Chào bác, trông cái mặt bác quen quen ( Đăng nhập | Đăng ký tạm trú )

3 Trang < 1 2 3 > 

· [ ] ·

 Thiền Của Vạn Hạnh, Hay là "nhập thất học phật tán phét"

Phó Thường Nhân
post May 7 2020, 10:59 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #11

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Bây giờ, với những kiến thức tổng quan về Trung quán luận như trên, hãy tìm hiểu xem Sư Vạn Hạnh quan niệm thế nào với các đế (TỤC ĐẾ, CHÂN ĐẾ, GIẢ ĐẾ) để thực hành trung đạo ra sao.
Đây chính là nội dung lời dặn của sư cho đệ tử. Tôi viết lại ở đây

Dịch âm :
Hữu thị đồ viết :
Nhữ đẳng yêu vãng hà xứ ? Ngã bất dĩ sở trụ nhi trụ ; bất ỷ vô trụ nhi trụ !

Dịch nghĩa :
Chỉ cho đồ đệ (đệ tử) nói :
Rồi ta sẽ đi về đâu ? Ta không bám vào chỗ trụ để trụ, cũng không dựa vào chỗ vô trụ để trụ.

Dù đã dịch ra tiếng việt hiện đại vẫn khó hiểu, vì thế phải giải thích. Từ TRỤ có nghĩa như trụ trong trụ cột tiếng việt, có nghĩa là chỗ tì vào, bám vào, dựa vào đó, giống như cái ĐẾ. SỞ TRỤ (tiếng việt tôi dịch là chỗ trụ) có nghĩa là TỤC ĐẾ.
Còn VÔ TRỤ (tôi dịch vẫn để nguyên) có nghĩa là CHÂN ĐẾ. Vậy sư muốn nói gì, và nó có liên quan gì tới câu hỏi mà sư tự đặt ra lúc đầu. Bởi câu hỏi đó, nếu hiểu nghĩa đen là sư tịnh diệt thì sẽ đi về đâu, có được giải thoát không, nó liên quan gì tới vấn đề Trụ hay không trụ này.

Để tìm hiểu điều này thì tôi sẽ trích lại ở đây một câu rất nổi tiếng trong kinh Kim Cương, Đây là bộ kinh được coi là kinh điển của Thiền Tông (đặc biệt từ sau Lục Tổ Huệ Năng). Bản thân tôi cũng cảm nhận Thiền qua câu này
« NHÂN VÔ SỞ TRỤ NHI SINH KỲ TÂM »
Khái niệm trụ tôi vẫn dùng với từ CHẤP, vô trụ nghĩa là vô chấp. Cái câu trên có nghĩa là nếu ta không để tâm trí mình bám vào đâu cả, thì TÂM sẽ hiện lên. Từ đây nó lại dẫn rượu tới chuyện tâm trí mình nói tới ở đây là gì, và có thêm khái niệm nữa cần phải hiểu là TÂM.

Tâm trí mình theo phật giáo chính là 4 phần còn lại của ngũ uẩn, về tinh thần mà tôi nói ở trên : THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC. Nhưng nó được thêm vào hai tầng nữa đó là MẠT NA THỨC, và A LẠI DA THỨC theo học thuyết duy thức mà tôi cũng đã nói ở trên. Mạt na thức là nói về ý thức, ý niệm, chủ định. Còn A lại da thức là cái tầng chứa đựng các ý thức này, nên nó còn được gọi là tàng thức.
Mạt na thức là từng thứ 7, A lại da thức là tầng thứ 8. Như vậy một con người được cấu thành bởi
SẮC, THỌ , TƯỞNG, HÀNH, THỨC , trong đó THỨC lại được cấu thành bởi nhận thức từ 5 giác quan, rồi NHẬN THỨC (6), Ý THỨC (Mạt na thức)(7), A LẠI GIA THỨC (8)

A lại da thức và mạt na thức thực ra là một về bản chất. Vì A lại da thức là vô hình, chỉ khi nào nó bị « nhuộm mầu » bởi ý thức thì người ta mới « nhìn » thấy nó. Có thể hiểu nó như thằng người vô hình (trong phim khoa học viễn tưởng), chỉ khi nó đội nón mũ thì mình mới nhận ra nó (vì cái mũ không biến hình được) ở đâu. Ta có thể cảm nhận tương tự như thế về mạt na thức và A lại da thức.
Trong Thiền thì người ta thường ví A lại da thức như là cái gương. Bụi bám vào cái gương là ý thức. cũng có thể ví như mặt nước hồ lặng sóng. Mà ý thức là sóng. Nhưng hình ảnh này được dùng rất nhiều trong văn học, trong các bài kệ của nhiều Thiền sư, ví dụ thiền sư Hương Hải, mà tôiđã từng nói tới trong chủ đề về Thiền tào động.

Cái A lại da thức mà không bị ý thức bám vào, thì đó là TÂM. Bác nào giỏi duy thức học, thì có thể vặc lại tôi mà nói rằng, trong A lại da thức nó không chỉ có ý thức bám vào, mà còn có các chủng tử kiếp nghiệp từ trước đọng lại. Nhưng để tìm hiểu Thiền thì những điều tôi nói là tạm đủ, thêm nữa thì nó sẽ rối rắm.

Một điều đặc biệt của TÂM là nó không phải chỉ là của một cá thể. Nó chỉ trở thành cá thể khi bị nhiễm ý thức, rồi các chủng tử kiếp , nghiệp. Tâm là « của chung » của tất cả chúng sinh trong trạng thái « nguyên thuỷ », vì tính chất của nó là KHÔNG. Vì nó là « của chung » nên « bất sinh bất diệt », thường tồn. Không có gì thú vị hơn là lấy ngay lời truyền của Tổ Tì ni đà lưu chi nói về Tâm này. Tổ gọi là Tâm Ấn (dấu ấn của tâm). Đây cũng có thể coi là tông truyền của dòng thiền Quán Bích này.

