http://www.lemonde.fr/web/depeches/0,14-0,...506@7-60,0.html
Đọc cái này xong thì thấy « vui buồn lẫn lộn ». Vui vì mọi chuyện diễn ra hoà bình, nhưng thấy buồn vì phảng phất thấy cái vị dân chủ ở VN (nếu có) đi về đâu. Vì cái về đâu ấy, chính là cái mặt trái của dân chủ. Chưa đa nguyên đa đảng đã thế này, nếu « đa đa » thật thì sẽ đi vào chỗ chết, trong hoàn cảnh hiện tại.
Hoá ra cùng với biểu tình vì HS – TS nó còn có một loại biểu tình khác, đó là biểu tình của một nhóm thiểu số, của một tôn giáo thiểu số, cho quyền lợi riêng của họ.
Cái bài báo đăng trên báo Pháp trên nói đến việc người theo đạo Thiên chúa ở Hà nội, biểu tình đòi nhà nước trả lại đất và quyền sở hữu cho họ. Nhưng việc đã xẩy ra cách đây 50 năm, vào những năm 1954-1955.
Về mặt lý thuyết tuyệt đối, thì không có gì phải phàn nàn về những hành động này. Bởi nó là bản chất của hình thái «dân chủ phương Tây », tức là người ta chỉ nghĩ tới quyền lợi riêng của mình mà đòi hỏi, bất chấp đa số. Nhưng về thực tế, nếu những yêu cầu này được thoả mãn, thì nó sẽ là những tiền lệ rất xấu. Tại sao ?
Hãy trở lại lịch sử. Khi nhà nước VN dân chủ cộng hoà tiếp quản miền Bắc tháng 10 năm 1954, do chính sách thời bấy giờ tất cả các tài sản của các tổ chức tôn giáo đều bị nhà nước quốc hữu hoá. Trong các tổ chức tôn giáo ấy, đạo Thiên chúa thiệt hại nhất. Điều này cũng dễ hiểu, vì suốt thời gian thuộc địa, chính quyền Pháp luôn nâng đỡ tôn giáo này. Vào thời điểm đó, đạo Thiên chúa cũng không phải là tôn giáo chấp nhận dễ dàng chính quyền mới. Vì trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp, họ luôn đứng về phía thực dân Pháp. Hơn 1 triệu người công giáo ngoài Bắc vào Nam « tị nạn cộng sản ». Như vậy việc nhà nước VN dân chủ cộng hoà tịch thu tài sản của giáo hội này là hoàn toàn chính đáng. Ở trong Nam, sự ưu ái này còn tiếp diễn tới hết thời kỳ cộng hoà thứ nhất của ông Ngô Đình Diệm. Chế độ cộng hoà thứ 2 của ông Nguyễn văn Thiệu không ủng hộ ra mặt đạo Thiên chúa, nhưng những quyền lợi của đạo này vẫn được giữ y nguyên.Chỉ sau năm 1975, thì tôn giáo này mới trở về lại vị trí bình thường của nó phải có trong xã hội, kết thúc 100 năm ngấm ngầm được coi là quốc đạo là « ái phi » của chính quyền thực dân.
Nhưng điều đó là lịch sử, đáng lẽ người ta không nên khơi lại nữa, nhưng bằng việc đòi hỏi nhà nước trả lại tài sản của giáo hội, những người lãnh đạo công giáo ở VN lại lôi nó ra thành chuyện thời sự.
Bằng việc đòi hoàn lại những tài sản thời thực dân, nếu nhà nước chấp nhận có nghĩa là mặc nhiên coi luật pháp thời Pháp thuộc vượt lên trên luật pháp VN hiện tại, trong khi về nội chính, nhà nước Vn hiện tại không phải là chính quyền kế thừa chế độ thực dân. Vả lại nếu chấp nhận điều này, thì sao không đi xa hơn. Ví dụ, cái nhà thờ lớn ở HN , là do người Pháp xây trên nền chùa Báo Thiên, có từ đời Lý, một trong Tứ quý của kinh thành Thăng long ngày xưa. Vậy có nên phá cái nhà thờ đó đi, trả lại đất cho đạo Phật để xây lại chùa Báo Thiên không ?
