Chào bác, trông cái mặt bác quen quen ( Đăng nhập | Đăng ký tạm trú )

4 Trang  1 2 3 > »  

· [ ] ·

 Việt Nam Hôm Nay Và Ngày Mai, nhận định về VN của các trí thức Tây học

Phó Thường Nhân
post Dec 29 2022, 09:20 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #1

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Vừa rồi kiếm được quyển sách là tập hợp các bài viết của các trí thức VN đương đại hơi « ngoài luồng », mặc dù có nhiều trí thức ở trong nước và cả trí thức ở nước ngoài, và trong số họ có nhiều người đã từng nằm trong tổ tư vấn của các thủ tướng VN như ông Võ Văn Kiệt. Tên quyển sách là « Việt nam hôm nay và ngày mai », chủ biên Trần văn Thọ & Nguyễn xuân Xanh. Một ông là giáo sư ở Nhật (ông Thọ), một ông là học ở Đức nhưng sinh sống ở VN(ông Xanh). Hiện tại tôi mới đọc bài đầu tiên, của ông Huỳnh Bảo Sơn nói về lịch sử VN, tên nó là « đoàn kết để cường thịnh, từ quá khứ nhìn về tương lai ». Cái nhìn về quá khứ của ông Sơn, tức là tìm một cái lô gic của lịch sử VN, tinh thần dân tộc của người Việt được đánh giá theo một cặp phạm trù đó là chính danh và vai trò của giới tinh hoa. Theo đó thì nhà nước VN sẽ mạnh khi nhà nước có chính danh, đồng thời giới tinh hoa không bị xuy đồi tan rã. Trong trường hợp nhà nước không có chính danh, giới tinh hoa xuy đồi thì sẽ dẫn tới nội chiến, phân rã như thời Lê-Mạc, hay thời Trịnh-Nguyễn. Cũng theo ông Sơn, thì chính danh chính trị ở VN là chiến thắng các triều đại TQ xâm lược, và mệnh trời. Còn với giới tinh hoa (có thể tạm gọi là trí thức), thì ông ấy đánh giá xuy đồi là khi cái học không còn có tác dụng thực tế, và giới tinh hoa không biết dựa vào ai (tức là thế lực chính trị nào) để phát triển tài năng.
Bài viết như vậy là rất thú vị, vì rõ ràng ở đây tác giả đã vận dụng tư duy của mình, tìm hiểu theo nhận thức của mình, điểm rất cần thiết của một trí thức nhưng yếu điểm rõ rệt nhất của nó với tôi đó là sự hời hợt, nông cạn, xuy diễn. Càng thú vị hơn khi thấy tác giả dẫn những cuốn sách tư liệu dẫn tới bài viết.Trong đó tôi dẫn ở đây tất cả, vì cái danh sách của nó không dài. Đó là cuốn lịch sử VN của ông Đào Duy Anh, cuốn VN sử lược của Trần Trọng Kim, cuốn tâm lý người An nam của Paul Giran, một học giả pháp thuộc địa, Hoàng Lê Nhất thống chí, Vua Gia long và người Pháp, rồi giấc mơ TQ của Lưu minh Phúc. Tôi không được đọc cuốn vua Gia Long và người Pháp, cũng như cuốn tâm lý người An nam. Nhưng chỉ nhìn qua cái danh sách này, cũng thấy nhận thức lịch sử của tác giả đóng khung lại trong các tác phẩm thời Pháp thuộc, đó là cách nhìn lịch sử VN từ thời thuộc địa, dù cuốn sử của Đào Duy Anh có ứng dụng tư duy của duy vật lịch sử. Sử dụng một tác giả thuộc địa Pháp, thường có đầy định kiến thực dân để nghiên cứu tâm lý dân tộc Việt cũng là điều kỳ lạ, đặc biệt đây là một tác giả thời thực dân nên làm sao nó có thể nhìn người Việt một cách chính xác, nếu không nói là đầy rẫy kỳ thị.
Tất nhiên ta không thể đánh giá bài viết đơn giản qua cái danh sách sách tham khảo, cho nên tôi sẽ phân tích trực tiếp ở đây nhưng quan niệm của tác giả.