« Đại phâm tâm ấn của chư Phật không lừa dối ta. Tâm ấn ấy tràn đầy như thái hư, không thiếu, không thừa, không đi không tới, không được không mất, chẳng một, chẳng khác, chẳng thường, chẳng đoạn; vốn không ở chỗ sinh, cũng không ở chỗ diệt, không lìa xa mà cũng chẳng không lìa xa vì phải đối lập các nhân duyên hư võng mà phải đặt giả ra các tên như vậy. Cho nên chư Phật Tam thế đều do đó mà đắc pháp, tổ các đời cũng do đó mà đắc pháp, ta cũng do đó mà đắc pháp, ngươi cũng do đó mà dắc pháp. Đến như có tình hay không có tình đều cũng lấy đó mà đắc pháp. Vả lại tổ ta là Tăng Xán truyền tâm ấn ấy cho ta, bảo ta mau đi về phương nam để giao tiếp với thiên hạ, không nên ở lâu tại đó. Trái từ bấy đến nay ta với người gặp gỡ, quả là ứng hợp với lời huyền ký. Ngươi phải khéo giữ gìn. Đã đến lúc ta phải ra đi rồi. »

Tóm lại, khi sư Vạn Hạnh, nói câu truyền thừa cho đệ tử, thì ý nghĩa của nó về cơ bản không khác gì trong kinh Kim Cương, và có thể hiểu là sư muốn nói tới vấn đề tâm thường tồn bất sinh bất diệt. Và đó cũng chính là giải thoát.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post May 7 2020, 11:03 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #12

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Vậy sư có điều gì đặc biệt, nó đặc biệt ở chỗ, cách tiếp cận của sư để « vô trụ » như thế nào. Đó chính là hai khái niệm được viết bởi hai cụm từ : BẤT DĨ SỞ TRỤ cho TỤC ĐẾ, và BẤT Ỷ VÔ TRỤ cho CHÂN ĐẾ. Bởi vì để thể hiện VÔ CHẤP, sư có thể nói đơn giản như kinh Kim cương, không cần tách biệt hai thái độ phủ nhận tục đế và chân đế khác nhau.

BẤT DĨ SỞ TRỤ là nói không bám vào các hiện tượng, chấp vào hiện tượng, sự việc để ứng sử. Thật vậy bởi sư đã xét chúng dưới dạng thời cơ, thời thế, tương quan, ứng biến như trong bài kệ của mình, đồng thời cũng thấy chúng có nhân duyên « thịnh suy » mà ứng sử nhưng không lo sợ.. DĨ ở đây như là « vốn thế, bởi thế », có nghĩa nguyên nhân. BẤT DĨ SỞ TRỤ cũng là không vin cớ vào sự việc một dạng giáo điều, mà ngâm cứu thời thế của chúng để ứng sử. Tư duy như vậy là một tư duy nhập thế của nhà Nho , nhưng lại trên một bình diện vô thường, bình thản của phật giáo.
Và điều này đã được chứng thực qua việc sư ủng hộ, bầy mưu tính kế để Lý Công Uẩn có thể lên ngôi, thay nhà Đinh xa vào dạng bạo chúa, mang cả dao mà róc mía trên đầu sư như trong lịch sử ghi lại, cũng như thông qua các sấm vĩ của sư viết ra.

Nhưng BẤT Ỷ VÔ TRỤ mới thật là khủng. Ỷ nghĩa là dựa vào, như trong từ « ỷ lại » của tiếng việt hiện đại. Tại sao nó lại khủng, bởi sư không ỷ lại vào vô trụ, tức là TÍNH KHÔNG của CHÂN ĐẾ để bị xa vào hư vô, ba phải, coi cái nào cũng như cái nào, phải trái lẫn lộn. Điều rất dễ mắc phải khi học thiền, đặc biệt là thiền Lâm Tế. Với kinh nghiệm cá nhân của tôi đã từng bị sa vào vấn đề này, vì thế phải ghép đạo Nho vào đạo Phật, như tôi đã từng nói trong các chủ đề khác, càng khiến tôi cảm phục cách tiếp cận CHÂN ĐẾ, TÍNH KHÔNG này của sư. BẤT Ỷ là mặc dù sư ngộ TÍNH KHÔNG, nhưng hướng tới giải quyết các sự việc cụ thể, theo đúng nhân duyên, tình thế, thời cơ xẩy ra,chứ không núp sau chữ KHÔNG để không làm gì cả, « ờ ờ ờ ờ », trốn đời, hèn nhát.

Đạo Thiền của sư có thể hiểu như một loại thiền nhập thế. Và có thể vì thế, mà trong thiền uyển tập anh không chép lại một kiểu đối thoại nào dạng công án của sư, như kiểu giữa Tổ Tì ni đà lưu chi và Thiền sư kế tục ông là sư Pháp Hiền.
Chính vì thế phật giáo của sư Vạn Hạnh mặc dù có yếu tố Nho giáo rõ rệt, và cả yếu tố đạo Lão, mà tôi sẽ nói sau, lại gần với phật giáo Ấn độ nhất so với các nhà sư khác, bởi ở đây sư coi trọng yếu tố nhân duyên để ứng sử (tức là một dạng triết học hiện tượng tổng thể - phenomenologie integrale, giống như phật giáo nguyên thuỷ, chỉ khác là sư đánh giá hiện tượng theo kiểu nhà Nho), hơn là chỉ dựa vào nhân duyên đả phá nó để đi đến ngộ cái KHÔNG CHÂN ĐẾ bất biến như các công án thường thấy trong Thiền

Tóm lại, sư đã xuất thế, nhưng hành động lại nhập thế (và cũng có cả xuất thế, như việc tập « tổng trì tam ma dia ». Tổng trì tam ma đia là gì thì tôi sẽ nói sau).


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post May 7 2020, 11:06 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #13

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Cơ duyên nào đã đưa tôi đến với sư. Bài kệ của nhà sư, tôi đã đọc từ xưa. Nhưng chỉ coi nó như một bài thơ cổ. Sau này, khi đọc quyển « Thiền của Vạn Hạnh » của Thầy Nguyễn Đăng Thục thì tôi cũng hiểu thêm là nó liên quan tới phật giáo. Nhưng lần đọc đầu tiên này, rất lâu rồi, khi tôi mới bắt đầu tìm hiểu phật giáo, nên cũng chỉ ghi nhận thế chứ không biết gì hơn. Lần đọc lại này, nhân dịp cách ly cô vi, do có nhận thức phật giáo lớn hơn, nên tôi đã ghi ra những điều mà quyển sách này làm tôi nghi ngờ sự chính xác của nó. Nhưng phần tiếp sau, khi tôi « dựng lại, phục chế lại » thiền Vạn Hạnh, thì không phải mới bắt đầu từ mấy ngày nay, khi mở chủ đề này ra, mà đã có từ trước, nhưng sau năm 2015. Còn chính xác lúc nào thì không rõ.

Tại sao lại có mốc 2015, bởi lúc đó tôi bắt đầu tìm hiểu Thiên Thai tông, mà đầu tiên là thông qua Nhật liên Tông, tức là một tông phái phật giáo Nhật, xuất phát từ tông Thiên Thai. Do tìm hiểu Thiên Thai, tôi bắt buộc phải học Trung quán luận. Vì trung quán luận là khởi điểm của tất cả lô gíc Thiên Thai. Đạo Nho, đạo Lão thì tôi đã tìm hiểu từ trước song song với đạo Phật, theo quan niệm tam giáo đồng nguyên vốn có bình thường ở văn hoá truyền thống VN. Như vậy với nhận thức Nho, Phật, lão (tức là tam học), cộng với Trung quan luận, tôi mới có thể tiếp cận nhà sư một cách đầy đủ hơn. Bởi vì sư Vạn Hạnh cũng học như thế.

