Em lôi bài của bác Phó trong chủ đề "Đại tướng Võ Nguyên Giáp" lên đây để thảo luận cho phù hợp.
QUOTE(Phó Thường Nhân)
Nếu muốn biết cái « thuộc địa kiểu mới » đem lại lợi ích cho ai, thì bác cứ lấy tư duy của ông Lê nin nói rằng kẻ nào sử hữu công cụ sản xuất, tài chính kẻ đó là người lợi cuối cùng, vậy cứ đi dò theo, tìm hiểu xem ai là người nắm công cụ sản xuất- tài chính, cái đầu điều khiển công cụ sản xuất ấy nó nằm ở đâu, điểm đến cuối cùng của tiền lời, của giá trị thặng dư là chỗ nào thì sẽ thấy. Cái điểm đến cuối cùng của nó bao giờ cũng là một nhóm người, tức là chủ tư sản, thường được che dấu dưới cái tên chung chung là « thị trường ». Những ông chủ tư sản ấy dựa vào luật pháp của cộng đồng nào (hay nước nào), nghe theo luật pháp nước nào, thì cái cộng đồng ấy (nhà nước ấy) hưởng theo và ngược lai. Trong trường hợp khối euro thì hai nước lợi nhất là Pháp và Đức, và tư bản của hai nước ấy là cốt lõi. Nó có sự phân chia, Pháp chủ yếu có lợi về tài chính, còn Đức có lợi về công nghiệp. Bản thân Pháp Đức cũng mâu thuẫn với nhau, nhưng tư bản của nó vẫn nằm trên đầu các nước trong khối Euro. Sau đó trên lưng Pháp – Đức là các lợi ích của tài phiệt Anh-Mỹ, vì thị trường tài chính bây giờ là toàn cầu, và dựa trên đồng đô la. Còn người Hung, Đông Âu, Nam Âu còn nằm dưới nữa , là thuộc điạ không dẫy ra được. Mà có thay đổi chính phủ, hết đảng này lên đảng kia lên cũng vô ích. Vì sự kiểm soát nằm ngoài cái cơ chế này. Thế cho nên có cái điều nực cười là trong tuyên truyền của phương Tây, nó cứ nói đa đảng là thể hiện ý nguyện của dân. Nhưng đâu có phải. Trong những nước đang phát triển, thậm chí đã phát triển, nhưng tư bản trong nước bị ngoại hoá hết, thì đa nguyên đa đảng là cái dây dù đẹp nhất để trói những nước đó lại, hướng sự bất bình của dân vào một thứ bị bông, đấm thoải mái mà vô tác dụng.
Tất nhiên điều tôi quan tâm, và đến nay cũng không tìm được một cách giải thích hợp lý hoàn toàn là tại sao nước Hung lại sa vào cái bẫy đó trong khi rõ ràng nó không lợi cho người dân Hung. Kết luận của tôi là người ta đã quá tin vào cái bánh vẽ là EU, tức là thiếu nhận thức phản biện cái lợi cái hại khi tham gia EU. Nhưng thế không đủ, mà nhiều khi nó là cái thế nữa. Sai lầm của Hung còn bắt nguồn từ trước nữa, từ thời XHCN. Tôi cũng nói thêm là, trong EU cũng có những nước mà họ thoát được cái bẫy đó với mức độ thành công khác nhau là Tiệp, Slovak, Ba lan.
Và để thoát nó thì họ có 2 nhận thức tương đồng với nhau. Đó là eurosceptism (tức là không tin vào cộng đồng châu Âu, mặc dù tham gia) của Tiệp và chủ nghĩa dân tộc của Ba lan. Họ sử dụng nó khác nhau. Nhưng thôi để lúc khác nói.
Tóm lại, hiện tại trên thế giới, trào lưu tư tưởng chính vấn đến từ phương Tây, ngay cả khi nó khen hay nó chê. Và cái trào lưu tư tưởng ấy (kinh tế thị trường, tư hữu cá nhân, đa nguyên đa đảng..) nó có chiều là đem lại lợi ích cho những nước ấy trước, còn có đem lại lợi ích cho các đối tác không thì tuỳ sự ngu dốt hay khôn ngoan của người ta biết tận dụng điểm lợi, hạn chế điều hại, trong nhiều trường hợp thực ra là may. Ở VN, từ khi mở cửa đến nay có được nhiều điều may.Kiểu như « tái ông mất ngựa » trong câu truyện của Trang tử. Nhưng bây giờ đã tới giới hạn. Làm sao hạn chế được điều hại, nếu không có tư duy phản biện. Làm sao có tư duy phản biện nếu không có lý thuyết phản biện. Chủ nghĩa Mác Lê nin chính là cái lý thuyết để phản biện, bởi vì bản thân nó là một lý thuyết phê phán chủ nghĩa tư bản. Mà chủ nghĩa tư bản từ thời Mác đến nay, bản chất nó không thay đổi, chỉ có cách thể hiện khác nhau thôi.