1- Tác giả quan niệm rằng, người Việt đã từ đất TQ di cư vào VN. Đây là nhận thức có từ thời Pháp thuộc, và nó cũng xuy diễn ra từ sự tích con cháu Lạc Hồng của các nhà Nho. Theo đó thì Lạc Long Quân gặp Âu Cơ ở hồ Động Đình (tức là vùng gần Thượng Hải ngày nay). Và để giải thích tại sao ta lại ở đồng bằng sông Hồng thì phải..di cư. Quan niệm này được chấp nhận trong các sách vở phổ thông thời thuộc Pháp, rồi được chính quyền miền Nam cũ bê vào sách lịch sử tiểu học. Nhưng quan niệm này là sai. Nó đã được các nhà sử học miền Bắc phân tích từ những thập niên 60, khi nghiên cứu các thần thoại Tầy-Nùng và cấu trúc xã hội ở vùng Việt Bắc. Tôi chỉ tóm gọn nó ở đây. Về truyền thống văn hóa lịch sử, người Việt nam (tôi muốn nói tộc người đông nhất là người Kinh) phát xuất từ đồng bằng sông Hồng, và tổ tiên ta không đi đâu cả. Văn minh đồng bằng sông Hồng lan tỏa, ảnh hưởng vươn lên bao gồm các tộc người khác (dẫn tới một đại gia đình tộc người với 54 sắc tộc hiện nay). Một trong những tộc người đầu tiên kết hợp với người Việt ở đồng bằng sông Hồng là nhóm Tầy Nùng. Nói gọn lại ta có thể quan niệm Lạc Việt là cư dân đồng bằng sông Hồng, Âu Việt là cư dân ở vùng Việt Bắc, chủ yếu là nhóm Tầy Nùng. Như vậy nhà nước Văn Lang là một dạng liên minh bộ lạc Lạc Việt. Nhà nước Âu Lạc với thành Cổ loa là nhà nước liên minh Âu Việt và Lạc Việt. Câu chuyện người Việt bị người Hán đánh đuổi chạy vào VN là fake.
Thời thuộc Pháp, điều này được đưa vào lịch sử thực ra là để nhằm nhụt chí tinh thần yêu nước của người Việt, vì theo đó thì đất VN có phải của ông đâu, ông cũng là dân di cư vào thôi. Người Pháp chiếm VN bây giờ cũng như tổ tiên người việt xâm thực đất việt, như vậy là hòa. Sự khác nhau chỉ là thời gian.
Điều phải giải quyết nữa đó là tại sao các nhà Nho VN lại có quan niệm ấy. Các cụ có quan niệm ấy vì lòng tự hào dân tộc. Ở TQ, lịch sử bắt đầu bằng Tam Hoàng, Ngũ Đế, có thể coi như thủa mới khai sinh trái đất. Cũng theo mô hình ấy các nhà Nho đưa Thần Nông, là một trong ngũ đế (nếu tôi nhớ không nhầm) là ông tổ của người Việt. Điều thú vị là mặc dù Lạc Long quân gặp Âu Cơ ở Hồ Động đình, thì con cả là vua Hùng lại đóng đô ở Việt trì. Để giải thích điều này thì có lý do là Bách Việt, đồng với trăm trứng. Và từ đó hình thành quan niệm đất Việt trải dài từ miền nam sông Trường Giang tới Bắc VN là địa bàn của Bách Việt.
Nhưng khái niệm Bách Việt trong thực tế giống như khái niệm người da đỏ ở châu Mỹ, một bộ tộc da đỏ ở Bắc Mỹ có liên quan gì tới một bộ tộc da đỏ ở vùng sông Amazone (Brazil). Người Việt ở VN với người Việt trong lục địa TQ cũng vậy.
Nếu ta chịu khó sử dụng cả những nhận thức về khảo cổ, thì còn thấy nhiều điều thú vị hơn. Đó là người Việt nam không những là đứa con của nền văn minh sông Hồng mà là đứa con của một nền văn minh sông Hồng và sông Mã. Vào thời điểm nhà Hán đặt ách cai trị ở VN, hai vùng đất này vẫn còn có nhiều khác biệt, vì thế nhà Hán mới lập ra hai quận là Giao Chỉ và Cửu Chân, trong đó đất Cửu Chân rất nhỏ, như vậy tại sao nó không sát nhập làm 1 mà lại chia hai, đặc biệt Giao Chỉ thời Hán bao gồm cả một phần đất Âu lạc tức là phần Việt Bắc trở vào phía nam Quảng Đông Quảng Tây là nơi cư trú của các tộc Tầy Nùng rất khổng lồ so với Cửu chân bé tí..
Tôi sẽ không đi sâu vào vấn đề này, vì đây không phải là nội dung tôi định viết. Chỉ tóm gọn thế này. Người Việt Nam luôn luôn sinh sống ở đồng bằng sông Hồng, đây là cái nôi của Lạc việt. Lạc Việt kết hợp với Âu Việt, tức là vùng cư dân của đồng bào Tầy Nùng tạo thành địa dư của nước VN khởi thủy. Nhưng không chỉ có thế, nó còn kết hợp với văn minh sông Mã (Đông Sơn) để hình thành lên nước VN ngày nay.
(còn tiep)