Dù không liên quan tới chủ đề tôi cũng kể ra đây nhân duyên nào dẫn tôi tới thiên thai. Đó là vào năm 2015, khi tôi qua Nhật, tới Kamakura chơi. Người ta tới đây tham quan vì có một tượng phật khổng lồ rất lớn bằng đồng. Trên đường đi bộ từ nhà g axe lửa JR (Japan Railway), tình cờ tôi rẽ vào một ngôi chùa ở trên đường. Nó rất nhỏ, vắng lặng, gần ngay nhà ga. Lúc đọc bảng thông tin của nó bằng tiếng Anh, tôi mới biết là đang đứng trong khuôn viên của một ngôi chùa của Nhật Liên Tông, và không phải là một ngôi chùa vớ vẩn, mà đây nguyên bản vốn là nhà của một tín đồ đạo này, mà Nhật Liên đã ở đây vào thế kỷ XIII, trước khi bị đy đầy ra đảo Salo, phía biển Nhật bản. Sau nó mới thành chùa, khi mà tông phái này không bị trù dập nữa. Tất nhiên tôi phải biết Nhật liên là ai, và chính điều đó làm tôi rất cảm động . Nhưng có một chuyện rất buồn cười, đó là có một ông người Nhật ra bắt chuyện với tôi. Và hoá ra ông ấy biết tiếng Pháp, và lại nói rất trôi chẩy, hỏi thì ông ấy bảo là chỉ tự học, chứ chưa sang Pháp bao giờ. Tiếng Pháp không phải là tiếng phổ cập bây giờ trên thế giới. Đi du lịch, gặp một người bản địa nói tiếng Pháp là khó. Sự tình cờ này làm tôi cảm tưởng như có một nhân duyên.

Nhưng chưa hết, lúc quay về Tokyo, lúc đi ra phía công viên UENO chơi, tôi rẽ vào phố gầm cầu của nó ở đó. Trong lòng khu phố cũng có một ngôi chùa nhỏ, bị các kiểu hàng quán lấn chiếm kiểu như ở chùa Phúc Khánh (Ngã tư sở). Tôi vào đó và thấy trong chỗ bán đồ cho khách thập phương, có một bức chướng nhỏ bằng giấy, mà ông sư bán hàng bảo tôi đó là talisman, tức là cái bùa. Nhưng nhìn nó thì tôi biết ngay là bức trướng viết chữ « Nam mô diệu pháp liên hoa kinh », do sư Nhật liên viết, và được tín đồ Nhật liên tông dùng để thờ. Tất nhiên đây là bức thư hoạ in lại. Ngôi chùa tôi vào không phải là Nhật liên Tông, nhưng việc « chạm trán » với tông này một lần thứ hai, càng khiến tôi cảm thấy có duyên nợ chi đây, và hẹn là sẽ tìm hiểu nó nhiều hơn. Thế rồi từ cách Nhật Liên phân tích kinh Pháp Hoa, dẫn tôi tới tìm hiểu kinh này, và từ đó dẫn tới Thiên Thai. Và nó dẫn tôi tới Trung quan luận. Hiện nay tôi vẫn tìm hiểu tông phái này, vì quả thật về mặt triết học nó là cái bản lề để tiếp cận Thiền, Tịnh độ, Mật tông ..


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post May 7 2020, 11:07 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #14

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Một điều nữa làm tôi quan tâm tới sư Vạn Hạnh, đó là tôi quan tâm tới sự giao thoa của Nho giáo với Phật giáo. Như tôi đã nói nhiều lần, đây chỉ là nhắc lại. Để tránh sa vào phật giáo hư vô (trong trường hợp của tôi), tôi đã kết hợp Nho –Phật theo hướng « TÂM PHẬT-THÂN NHO », giống như hình ảnh cây trúc « dóng thẳng (nhà nho), nhưng lòng không (Tâm không phật giáo). Nói một cách hình ảnh hơn, phật giáo cho tôi phần trìu tượng triết học(metaphysique), và phần nho giáo cho tôi ứng sử (ethiques). Nhưng cách lắp ghép này của tôicũng chỉ như cái áo vá, vì bản thân Nho giáo cũng có phần metaphysique của nó, và tất nhiên phật giáo cũng có phần ethiques. Vì thế tôi muốn tìm hiểu ông cha ta đã kết hợp nó ra sao. Vì vấn đề này không phải là đặc biệt.

Trong lần đi Huế chơi, lúc lang thang gần chùa Thiên Mụ, tôi mới xà vào một tiệm sách bên đường, và mua được một quyển sách mỏng, giới thiệu tông tích, lịch sử ngôi chùa này, và tôi bắt gặp câu mà tác giả cuốn sách đã nói về thái độ của chúa Nguyễn với Nho , Phật. Đó là « cư Nho, mộ Thích » (ở trong đạo Nho, hâm mộ đạo phật ). Đây cũng là một cách tiếp cận thú vị, nhưng nếu « cư Nho » (ở trong đạo Nho) làm tôi thích thú và chấp nhận được, thì thái độ của tôi với Phật giáo không phải chỉ là hâm mộ, mà tôi là một phật tử tự nhiên. Không kể gọi phật giáo là đạo Thích (Thích Ca), cũng như gọi đạo Nho là đạo Khổng (tử) cũng có một thái độ hạ thấp khó chấp nhận. Với chúa Nguyễn, thì rõ ràng đạo Nho là chủ thể tư tưởng. Nhưng với tôi, Nho Phật như nhau, chấp nhận điều này hơi khó.

Và chỉ khi tìm hiểu sư Vạn Hạnh, tìm hiểu bài kệ truyền thừa của sư (vì đây đúng là bài kệ truyền thừa), tôi mới thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn của sư về Tam Học, mới thấy mình chỉ là dạng « hậu sinh khả ố » (chứ không phải khả uý), vì cách đây cả 1000 năm, sư đã kết hợp được Nho, Phật, Lão một cách cực kỳ hợp lý.

ở trên tôi đã nói về Nho (dịch học), Phật (trung quán luận, duy thức học), nhưng trong sư còn có cả đạo Lão nữa. Dù phần này không cực lớn, phải tinh ý mới thấy. Nhưng tôi sẽ chỉ ra ở đây.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post May 10 2020, 05:19 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #15