Thái độ của tôi thực ra không khác gì thái độ một người đi mua hàng, mà người bán là phương Tây. Là người bán nó không thể chỉ cho bác cái xấu của món hàng nó định bán (chính sách kinh tế, hiệp ước, liên minh kinh tế..), nó phải bôi son trát phấn cho thật đẹp, cho thật mỹ miều thì mới câu được khách chứ. Như vậy phản biện được hay không, nhìn thấy cái hại (ngoài cái lợi) là ở mình, có dở hơi mà nó chỉ cho.
ví dụ nếu tôi cần nhà ở phải đi mua nhà. Tất nhiên tôi phải thẩm định, nhận xét xem chất lượng nhà thế nào, giá cả có phải chăng không, chứ làm sao tôi tin được hoàn toàn người bán. Vậy phải tìm cái xấu của nó, phản biện nó, để có sự thẩm định đúng. Để nếu thấy nó dở quá thì không mua. Nếu mua thì biết nó dở thế nào còn tìm cách sửa. Để khỏi phải trả giá đắt. Ngay trong trường hợp thế kẹt, phải chấp nhận, thì cũng còn biết được ngọn nguồn của nó, để tìm cách đối phó về sau.
Cái điều đơn giản ở trên bất cứ bà nội chợ, chị tiểu thương nào cũng thấy. Nhưng trí thức VN chưa chắc đã thấy.
Về chủ nghĩa Marx –Lê nin, tôi hiểu thế nào, thì tôi sẽ nói ở trong chủ đề nhận thức của NVT, coi như là lấy một ví dụ, tôi lấy mình là con chuột bạch thí nghiệm, để nhận thấy vai trò cá nhân ảnh hưởng thế nào tới nhận thức của cá nhân ấy, vì hiển nhiên dù có được đào tạo trong một cái khung chung, mỗi cá nhân đều rất khác nhau, dù có điểm chung nhau.
Với cụ Giáp thì điều tôi quan tâm là : cụ Giáp được cả người Việt lẫn cộng đồng quốc tế kinh phục, vậy cái lô gíc kính phục của quốc tế mà chủ yếu là các học giả phương Tây là gì. Vì ở các nước đang phát triển như Việt nam, tại sao có sự khâm phục ấy thì đã rõ. Họ khâm phục vì họ đặt được họ vào vị trí người VN, bản thân họ cũng phải chịu các thảm cảnh của chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Việt nam thì mới nếm mùi chủ nghĩa thực dân cũ thôi, chủ nghĩa thực dân mới nó mới chỉ bắt đầu,và vị nó còn ngọt lắm, vì thế vẫn còn điều kiện để khỏi sa vào. Chính vì thế chiến thắng của VN cũng là chiến thắng của họ. Với các nước phương Tây thì khác, vì họ là kẻ đối diện. Là đối thủ. Bản chất xã hội họ không thay đổi. Vậy cái lô gíc của sự kinh trọng ấy như thế nào ? và qua đó họ nhìn lịch sử như thế nào ? cái lô gíc ấy có đúng không ? có đủ không ? một người Việtnam có nên công nhận kiểu kính trọng ấy không ?
Sở dĩ tôi đặt những câu hỏi đó, vì phương Tây hiện giờ là điểm đến của trí thức VN. Càng ngày càng có nhiều người đã đang và sẽ được đào tạo ở phương Tây. Nhận thức của họ về xã hội phương Tây sé có quyết định về tương lai nước VN về sau. nếu họ về nước làm việc. Vì người nào làm gì cũng theo nhận thức của mình cả. Nếu trong khoa học tự nhiên, thì nhận thức có thể coi là khách quan. Nhưng nhận thức xã hội không bao giờ là khách quan. Nó bao giờ cũng phải được khúc xạ lại bởi nhu cầu quyền lợi của cộng đồng mình sống. Chính vì thế mà các nhà Nho Việt nam ngày xưa, ngoài khái niệm nho giáo nói chung, còn đưa thêm khái nhiệm QUỐC, nếu nho giáo Trung Hoa là khái niệm TRUNG QUÂN, thì các nhà nho VN thêm vào cái vế ÁI QUỐC.