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post Dec 30 2022, 10:06 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #2

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



2- Quan niệm sai lầm về quan hệ VN-TQ trong lịch sử. Tác giả, cũng như phần lớn các học giả khác bị formatted bởi sách vở phương Tây đã mắc kẹt trong quan niệm « thụ phong », « triều cống » giữa nhà nước phong kiến VN và TQ. Theo ông Sơn thì một triều đại VN chỉ có thể chính danh khi đánh thắng phong kiến TQ, đồng thời lại phải nhận vai trò chư hầu, chịu tấn phong bởi nhà nước này.
Đầu tiên là nói về vai trò chính danh của các triều đại VN. Mặc dù TQ xâm lược VN nhiều lần trong lịch sử, có thể tính khoảng 100 năm sẽ có một lần, chỉ có 2 triều đại VN đó là Tiền Lê (Lê Đại Hành) và Hậu Lê (Lê lợi) là đúng với nhận xét này. Lê Đại Hành tức Lê Hoàn là tướng thống linh quân đội triều nhà Đinh (tương đương với bộ trưởng bộ quốc phòng ngày này), đã được triều đình nhà Đinh đưa lên ngôi để đánh quân Tống xâm lược (Hầu Nhân Bảo). Còn Lê Lợi thì lập ra nhà Hậu Lê sau kháng chiến chống quân Minh thắng lợi. Ngay cả Ngô Quyền cũng không chính danh bằng chuyện này, vì ông đã đánh bại quân Nam Hán, là một triều đại cát cứ ở Quảng Đông, dù chiến thắng của ông vào năm 939, đã mở ra kỷ nguyên độc lập của VN.
Tất cả các triều đại khác, từ Lý, Trần, Đinh, .. đều kháng chiến chống các triều đại TQ đương thời, nhưng khi nó đã nắm quyền chính danh rồi chứ không phải .. ngồi chờ kháng chiến chống TQ để chính danh. Thậm chí có cả triều đại như nhà Nguyễn, không có chiến tranh với TQ, dù triều đại này « hưởng sái » thắng lợi lịch sử của quân Tây sơn đánh bại quân Thanh.
Nếu nhìn kỹ nữa, thì ta sẽ thấy mỗi lần chiến tranh đều có sự khác biệt, ví dụ cuộc kháng chiến chống quân Tống của nhà Lý không đơn giản là một cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà nó còn là sự chia cắt phần đất Âu Việt (tức là phần Việt Bắc, nam quang Tây quảng đông với TQ), vì thế mới có việc Lý thường Kiệt đánh thành Nam ninh. Nhà Trần đã chính danh thông qua việc đưa Lý Chiêu Hoàng vào chùa, chứ không phải đợi đến cả chục năm sau khi đánh quân Nguyên lần thứ nhất mới chinh danh. Gần ta hơn cả, nước VN dân chủ cộng hòa, tiền thân của nước VN hiện đại đã ra đời trong kháng chiến chống Pháp, rồi Mỹ từ năm 1945, đâu có phải đợi tới năm 1979 để .. chính danh vì chiến tranh bảo vệ biên giới.