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Nếu ai để ý thì thấy trong chủ đề này tôi nhiều lần nhấn mạnh sự khác biệt của khái niệm KHÔNG và VÔ. Hai khái niệm này thường bị lẫn với nhau, khi một người từ đạo Lão đi học đạo Phật, hoặc một người học Phật lại chịu ảnh hưởng của đạo Lão. Nguyên nhân là lúc khởi thuỷ, khi dịch cách kinh sách phật giáo ra chữ Nho, thì các dịch giả đã dùng các khái niệm đạo Lão. Nhưng về sau, thì trong chữ Nho đã có các từ vựng phật giáo mà không phải mượn ngôn từ đạo Lão nữa. Vì thế mới có chữ KHÔNG, và cùng với nó vẫn tồn tại chữ VÔ. Theo đạo Phật thì phải dùng công thức sau mới là hiểu đúng chứ KHÔNG (tức là khái niệm KHÔNG trong trung quán luận) HỮU + VÔ = KHÔNG. HỮU và VÔ ở đây « đối đãi nhau » (hay có thể gọi là « quan hệ biện chứng »), có cái này mới có cái kia.
Ở VN ta không có đạo Lão, vì không có sư sãi tu tập theo nó. Trong thực tế, chỉ có người Hoa du nhập vào VN (ví dụ như người Minh Hương), thì họ có theo đạo Lão, được gọi là đạo Minh Sư. (Minh là vì họ là người Minh Hương), còn Sư thì vì quy nó ra như sư sãi phật giáo. Nhưng sau mọt vài thế hệ, thì người tu Minh Sư theo Phật giáo, và các đền miếu này thành chùa. Hiện tượng này rõ rệt ở trong Nam. Hiện tại có những ngôi chùa nổi tiếng ở TP HCM, nguyên bản của nó là đền đạo Lão : như chùa Thiên Hậu, hay chùa Ngọc Hoàng. Chùa Ngọc Hoàng (là chùa mà Obama đến thăm), nó còn đi qua một thời kỳ là chùa Cao đài nữa, rồi mới thành chùa Phật. Hiện nay ở VN, tôn giáo gần gũi nhất với đạo Lão, có lẽ là các nhóm Cao đài li khai (tức là không thuộc vào Cao đài Tây Ninh) ở đồng bằng Nam bộ.
Ở ngoài Bắc, thì đền đạo Lão dần dần trở thành đền thờ thần, và bị hệ thống thần đạo (thờ thành Hoàng ở làng xã ) thu hút vào, nếu không nó sẽ đổ nát biến mất, do không có quần chúng tín ngưỡng .Lúc tôi còn bé gần nhà còn có cái miếu đổ nát thờ ông tam đa (tức là bộ ba phúc, lộc, thọ), nhưng sau cũng không còn. Ngược lại một bộ phận của nó lại thành truyền thống dân gian , văn hóa. Ví dụ tục cúng ông công, ông Táo, quan niệm có Ngọc Hoàng Thượng đế, với Nam Tào, Bắc Đẩu (mà cái chương trình truyền hình đầu năm mới ở VN rất ăn khách còn tồn tại tơi năm ngoái)

Mặc không có cấu trúc tổ chức hành chính về đạo Lão, từ thủa xa xưa, những nguyên lý của đạo Lão vẫn vào VN thông qua các sách của Lão tử, Trang tử, và không xa lạ với trí thức VN (sư sãi, hay nhà Nho). Đặc trưng của triết học đạo Lão, có mấy yếu tố sau (tôi chỉ nói sơ qua, đủ dùng ở đây, chứ còn nó cũng rất rộng và thú vị)

- Giải thích nguồn gốc vạn vật từ một khái niệm được gọi là ĐẠO (Trong Lão tử có câu nói đại ý thế này, tôi viết nhưng không nhớ chính xác. « có cái gì đó chập chờn, mơ hồ, là khởi thuỷ, ta gượng gọi nó là Đạo »). Khái niệm khởi thuỷ này sau được gọi là THÁI CỰC, hay tHÁI HƯ, Hay VÔ

- Đề cao hành động theo tự nhiên (mà ta vẫn gọi là VÔ VI). Theo nguyên lý « Mất ĐẠO mới phải nói tớ ĐỨC, mất ĐỨC mới phải nói đến PHÁP ». Cái này có rất nhiều trong các công án Thiền. Vì « nhìn thấy Đạo », tức là hành động theo tự nhiên (mà không phải là bản năng) được đánh trùng với NGỘ trong phật giáo. Ví dụ công án sau . Thừa tướng triều đình tên là HỮU vào tham vấn Thiền sư Triều Châu (tên tôi không nhớ chính xác) muốn biết ngộ đạo thế nào. Triều Châu im lặng không nói. Thừa tướng quay ra, đến cửa, chợt Triều Châu cất tiếng gọi « Hữu ». Ông quay lại. và .. Ngộ.
Cái công án này muốn nói cái gì ? Nó muốn nói rằng hành động được gọi, quay đầu hoàn toàn là tự nhiên, không phải trải qua một suy nghĩ gì cả. Bình thường là thừa tướng, ông ta quen với các kiểu thưa gửi, khúm núm, có cái tôi rất là to, như kiểu quan liêu thành bản chất. Tất cả những khái niệm đó là CHẤP, là tạo tác không tự nhiên. Bi gọi giật giọng, tự nhiên quay đầu trở lại, đã khiến ông này nhận thấy « bản thể, tự tính » mà ai cũng có (do không kịp sử dụng các ý niệm chấp kia), tức là thấy cái tâm trong sáng không mất đi đâu, bất sinh bất diệt, mà bình thường, với chức vụ thừa tướng ông ta, do nhưng « tạo tác » bởi vị thế xã hội, chức vụ của ông ta che lấp nó đi, khiến ông ta « chấp », không nhận thấy..

- Quan hệ đối đãi tương quan giữa các khái niệm (điều này giống như nhân duyên tồn tại do tương tác với nhau mà có, mà tôi đã nói trong phần Trung quán luận). Ví dụ ngắn đối với dài, nóng đối với lạnh, khô đối với ướt .. (hiển nhiên, nếu không biết ướt thế nào, thì làm sao quan niệm được thế nào là khô, tương tự như vậy với các cặp đối xứng khác vì chúng tồn tại được do cùng đồng thời, cái này là « negatif » của cái kia)


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post May 10 2020, 05:30 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #16

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Ảnh hưởng của đạo Lão với sư Vạn Hạnh, nằm ngay trong câu đầu của bài kệ truyền thừa. Tôi viết lại
« Thân như điện ảnh HỮU HOÀN VÔ » (để nhấn mạnh tôi viết chữ to). Ba chữ cuối tôi đã lý giải ở trên. Nó cũng chính là bản thể luận của đạo Lão. Theo đó mọi sự vật trong thế giới hiện tượng (HỮU) sinh ra từ cái mù mờ, không thể nắm bắt, được gọi la VÔ (hay là THÁI CỰC, THÁI HƯ). Điều đặc biệt là cái VÔ này tồn tại không có hình tướng, có thể hiểu như một dạng năng lượng tiềm năng. Khi hiện tượng bji diệt, thì nó không mất mà quay về VÔ. Và đến thời điểm thuận lợi, thì từ VÔ lại sinh ra sự vật(HỮU). Đây cũng là một tư duy nông nghiệp trồng trọt. Chính chữ HOÀN (quay trở về) mà tôi đã giải thích ở tren cho ta thấy điều này.
Tóm lại trong một bài kệ ngắn có bốn câu, và một lời phó chúc để lại, nhà Sư đã để lại cho ta nhân sinh quan thế giới quan của ông, giống như chìa khoá của một sự truyền thừa, mà ta có thể sử dụng, kế tục.