Vậy nếu bây giờ, cứ giả sử mình là nhà Nho, Trung quốc là phương Tây (để ám chỉ cái soft power của nó trong thời hiện đại), thì cái điểm khúc xạ của mình ở đâu. Với tôi , cốt lõi nó là chủ nghĩa dân tộc, phương pháp phản biện là chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Nói luôn cho nhanh, không còn mấy người nghiên cứu nghiêm túc mà lại thiếu công cụ định lượng vấn đề, kể cả trong xã hội học. Muốn biết lợi ích thiệt hơn, xu hướng diễn biến thế nào thì lại càng phải cân đong đo đếm tỉ mỉ. Ứng dụng nguyên lý nhiệt động học coi xã hội là một hệ thống mở, ngoài 4 chiều không thời gian ra còn có vô số chiều thuộc tính (properties dimension) như dân số, tổng cầu, thu nhập ...vv. Trên cơ sở phân tích đặc điểm của mỗi thuộc tính (chuyên môn gọi là các biến = variables), người ta sẽ dựng lên các mô hình tương tác, ví dụ:
Đồ thị trên là quan hệ giữa 1 mặt cầu và 1 mặt phẳng, mỗi mặt đại diện cho một biến nào đó), chúng có thể giao cắt, tiếp tuyến hoặc hoàn toàn tách biệt. Ở đây em lấy mặt cầu biểu thị cho quốc gia dân tộc còn mặt phẳng là quan hệ quốc tế. Nếu đất nước đóng cửa thì các vector, hay các dòng chảy chuyển động trong mặt cầu như kinh tế, khoa học kỹ thuật ....vv sẽ duy trì một quỹ đạo riêng, có thể rất ổn định song cũng trì trệ. Còn nếu có tiếp giáp hoặc giao cắt với mặt phẳng thì tầm truyền của các vector lớn hơn nhiều, đồng nghĩa với sự thay đổi nhanh, mạnh theo hướng gia tăng hỗn loạn.
Vậy thì "tư duy của ông Lenin" ở đây là gì? dưới một góc nhìn nào đó, ví dụ ở đỉnh mặt cầu thì người thấy thấy dòng chảy kinh tế (hoặc tài chính) có những trung tâm hấp dẫn mạnh (còn gọi là cực quyền lực = power poles). Đây là một góc nhìn khách quan về sự thật, và Lenin thấy rõ ràng đó là sự bất công khi một số lớn các phần tử của xã hội lại đóng góp và phục vụ cho một thiểu số may mắn nằm trong vùng cực!
Vấn đề là ở chỗ, khi tìm cách xử lý sự "bất công" bằng cách thức nào đó, ví dụ làm cách mạng để xé rách các vùng cực cũ, tạo nên dòng chảy đồng đều qua mọi phần tử thì điều ngạc nhiên cực lớn đã xảy ra: các dòng chảy lại không chịu phủ khắp diện tích xã hội mà sau một thời gian chúng lại quy tụ vào một số vùng trũng, tạo nên cực quyền lực mới, bất công mới! Góc nhìn của Lenin tuy đúng, nhưng lại không phản ánh được tất cả toàn cục của hệ thống xã hội.
Một số người khác thay vì chọn đứng ở một điểm nào đó gần bề mặt, đã chọn cách đứng lùi ra ở một khoảng cách đủ xa để có thể nhìn bao quát toàn bộ hệ thống. Họ phát hiện ra các dòng chảy không phải cố định mà có thăng trầm (power shifts) và hệ thống các nguyên nhân ban đầu đã tạo ra các kết quả vô cùng phức tạp và bất ngờ.
Loằng ngoằng vài câu về toán lý, giờ em xin nói về chuyện VN giao tiếp với thế giới. Xét về quy mô xã hội thì rõ ràng đất nước này nhỏ bé như một hòn bi so với quả bóng rổ là phương Tây (Bắc Mỹ+EU). Sự hội nhập của VN, do đó chỉ có diện tích giao cắt rất nhỏ với mặt phẳng (là một phần của quả bóng rổ), do đó thật khó hình dung về trung tâm quyền lực toàn cầu hóa lại nằm ở trên hòn bi. VN có thể lựa chọn giao cắt sâu để các dòng chảy toàn cầu lôi cuốn hết bề mặt của mình, hoặc giữ trạng thái độc lập tương đối (chỉ tiếp tuyến với mặt phẳng). Với quan điểm như của bác Phó, có lẽ thích hợp nhất là mô hình tiếp tuyến chứ chuyện đóng cửa biệt lập thì hoàn toàn không cần bàn đến nữa.
Nghỉ đã, bài sau sẽ trưng dẫn chứng về giao tiếp luật pháp và tổ chức xã hội trong một số tình guống cụ thể.