Như vậy một nhà nước VN chính danh là nhà nước bảo vệ độc lập dân tộc thực sự, và có khả năng bảo vệ nền độc lập ấy. Do TQ là một nước láng giềng lớn, do chính sách bành trướng của các triều đại TQ mà kháng chiến chống sự xâm lược của TQ hay xẩy ra. Nhưng TQ không phải là nước duy nhất đe dọa VN, gần đây nhất Pháp và Mỹ đã từng xâm lược, thống trị VN là một ví dụ.
Cách nhìn nhận của ông Sơn, do ảnh hưởng của các quyển sử kiểu Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim đã đưa người ta tới những kết luận nguy hiểm. Đó là dân tộc VN tồn tại vì đối kháng với TQ, từ đó có thể xuy ra là TQ là kẻ thù truyền kiếp. Nếu đã là kẻ thù truyền kiếp thì phải tiêu diệt được TQ hay nhờ một nước khác chống lưng cho để tồn tại. Không phải ngẫu nhiên mà quyển VN sử lược là quyển sử thời Pháp thuộc, vì ngầm ý của nó là nhờ có Pháp VN mới thoát khỏi bàn tay TQ, trong khi VN độc lập từ năm 939. Tư duy của quyển sử này cũng phù hợp với chế độ miền Nam về sau từ thời 1954 tới 1975, vì vai trò của Pháp được chuyển cho Mỹ, đồng thời nó cũng phù hợp với tuyên truyền của miền Nam là cuộc kháng chiến chống Mỹ là của « Nga Xô Trung cộng ».
Cách nhìn được bú mớm bởi phương Tây này (ở đây là thực dân Pháp), dù được một ông tên là Trần Trọng Kim viết ra, và nhân vật này đã từng lập chính phủ thân Nhật chống Pháp, cũng không thể xóa được cái điều là ông ta bị formatted bởi người Pháp. Ta cũng có thể trân trọng ông ấy (đây là thái độ của tôi) rằng trong hoàn cảnh ấy, ông ấy phải viết như thế, như một dạng mập mờ để khích động tinh thần yêu nước của người Việt. Nhưng hiện nay, khi nhà nước VN đã độc lập, thì sự mập mờ này phải được làm sáng tỏ, không nên sa vào. Trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ, bảo vệ biên giới, người VN đã chứng tỏ lòng yêu nước của mình, đây là lúc cần gạt đi những nọc độc mà sự mập mờ này tạo ra dù là có ý thức hay vô ý thức.
(còn tiếp)