Đến đây tôi tóm tắt tông kết lại cái thế giới quan, nhân sinh quan này.

Trong lịch sử đã có rất nhiều nhà Nho theo Phật giáo, hay từ tu tiên (tức là đạo Lão), một trong những người đó là Mâu Tử, còn để lại cuốn « Lý hoặc luận » giải thích các điều nghi của nhà Nho với Phật giáo. Mâu tử, thường được các học giả miền Nam cũ thổi lên như một dạng ông tổ Phật giáo ở VN, vì trong sách sử TQ gọi ông là người Giao Chỉ. Nhưng thực ra ông là người từ Trung nguyên (TQ) lánh nạn hỗn quân hỗn quan ở TQ qua. Tổng kết lại, nhưng sự giao thoa này thì người ta nói (thực ra đây là một lời của nhà Nho, hay theo đạo Lão ngộ phật giáo, mà tôi không còn nhớ tên) :
NHO VIẾT HỮU, LÃO VIẾT VÔ, CHỈ CÓ PHẬT LÀ LIẾU ĐOẠN SINH TỬ.

Đây thực ra cũng là giống tư duy của sư Vạn Hạnh. Nó muốn nói là
Nho giáo chuyên nghiên cứu về những sự vật cụ thể, tạo tác, ta vẫn gọi là nhập thế. Đạo lão thì ngược lại, nghiên cứu những điều hư vô, muốn thuận theo tự nhiên, được gọi là xuất thế. Ngược lại chỉ có PHẬT LÀ LIỄU ĐOẠN SINH TỬ. Liễu đoạn có nghĩa là cắt đứt. Có nghĩa là Phật giải thoát được vấn đề sinh tử, nhìn thấy vấn đề thường tồn.
Câu nói trên, thường là lý do người theo đạo Lão tu tiên đi theo đạo Phật, bởi tu tiên cũng để vượt khỏi sinh tử để thành CHÂN NHÂN bằng cách luyện đan, nhưng việc này thực ra là vô vọng, vì thế khi họ quay sang đạo Phật. Không kể, có một phần đạo Lão, luyện trường sinh bằng Nội đan, thì có cái gì đó rất giống tập thiền.

Nhưng nếu như thế thì sư Vạn Hạnh có gì đặc biệt. Nhân sinh quan, thế giới quan của sư đặc biệt ở chỗ đã tổng hợp cả đạo Nho và đạo Lão (về mặt triết lý) vào đạo Phật, đạo phật trở thành cái « tạng địa » (matrice) chứa cả Nho và Lão. Với đạo Nho, sư dùng đã dùng nhận thức Nho giáo để áp dụng vào khái niệm NHÂN DUYÊN, VÔ THƯỜNG (giống như Dịch). Ngược lại đạo LÃO, được sư dùng để áp dụng vào phần nhân sinh quan về BẢN THỂ (Do khái niệm VÔ). Có quan hệ qua lại lẫn nhau giữa phần Nho – Lão này qua quan hệ chuyển đổi HỮU (Nho) – VÔ (Lão). Thế còn Phật, phật ở đây là TÂM, là cái cầu nối cả hai điều kia, luôn thường tồn và cũng là giải thoát. Ta có thể lập một công thức toán học (một cách hình thưc tương đối) để thể hiện điều này

TÂM=TỰ TÍNH= TRUNG ĐẠO= HỮU + VÔ
HỮU= TỤC ĐẾ= PHÁT XUẤT TỪ VÔ= NHÂN DUYÊN + DỊCH
VÔ= KHÔNG=CHÂN ĐẾ= TRỞ VỀ CỦA HỮU

Do những quan hệ tổng thể này, nhà sư có thể có nhiều cách ứng sử theo nhân sinh quan, thế giới quan của mình :
1- Nhập thế, hành động theo thời của Nho giáo
2- Thuận theo tự nhiên, như của đạo Lão.
3- Hành động « đối cảnh tâm không động », giữ chân tâm thanh tịnh của phật giáo
Việc « hội nhập » tam giáo của sư quả thực đáng kinh nể và rất thâm thuý. Theo nhận xét cả tôi, chính vì có quan niệm Phật giáo nhập thế như vậy, mà sư đã tham gia vào các hoạt động chính trị, ủng hộ việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi lập ra nhà Lỹ. Hành động của nhà sư vừa hợp thời thế (do sự tàn bạo, tha hoá của nhà Tiền Lê), cũng như để bảo vệ phật giáo (do việc Lê Ngoạ Triều « đàn áp phật giáo » : thể hiện qua việc « róc mía trên đầu sư sãi »), chứ không « trốn đời ».

Điều thứ 2, 3 ở trên, trong phật giáo đời Trần cũng có. Đây chính là câu kệ cuối bài « Cư trần lạc đạo » (ở trần thế, vui với đạo) của vua Trần Nhân Tông mà tôi vẫn dùng như một câu « thần chú » tóm lược thực hành thiền cho mình. Nó như thế này :

Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên.
Cơ tắc sán hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích.
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền

Dịch:
Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên.
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm.
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.

Hai câu đầu chính là nội dung điều 2, hai câu sau là nội dung điều ba.
Nhưng điều 1 thì không có. Và vì thế là đặc biệt


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post May 12 2020, 03:21 AM    
Đường dẫn tới bài viết này #17

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Như vậy đi theo con đường học tập mà sư đã đi, (tam học, trung quán luận), ta có thể đi tìm cái tâm của sư để kế tục. Nhưng sư còn có hình thức tu tập, đó là “TỔNG TRÌ TAM MA ĐỊA”. Vậy nó là gì. Đáng nhẽ phần này không có ở đây, bởi vì ngay khi mở chủ đề, tôi cũng không biết. Và cũng chính vì thế, tôi mới nói rằng, nếu có ai tham gia, đọc chủ đề này mà biết, thì tham gia vào chia sẻ cho vui.

Nhưng trong thời gian viết chủ đề này, có thể là nhân duyên, linh tính khiến tôi tìm được một số điều, vì thế viết luôn ở đây. Có thể coi đó như nhân duyên của Thiền Quán Bích, của sư Vạn Hạnh dành cho mình.

Như tôi đã nói ở trên. Khi nói đến “TỔNG TRÌ”, thì người ta nghĩ ngay tới mật tông. Vì thế tôi nghĩ rằng, TAM MA ĐỊA có lẽ là một phép tu gì đó của mật tông chăng.

Về cá nhân, do nhân duyên, tôi bắt đầu tìm hiểu phật giáo qua một quyển sách của một đại sư Tay Tạng, tên là Kalou Rimpoche (đọc là ca lu rim pô chê), lúc đó là vào thời điểm thập niên 80, không có mạng, cũng không có sách tiếng việt. Điều này tôi đã từng nói. Và nhà sư này đã dẫn giải phật giáo qua mật tông. Tức là sau khi giẩng giải phật giáo nguyên thuỷ, đại thừa, thì có một phần viết về kim cương tạng (tức là mật tông). Nhưng mật tông thực sự đòi hỏi có thầy (gu ru), cho nên trong sách cũng chỉ nói chung chung thôi.