Giữa quyền của người Pháp trao cho và quyền của một vương triều Vn, chính quyền nào « chính danh » hơn.
Từ chuyện này, người ta có thể nhìn thấy một điều khác. Đó là trong một xã hội hoạt động theo dân chủ phương Tây, chưa chắc quyền lợi của đa số được bảo đảm, mà có khi là quyền lợi của một thiểu số, nếu thiểu số đó được tổ chức chặt chẽ, đặt quyền lợi của riêng họ lên trên quyền lợi chung,lại có vây cánh ở nước ngoài, bất chấp đúng sai ra sao.
Một điều đáng để ý nữa là người ta có thể định nghĩa cái cộng đồng thiểu số ấy theo những criterium hoàn toàn bất lợi cho hoạt động của một xã hội lành mạnh, tức là nó khoét sâu những mâu thuẫn tôn giáo, địa phương, sắc tộc... những cái criterium này thay thế vào cái criterium phải có là bảo vệ quyền lợi, tính mạng, tài sản cho mỗi công dân bất luận tôn giáo, sắc tộc, địa phương.
Chính vì thế cái tin biểu tình này làm cho tôi thấy buồn hơn là vui. Vì đây cũng chính là những biểu hiện khiến châu Phi,hay các nước đang phát triển khác áp dụng nguyên lý xã hội phương Tây gặp phải khiến « nước mất nhà tan ».
Sự xuất hiện của ông Nguyễn Tấn Dũng trong vai trò « hoà giải » của đợt biểu tình này cũng làm tôi ngạc nhiên. Người ta có thật cần hình ảnh của một ông thủ tướng trong những chuyện này không ? Theo tôi là không. Tôi hiểu là ông ấy vốn được coi là « thân Mỹ ». Về chính trị ở nước Mỹ đạo Thiên chúa có ảnh hưởng lớn, đặc biệt ông G. W . Bush còn được phe « đạo khùng thiên chúa » (Fondamentalist Chrestien) ủng hộ tích cực, một hình ảnh chính trị gia « thân thiên chúa, nhân ái » với đạo này sẽ đánh bóng hình ảnh của ông ấy. Nhưng nó cũng có thể đưa cho người ta tới một liên tưởng khác, đó là hình ảnh ông Cao Cương nhỏ nước mắt cá sấu với sinh viên biểu tình TQ ở Thiên An Môn năm 1989, khiến người ta có cảm tưởng chính quyền yếu đuối, đẩy cho phong trào này tới chỗ cực đoan hơn, kiểu mềm nắn rắn buông.
Nó cũng đưa cho người ta một liên tưởng khác. Đó là VN cần cải cách, cần tăng cường pháp luật, cần tăng cường quan hệ với Mỹ và các nước khác, nhưng không cần một ông Gorbarchev.
Nhà nước có nên thoả mãn những đòi hỏi này không ? Theo tôi là KHÔNG, vì nó « quá đát », vượt ra ngoài cái gốc của pháp luật VN hiện tại (1954 ở miền Bắc, 1975 ở miền Nam). Ngược lại tất cả những hành động vi phạm tới tư hữu của giáo hội, sau khi luật của nhà nước VN hiện tại có hiệu lực, thì phải giải quyết. Mà không chỉ giải quyết cho đạo Thiên chúa. Lấy một ví dụ, ở ngay Ngã tư Sở, chùa (tự nhiên quên mất tên) bị dân ngang nhiên lấn đất xây dựng bừa bãi, khiến đương vào chùa bé tí như cái hẻm. Những trường hợp như thế thì phải xử trí. Nếu dân lấn chiếm đất nhà thờ hiện tại cũng phải xử trí.