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post Jan 1 2023, 10:34 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #3

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Một điều nữa tác giả cũng nhầm lẫn, đó là việc đánh giá việc « thụ phong », « triều cống », như một dạng phụ thuộc của VN vào TQ. Vấn đề « triều cống » này tôi đã từng nói tới. Để hiểu thực chất mối quan hệ ngoại giao này thế nào, thì điều quan trọng nhất là phải xem nó được thực thi thể hiện thế nào trong lịch sử, chứ không nên mắc kẹt vào ngôn ngữ rồi xuy diễn nó ra. Lấy một ví dụ gần ta hơn. Chế độ miền Nam (VN cộng hòa) 1954-1975 cũ là một thực thể do Mỹ dựng lên, hoàn toàn phụ thuộc vào Mỹ. Nhưng đố các bác tìm được trong các văn bản tài liệu được ký kết giữa chế độ này với Mỹ chứng tỏ nó phụ thuộc vào Mỹ. Chính vì thế phải xét theo cách thức nó được đưa vào thực tế, úng dụng ra sao mới quan trọng.
Trong thực tế, triều cống và thụ phong chỉ là ngôn ngữ ngoại giao giữa chế độ phong kiến Trung quốc với các nước láng giềng. Khác với từ vựng dẫn tới xuy diễn nhầm lẫn, nó là sự chứng tỏ việc nhà nước phong kiến TQ không thể, không có quyền lực gì với những vùng đất và vương quốc này. Như tôi đã nói, khi triều cống thì bên nhận cũng phải « lại quả » để chứng tỏ mình là « ông chủ », không « mất mặt », nó là một trao đổi có dạng thương mại.
Do vị thế địa lý xa xôi, các lần triều cống của VN rất ít (so với nhà nước phong kiến trên bán đảo Triều tiên) chẳng hạn. Thậm chí các vường triều Triều Tiên còn đi cống nhiều hơn, để mỗi lần triều cống ấy là được lại quả, đồng thời có thể buôn bán, thương mại, trao đổi, tìm các kỹ thuật mới. Có nước không được triều cống (như Nhật bản) thì thường lợi dụng việc trao đổi về phật giáo để làm việc này.
Trong 3 nước nằm trong thế giới Nho giáo (VN, Triều tiên, Nhật bản), thì VN là nước ít có quan hệ với TQ nhất, vì VN còn có một nguồn trao đổi nữa đó là với các tiểu quốc như Cham pa. Điều mà hai nước còn lại không có.
Mỗi khi trong xã hội VN có loạn lạc, do mâu thuẫn chính trị xã hội gây ra, thì TQ lại xâm lược VN. Nếu quả thực nền độc lập của VN chỉ là một thứ chư hầu, có nghĩa là TQ chi phối được hết cả (như Mỹ chi phối chính quyền miền Nam ngày trước), thì nó việc gì phải xâm lược. Nếu đọc lịch sử VN, người ta sẽ thấy không bao giờ có chuyện chính quyền TQ đặt được một nhân vật lên làm vua, giống như Mỹ dựng lên Ngô Đình Diệm hay Nguyễn văn Thiệu, mà luôn phải chấp nhận chuyện đã rồi.
Như vậy nước VN luôn độc lập với TQ, và do cần các quan hệ kinh tế, chính trị mà VN nhận « thụ phong », « triều cống » tức là thiết lập quan hệ ngoại giao với TQ. Như vậy ở đây không có hai điều mà phương Tây cố gắng đưa vào từ thời thuộc địa đó là :
1- VN luôn phải đánh nhau với TQ để chính danh.
2- VN phải chịu làm chư hầu TQ vì sợ họ đánh.
Trong thực tế, chính danh của các triều đại VN là do nhận thức dân tộc, và nhận thức cộng đồng đã tồn tại rất sớm, và vì thế luôn có xung đột với các triều đại TQ muốn mở rộng bờ cõi của họ. Quan hệ ngoại giao của VN với TQ không phải là quan hệ chư hầu (giống như quan hệ Mỹ với chính quyền miền Nam), nó là quan hệ ngoại giao thông thường giữa hai thực thể, nhà nước độc lập.
Khi đọc lịch sử của các nhà Nho VN viết, vì họ là những sử gia truyền thống của dân tộc, ta hoàn toàn không thấy mùi vị « đối địch TQ », là « chư hầu » này. Dạng nhận thức này chỉ tồn tại ở VN từ thời thực dân Pháp, trong một chính sách chính trị chia để trị, « tạo nghêu tạo sò » để họ thủ lợi với vai trò ngư ông. Nó cũng tiếp tục được các chế độ là chư hầu thực sự (với Mỹ với Pháp) ôm lấy vì nó cũng phục vụ lợi ích cho các nhóm người này. Từ khi có đổi mới, thì thứ tư duy thực dân này lại quay trở lại núp bóng « tư duy đổi mới » « cải cách », trong khi nó chỉ là sao chép, xào xáo lại tuyên truyền của chế độ thực dân Pháp, và cái đuôi của nó là chế độ miền Nam cũ tạo ra.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post Jan 2 2023, 10:35 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #4