Mặc dù thế, hiện nay tôi cũng chưa tìm hiểu được tông phái này kỹ càng, mặc dù đã sưu tập kinh sách. Vì có sách nên lấy ra xem thử. Và quyển kinh tôi mang ra xem để truy tầm “Tam ma địa” là quyển kinh phổ cập của Mật tông. Kinh “Đại tì lô già ná thành phật thần biến gia trì kinh”. Bộ kinh này tôi tìm thấy trên mạng, in ra. Bởi vì sách tôi mua về mật tông thường bằng tiếng Pháp, và khả năng đoán được phép gì đó viết tiếng Pháp là TAM MA ĐỊA nằm ngoài khả năng. Rất may mắn là trên mạng, có thể tìm được kinh mật tông bằng tiếng việt.
Tất nhiên, có một điều phải giải thích. Sư Vạn Hạnh là Thiền sư, vậy làm sao sư có thể tu phép mật tông ?
Nếu tìm hiểu, học hỏi phật giáo, người ta có thể dễ dàng nhận thấy là về mặt nghi lễ, các tông phái vẫn sử dụng lẫn nhau. Ngay cả trong nghi thức hiện tại. Vì thế việc sư có tập mật tông, cũng không có gì đặc biệt.
Một điều nữa phải để ý. Đó là trên giấy tờ, văn tự của phật giáo VN để lại, chủ yếu ta thấy thiền tông. Nhưng điều này không có nghĩa là các tông khác không tồn tại. Trong Khoá hư lục , Tam tổ thực lục.. đời nhà Trần đều thấy vua Thái Tông và Nhân Tông nhắc tới tịnh độ. Nhưng hiện tại lịch sử tông này ở VN thế nào, không có. Nếu có cũng chỉ có từ đợt du nhập phật giáo thứ 2, từ thế kỷ XVI.
Với mật tông cũng vậy, phải tới những năm 60, khi khảo cổ học ở miền Bắc, khai quật khảo cổ được các cột kinh ở Hoa Lư, do Đinh Liễn, con của vua Đinh Tiên Hoàng dựng, và đây là những chú đà la ni, thì ta mới hiểu là mật tông có tồn tại ở VN, ít ra từ thời nhà Đinh, nhưng khả năng nó đã tồn tại từ trước đó là rất lớn.
Nếu so sánh sự truyền bá các tông phái đạo Phật vào Đông Á, như Nhật, TQ, bán đảo Triều Tiên, VN, thì ta sẽ thấy thường mật tông vào trước, rồi mới tới các tông phái khác. Tại sao lại thế ? bởi vì nó đi theo quy luật “LAST IN FIRST OUT” giống như trong quy trình sử lý tin học. Vào thời điểm Phật giáo vào Đông Á, ở Ấn Độ nó đã là Mật tông (Tantra), đây là sự phát triển cuối cùng của phật giáo Ấn độ (LAST IN, cái cuối cùng ra đời), và khi nó truyền bá ra ngoài, thì nó sẽ truyền bá tông phái này đầu tiên(FIRST OUT, cái đầu tiên đi ra). Cho nên hoàn toàn có thể đặt giả thiết mà không sai lầm lắm, đó là Mật tông đã vào trước, rồi sau mới tới các tôngphái khác.
Cho đến đời nhà Lý, dấu vết của Mật tông còn nhiều, thể hiện qua các hành trạng của các “Thiền Sư” như Minh Không, hay Từ đạo Hạnh. Thần tích của Từ đạo Hạnh, hiện được thờ ở cả chùa Thầy và ỉchùa Láng , Hà nội, có những dấu vết mật tông rõ rệt. Đặc biệt chuyện Từ đạo Hạnh học bùa phép giết chết sư Đại Diên trả thù cho bố, rồi sau đó sám hối theo Phật có cái gì đó rất giống với sự tích của vị sư nổi tiếng Tây Tạng Milarepa. Hiện nay, có nhiều người sang Tây Tạng, Nê pan, ..du lịch, mọi người có thể tận mắt chứng kiến “chỉ ngũ sắc” mà sư Từ đạo Hạnh đã yểm bùa, buộc xung quanh cung vua để ngăn Đại Diên biến thành con gián chui ra ngoài thế nào. Đó chính là năm mầu : Xanh, đỏ, trắng, vàng, xanh lá cây được sử dụng trong các cờ phướn, dây treo .. ở đây. Cac xứ này theo Mật tông.
Rồi những chuyện đầu thai, hoá thân, như việc Tẻ tướng Lê Văn Thịnh biến thành hổ chẳng hạn.
Việc sư Từ đạo Hạnh, Minh Không được ghi vào lịch sử truyền thừa của Thiền Tông, cũng nói lên điều nữa ở Vn, đó là tất cả các sư, dù tông phái tu tập thế nào cũng được quy vào Thiền Tông về mặt tổ chức. Và điều này cũng có lý của nó, là cho tới khi có Bách trượng thanh quy, của thiền sư TQ Bách Trượng Hoài Hải (là thế hệ sau cả Lục tổ huệ Năng), vào thế kỷ thứ 7 (hay 8 ??), thì người tu thiền vẫn tu ở chùa bình thường mà không có chùa riêng. Trường hợp của tổ bồ đề đạt ma, hay tổ Tì ni đà lưu chi của tông Quán bích cũng vậy. Vì thế Thiền Tông, không có nghĩa là chỉ tập thiền.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post May 12 2020, 03:26 AM    
Đường dẫn tới bài viết này #18

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Linh tính của tôi cũng khá “chuẩn”, vì tôi đã tìm được khái niệm “TAM MA ĐỊA” trong kinh Mật Tông
“Đại tỳ nô già ná” nói ở trên. Tôi chép đoạn kệ có cụm từ này ra đây:

“Nói Nhân chẳng kẻ làm.
Quả kia ắt chẳng sinh.
Nhân này còn không Nhân.
Làm sao mà có quả.
Nên Biết Quả chân ngôn.
Thảy lìa nơi nghiệp thân.
Cho đến thân chạm chứng
TAM MA ĐỊA vô tướng (tôi viết chữ to để nhấn mạnh)
Bậc chân ngôn sẽ đắc.
Tất địa từ tâm sinh.

