tôn giáo cổ nhất của loài người, tồn tại từ thời đồ đá (khoảng 4 vạn năm). Đạo phật có 2500 năm.
Nó có thể liên hệ với hồn người sống, trong trường hợp người có bệnh vì quan niệm hồn rời thân thể người bệnh, hay người bệnh bị hồn bên ngoài nhập vào mà ta thường gọi là ma, quỷ, phải đuổi đi.
Nó có thể liên hệ với hồn người chết, vì quan niệm hồn người chết quay về hành hạ người trần thế, do còn vấn vương với dương thế.
Hồn người chết này có thể là hồn của những người chết bất dắc kỳ tử, không được chôn cất tử tế, vì thế hồn của họ, ở đây là phần Tinh, và Thần quay về phá phách.
Hồn người chết có thể là tổ tiên. Tổ tiên có thể trừng phạt con cháu, do bất hiếu, cũng có thể tổ tiên đòi chu cấp cho cuộc sống, theo quan niệm « dương sao âm vậy ».
(con tiep)
Phó Thường Nhân
Ở trên tôi nói, tín ngưỡng như thế này cũng phải có nhân sinh quan, thế giới quan. Vậy nhân sinh quan của người Mường, người Việt ở đâu (nằm ngoài các tôn giáo được người Việt theo). Tôi sắp xếp nó lại theo mấy điểm sau :

- Tuân theo truyền thống, bởi người ta phải tuân theo tổ tiên. Nếu không sẽ bị tổ tiên trừng phạt.
- Tất cả các khó khăn trắc trở của cuộc đời, là do ta phạm lỗi với thần linh. Nhưng đây là cuộc đời hiện tại, không có vấn đề quá khứ, tương lai.
- Không có giải thoát hay lên thiên đường, hay xuống địa ngục, bởi vì người mất về với tổ tiên. Nhưng tổ tiên vẫn tồn tại song hành với ta, trong một thế giới âm, như là phiên bản ngược của cuộc sống trần thế.
- Thông thường thì người âm ở trên trời, nhưng với những vong hồn không lên trời được, do chết bất đắc kỳ tử, thì họ sẽ sống chung với ta , cùng một tầng, đồng tồn tại, trong thế giới « âm bản ».
- Người sống phải chu cấp cho người chết, tất nhiên là người nhà mình, ở mức độ gần. Vì như tôi đã nói thì đến đời thứ 5, người mất không còn có tính cách riêng nữa mà nhập chung vào tổ tiên.

Từ những quan niệm này, ta có thể thấy nổi ra mấy điều sau, khiến nó có sức sống mạnh mẽ. Đó là vì đây là tín ngưỡng cho người sống, cho dương thế. Nó không đánh tráo khái niệm hành động cho kiếp sau, tương lai, với sự đền bù trong tương lai (như phật giáo với giải thoát, như Thiên chúa, Hồi giáo với thiên đường). Đây là những khát vọng đời thường như : sức khoẻ, làm ăn phát đạt, sống sung sướng,..

Khi tôi nói mấy điểm gạch đầu dòng ở trên, nếu bác nào có tìm hiểu văn hoá dân gian VN, thì sẽ thấy những khái niệm trên gần với một tôn giáo nào đó ở VN, mà thực ra tôi đã « bật mí » ở trên, khi nói về HỒN. Đó chính là đạo Nho.

Hiện tại theo các học giả Trung quốc hiện đại, thì người ta đã công nhận đạo Nho xuất phát điểm là sa man giáo. Tức là tín ngưỡng nguyên thuỷ của các tộc người nằm hai bên bờ Thái bình dương (bao gồm cả người da đỏ). Cái mà Khổng tử, Người « lập ra » đạo Nho, làm đó là hệ thống hoá những điểm « duy lý » thành các khái niệm đạo đức. Khổng tử cũng nói ông chỉ « thuật nhi bất tác » (tức là ông chỉ hệ thống hoá, mô tả truyền thống, chứ không tạo dựng « chế tạo » ra đạo Nho). Khái niệm đầu tiên được « rút tỉa » là chữ HIẾU, rồi chữ TRUNG, chữ NHÂN, chữ LỄ, chữ NGHĨA. Tất cả những điều này đều được đạo Nho rút tỉa, hệ thống hoá, nâng cấp thành một hệ thống luân lý, lễ nghĩa. Ta hãy tìm hiểu một số điều tương đồng để thấy.

Nhà Nho chỉ nói chuyện « trăm năm trong cõi người ta, chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau » (Truyện Kiều), thì cũng như sa man giáo quan tâm tới đời sống thường ngày, không có vấn đề kiếp, nghiệp ở đây. Với Tổ tiên thì có chữ HIẾU (cho cả người sống và người chết, vì ta cùng nằm trong một không gian âm dương thông thương với nhau). Khổng tử cũng nói với quỷ thần thì « kính nhi viễn chi », ông cũng nói « chuyện người sống còn chưa biết, nói gì chuyện người chết ». Điều này là điều mà đạo Nho không « rút tỉa » mà để lại. Ngược lại Nhà Nho vẫn thờ THẦN, như các vị anh hùng liệt sĩ, tổ tiên. Trong sách vở Nho giáo, lúc chết người ta xuống « chín suối », rồi « suối vàng ». Đây là điểm khác biệt với người Việt, người Mường, vì ta lên trời, hay ra rừng. Nhưng nội dung của nó thì như nhau. Sự khác biệt này có bởi sa man giáo khởi nguyên của đạo Nho rút tỉa là ở TQ. Hiện tại, trong văn chương VN vẫn nói chuyện « tổ tiên ngậm cười nơi chín suối » chính là điều này.

Nhà Nho cũng có vũ trụ quan, mà điển hình là kinh dịch, thì cũng chính là không gian cuộc sống của ta thôi.
Những quan niệm nhân sinh quan của Nho giáo còn ngấm cả vào phật giáo Đại thừa, thông qua các tông phái như Thiền, Tịnh Độ, Thiên Thai.. là những tông phái chỉ có ở Đông Á (dù khởi nguyên của nó ở Ấn độ, ví dụ tịnh độ, nhưng ngay ở đây nhân sinh quan, thế giới quan cũng thay đổi chứ không còn Ấn độ nữa)
(còn tiếp)
Pages: 1, 2, 3, 4
Quán nước đầu làng Ven > Sáng Tác - Thảo Luận - Phổ biến kiến thức > CLB Văn Hoá - Lịch sử
Bạn đang xem phiên bản gọn nhẹ của diễn đ n dưới dạng text, để xem các b i viết với đầy đủ mầu sắc v hình ảnh hãy nhấn v o đây !
Invision Power Board © 2001-2024 Invision Power Services, Inc.