Rất đáng tiếc là xem qua quyển kinh (tôi chưa ngâm cứu nó kỹ càng, vì chưa có nhân duyên quyết đinh với Mật Tông), thì không thấy có đoạn nào giải thích hay tiếp tục sử dụng khái niệm TAM MA ĐỊA này cả.
Nhưng rồi, câu chuyện này mới đúng là NHÂN DUYÊN. Tự nhiên tôi nẩy ra ý định xem quyển Đề cương kinh pháp hoa của Thiền sư Minh Chánh, sống vào đầu thế kỷ XIX, thời vua Gia Long ra đọc.
Quyển này tôi cũng tìm được trên mạng đã lâu, là bài dịch , giảng của Hoà Thượng Thích Nhật Quang trong thiền viện Thường Chiếu. Thiền sư Minh Chánh theo Tào Động tông, vì thế tôi muốn xem, với nhân sinh quan Tào Động, sư diễn giải thế nào kinh Pháp Hoa. Là pháp môn tôi đang nghiên cứu cuối cùng.
Do nhân duyên may mắn, tôi thấy thiền sư Minh Chánh nói tới 2 lần khái niệm TAM MA ĐỊA. Điều này có nghĩa là tới đầu thế kỷ XIX, TAM MA ĐỊA vẫn được biết cả trong thiền tông, đặc biệt Tào Động tông Tôi trích ở đây một đoạn. Đoạn này sư Minh Chánh, diễn giải phẩm Diệu Âm của kinh pháp hoa:

“Phẩm Diệu âm là nhiếp phẩm Dược Vương trước. Ý bảo rằng căn này từ lúc mớivào, vẫn cần nhờ các âm thanh, để bày tỏ tính nghe, tiêu mòn vọng niệm, vào Xa-ma-tha, dần dần vào sâu, giữ nơi chí tịnh.Cho đến cả động tĩnh đều quên. Phải ngay nơi đây mà vào TAM-MA-ĐỊA (tôi viết chữ to nhấn mạnh). Khi đó chẳng cần thinh trần hiện bên ngoài nữa, mà ở trong tự có diệu âm, riêng sáng, độc chiếu. Thiền sư Cổ Linh Thần Tán nhắc lại
“Linh quang riêng chiếu,
Vượt khỏi căn trần,
Bầy thể thường chân,
Chẳng kẹt văn tự.
Đây là lúc rõ được pháp không vậy. “

Trong phần dưới, khi hoà thượng Thích Nhật Quang giảng đoạn văn trên, sư cũng bỏ qua giải thích Tam ma địa là gì.
Vì trong quyển Đề cương kinh pháp hoa này, Thiền sư Minh Chánh hay dẫn lục kinh Lăng Nghiêm. Với linh tính của mình, tôi nghĩ có lẽ cái chìa khoá của nó ở đây. Tôi cũng có quyển kinh Lăng nghiêm, in giấy, là bài giảng kinh này của hoà thượng Thích Huyền Vi.Và điều giả định của tôi là chính xác, có hẳn một pháp môn thiền theo âm thanh trình bầy trong kinh Lăng nghiêm được gọi là TAM MA ĐỊA. Đây là phần liên quan tới quán tưởng âm thanh. Liên quan tới phần quán tưởng âm thanh nội tâm. Điều thú vị nữa là, trong phần giảng của thầy Thích Huyền Vi, cũng không thấy nói tới TAM MA ĐỊA là gì. Và mặc dù thầy dày công làm một bảng mục lục định nghĩa từ vựng ở cuối quyển sách, TAM MA ĐỊA vẫn “lọt lưới” . Từ đó tôi mới luận ra rằng, thực ra phép thiền này hiện nay đã thất truyền, chỉ còn cái tên. Vì thế khi các hoà thượng giảng kinh, các ngài phải lờ nó đi, vì thực ra người ta không còn biết thực hành thế nào.

Ở đây tôi không đi vào bình giảng kinh Lăng Nghiêm, kinh này thực ra là kinh nguỵ tạo, tức là do một phât tử ẩn danh Trung Hoa nào đó viết ra, dưới dạng đối thoại phật Thích Ca và ngài A nan đà, cùng các bồ tát. Sở dĩ kinh này được coi là nguỵ tạo, vì nó có phần phê phán đạo Lão. Điều mà phật giáo ở Ấn độ không thể có. Nhưng kỳ lạ hơn, kinh này có cả bản tiếng phạn (sancrit), như vậy nó phải nổi tiếng tới mức được dịch ngược, từ TQ ra Ấn độ. Nhưng về luận của nó thì thật là thâm hậu, nên không thê không coi nó là kinh. Kinh này, tôi nói tóm lược ở đây một phần, dậy người ta tập thiền bằng cách quan tưởng qua các căn chủ yếu là NGHE và NHÌN. Nhưng là cái nhìn nội tâm, cái nghe nội tâm. TAM MA ĐỊA là cách nghe âm thanh nội tâm qua TƯỞNG (tưởng tượng) trong bộ 5 ngũ uấn mà các bác đã biết : SẮC , THỌ, TƯỞNG, HÀNH , THỨC.

Tất nhiên kỹ thuật để thực hiện nó thế nào thì không còn ai biết, và có thể nó rất nguy hiểm, vì làm sao phân biệt được âm thanh nội tâm này với bệnh trạng tâm lý bị điên (tức là bệnh thần kinh), kiểu lúc nào cũng nghe có tiếng nói bên trong đầu đươc.

Tất nhiên, với tôi, cảm nhận ban đầu có thể nó là một loại thiền định bằng cách nhẩm thần chú, “phát âm thầm”, như một cách tụng “nam mô a di đà phật” của tịnh độ, mà tôi cũng sử dụng. Trong trường hợp này, thì nó chỉ là một cách quán tưởng âm thanh. Vấn đề là nó quán tưởng âm thanh nào thì không biết. Có thể là các cụm mantra như “ỐM MA NI PHÁT MÊ HÔNG”, hay “ỐM Á HỒM”, ..v.v.. chăng.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post May 15 2020, 04:45 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #19

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Tới đây đã tới phần cuối tôi định viết trong chủ đề này. Viết nó ra vừa là một cách tự học cho tôi, vì khi viết bắt buộc phải “cơ cấu” lại suy nghĩ, khiến cho những điều mình cảm nhận sẽ sâu sắc hơn. Nó cũng giúp cho những ai muốn tìm hiểu Thiền Vn, Phật giáo VN cùng chia sẻ. Sách vở về phật giáo VN của VN cổ điển không nhiều, và đặc biệt nó rất vắn tắt. Các thiền sư thường chỉ để lại bài kệ cho đệ tử, con cháu, nhưng nếu con cháu mà không tìm hiểu, có vốn phật giáo bên cạnh thì khó cảm nhận được. Cách hồi phục truyền thừa này, tôi viết ở đây cũng như một case study, mọi người có thể sử dụng phương pháp để tìm ra pháp thiền, triết học thiền phù hợp với mình, khi mang các “tâm ấn” còn lại của tổ tiên ta ra ngâm cứu. Phương pháp của nó là đi lại con đường tu học của nhà sư, đặt nó vào trong hoàn cảnh lịch sử, lấy ngay quá trình nhận thức của mình làm vật thí nghiệm, cách này như là đi theo tâm của thiền sư để học hỏi.

Thiền Vạn Hạnh có ảnh hưởng rất lớn với tôi, và là nhân sinh quan thế giới quan tôi muốn tìm hiểu, sử dụng, bởi sư đã kết hợp tam giáo đồng nguyên một cách nhuần nhuyễn, dựa trên cái đế phật giáo.

Với riêng tôi, tôi còn đẩy phần HỮU=TỤC ĐẾ= PHÁT XUẤT TỪ VÔ= NHÂN DUYÊN + DỊCH thêm một bước khi ghép vào đây chủ nghĩa Mác – Lê nin. Vì với tôi chủ nghĩa Mác lê nin, với hai cách biện chứng cùa nó , với các khái niệm giai cấp, mâu thuẫn đối kháng, quan tâm tới các yếu tố kinh tế, .. chính là làm giầu thêm cho phần phân tích tương quan lực lượng, thời thế, vốn là đặc trưng của Mác xít châu Á. Không kể các lý tưởng nhân đạo như từ bi, nhân ,nghĩa chính là những động lực đưa người Đông Á tới chủ nghĩa Mác, tới chủ nghĩa xã hội, tức là một dạng quan tâm tới cộng đồng.
Sư Vạn Hạnh như vậy đã giúp cho tôi một cách thưc săp xếp hệ thống nhận thức rất thú vị.
Còn nếu nói về đặc trưng riêng của Thiền Học cho mình, thì Thiền của sư Vạn Hạnh, do có tác dụng nhập thế qua Nho giáo, bổ xung rất tốt cho Thiền Tào Động, vốn là một hình thức Thiền trọng vấn đề TÂM, ĐỊNH TÂM, TOẠ THIỀN (chỉ quán đả toạ), ứng dụng được trong đời sống thường. Bản thân Thiền Quán Bích cũng là dòng thiền TÂM, vì Tổ Đạt Ma ấn chứng bằng kinh Lăng Già, là kinh phân tích vấn đề TÂM. Như vậy tự tôi nhận thức kế tục cả ba dòng Thiền : Tào Động, Quán Bích, và Trúc Lâm thông qua ứng dụng của TÂM.

Một người phật tử VN có thể kế tục nhiều dòng thiền được không ? Tất nhiên chẳng có vấn đề gì, vấn đề duy nhất là người ấy phải tìm ra được một cái đế chung, một cái mẫu số chung để kết hợp chúng với nhau, và đặc biệt phải xem, mỗi tông phái mang lại nhận thức gì, giúp mình ngộ phật, ứng dụng thế nào. Vấn đề kế thừa nhiều môn phái này, trong mật tông Tây tạng người ta đã làm từ lâu, ví dụ ngài Kalou Rimpoche, mà tôi đọc quyển sách phật giáo tiếng Pháp đầu tiên, là người kế thừa (có ấn chứng hẳn hoi) nhiều tông phái của mật tông tây tạng, bởi nếu không làm thế, thì sẽ có những tông phái rơi vào quên lãng, trong khi nó rất quý báu.

Ở VN hiện tạiđâu đâu cũng nói tới thiền Trúc Lâm, nhưng tôi không rõ sự kế thừa của môn phái thế nào, hay nó chỉ còn là cái cớ “tự ti dân tộc”, là một dạng Trade mark để lấy cớ xây chùa. Không kể còn nhưng dòng Thiền khác trong lịch sử phật giáo VN . Xây chùa là việc rất khó, không phải ai cũng làm được. Nhưng xây chùa cũng như làm bia đá. Cần phải có cả “bia miệng” nữa. Đó là cần phải kế tục giáo lý, nhân sinh quan thế giới quan của tổ tiên. Điều này thì ai cũng làm được và nên làm.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post May 15 2020, 04:46 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #20

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Một vài dòng cuối cho thầy Nguyễn Đăng Thục. Người ta có thể đặt câu hỏi, tại sao tôi phê phán thế mà lại gọi học giả Nguyễn Đăng Thục là thầy. Bởi vì tôi kinh trọng ông, với tôi ông là một nhà Nho thanh bần, có khí tiết, dù là giảng dậy phật giáo. Còn tại sao tôi biết ông thanh bần, thì vì biết cô con gái đầu lòng của thầy, cô bây giờ cũng đã hơn 70, sinh sống ở Pháp. Sau năm 1975, ông vẫn còn viêt sách, và quyển có lẽ cuối cùng của thầy là quyển về Nguyễn Công Trứ, quyển này được con gái thầy đưa in, và do tình cờ tôi cũng có một quyển. Mặc dù cuộc đời của ông liên quan tới giảng dậy phật giáo, thực ra ông vẫn là nhà Nho. Còn vấn đề kiến thức thì, một người thầy có thể truyền cho ta kiến thức, cũng có thể làm cho ta có những thắc mắc, tạo gợi mở. Với tôi quyển “Thiền của Vạn Hạnh” nếu không chính xác về nhà sư, thì lại cung cấp cho tôi những kiến thức khác, không liên quan tới sư, nhưng vẫn bổ ích.

Cuối cùng là cái tên của chủ đề. Tôi đặt chủ đề Thiền của Vạn Hạnh vừa là tên quyển sách vừa là để nói về tư duy của nhà sư, nhân dịp nhập thất bắt buộc do cách ly cô vi. Học phật là điều tôi vẫn làm. Tôi nói học mà không nói tu, vì tôi muốn ứng dụng phật giáo trong đời thường, không phải lấy đời thường ứng dụng cho phật giáo. Nhưng tôi tin rằng, nếu mình học, ứng dụng những nhân sinh quan, thế giới quan phật giáo vào đời thường, thì việc thực hành này có giá trị không khác gì tu, nhưng không phải là tu mà chỉ là học.

Thế còn tán phét. Trong thiền không trọng văn tự, cho nên văn tự chỉ là thứ tán phét. Tất nhiên có người sẽ hỏi “bác Phó nói thế, sau bác lao đầu vào chú giải từng ký tự như thế, vậy đấy không phải là chấp chữ thì là cái gì ?” Câu trả lời của tôi là, Những chữ ấy, ý nghĩa ây như vật dụng tạo con thuyền giúp ta vượt sông. Đang ở giữa sông thì con thuyền phải chắc mới vượt được sóng gió, con thuyền chỉ chắc khi vật dụng tạo ra nó phải có chất lượng,. khi nào lên tới bờ mới vứt được, nếu không muốn ..chết đuối. Vì thế tán phét không phải là tán phét mà cũng là tán phét. Đấy là ý nghĩa tại sao tôi gọi chủ để này là “Thiền của Vạn Hạnh , hay là nhập thất, học phật, tán phét”.

Viết vào mùa phật đản, dịch Cô vy 2020


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
« Bài viết cũ hơn · Thiền Học & Tôn Giáo · Bài mới tiếp theo »
 

3 Trang < 1 2 3 >
Topic Options
1 người đang chống cằm trầm tư ngâm cứu chủ đề này (1 khách vãng lai và 0 thầy mo tàng hình)
0 Thành viên:
 

Xem diễn đàn ở dạng TEXT - PDA - Pocket PC