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Do bài viết nói tới sự đoàn kết dân tộc, và bất chấp mọi sai sót trong nhận thức của tác giả như tôi nói ở trên, tác giả cũng khẳng định được đoàn kết dân tộc là điều kiện cần để phát triển đất nước, có điều lô gic tác giả muốn sử dụng để đoàn kết lại sai, vì nó là lô gic chống TQ toàn phần, lấy chống TQ làm cơ sở đoàn kết (vì các triều đại ở VN đều chính danh do chống TQ thành công). Nhưng cũng từ ý tưởng đoàn kết mà tác giả tìm cách phân tích những hình thái cát cứ trong lịch sử VN, bắt đầu từ thời Hậu Lê, với các cuộc xung đột Lê-Mạc, Trịnh-Mạc, Trịnh – Nguyễn. Không hiểu sao tác giả không đề cập tới việc Pháp chia VN thành ba nước, rồi Mỹ muốn chia VN làm 2 nước. Như tôi đã nói từ đầu, tác giả quan niệm có sự chia cắt cát cứ này vì không có chính danh và tầng lớp tinh hoa không biết dựa vào ai để phục vụ. Với tôi rất đáng tiếc là những phân tích này của tác giả cũng sai toàn tập. Chính xác hơn nữa, việc mất phương hướng của giới tinh hoa (tức là tầng lớp trí thức), cũng như việc chính danh lu mờ là hệ quả, là hiệu ứng phụ của một quá trình cát cứ chia cắt chứ nó không phải nguyên nhân.
Như tôi đã từng nói ở trong forum này, có lẽ cả chục năm trước, đó là nếu lấy lịch sử VN từ thời Hậu Lê, thì thời gian VN thống nhất là rất ngắn, ngắn hơn nhiều thời gian bị chia cắt. Từ thời kỳ này, chỉ có 2 lần nước VN thống nhất đó là nhà Nguyễn (khoảng 100 năm tính tới đời Tự Đức) và nhà nước VN hiện tại từ năm 1975. Trên một độ dài lịch sử khoảng 400 năm, sự thống nhất bởi một nhà nước VN thống nhất chỉ khoảng 150 năm. Ngay vào thời nhà Nguyễn, triều đại này cũng vấp phải những sự phản ứng vùng miền như ở ngoài Bắc (do tinh thần phù Lê đểu), hay ở miền Nam (nội loạn Lê văn Khôi ở Sài gòn). Sau lưng những vụ nội loạn này nhiều khi có bóng dáng của giáo sĩ thiên chúa giáo, mà khởi nghĩa Lê Duy Mật ở ngoài bắc, và nội loạn Lê văn Khôi ở Sài gòn là những ví dụ điển hình.Hệ quả của vấn đề này đó là ở VN dù có một tinh thần dân tộc, các truyền thống vùng miền vẫn rất mạnh. Như vậy phải làm sao để « thống nhất trong đa dạng » (như bây giờ vẫn nói), để sự đa dạng làm giầu thêm văn hóa, nhưng không thể bị lợi dụng để chia cắt đất nước.
Hãy phân tích vấn đề chính danh. Một nhà nước VN chính danh là nhà nước bảo vệ được chủ quyền và tổ chức được sự phát triển đất nước, để cho tất cả cộng đồng dân tộc đều được hưởng. Nhưng chính danh chỉ là điều kiện cần, là đầu mối để tập hợp lực lượng. Nếu lực lượng này không đủ sức, thì dù có chính danh cũng không làm được gì. Chế độ thực dân Pháp ở VN, chế độ miền Nam cũ không có chính danh nhưng nó vẫn có thể tồn tại. Các nhà Nho phân biệt điều này rất rõ. Nếu có chính danh thì đó là vương đạo, là chế độ của thánh hiền. Nếu không có chính danh, thì nó là bá đạo. Chế độ thực dân Pháp, chế độ Ngô Đình Diệm là những chế độ bá đạo điển hình, chế độ Nguyễn Văn Thiệu dù không còn man rợ như chế độ Ngô Đình Diệm cũng không phải là chế độ chính danh, do nó hoàn toàn bị điểu khiển bởi người Mỹ. Như vậy một nhà nước sẽ lâm vào cảnh chia cắt khi chính danh không có sức mạnh tổ chức để bảo vệ nó. Ta có thể thấy điều này trong trường hợp xung đột Lê-Mạc. Nhà Lê có chính danh, nhưng quyền lực nằm trong tay Mạc Đăng Dung dẫn tới xung đột do Mạc Đăng Dung, hay nhà Mạc không đại diện được cho toàn bộ dân tộc mà chỉ là một lợi ích nhóm cát cứ. Khi Trịnh Nguyễn phân tranh thì cả hai đều lấy chính danh là phù Lê để thực hiện lợi ích riêng. Như vậy việc thiếu đi một cơ cấu tổ chức về quyền lực để đảm bảo cho chính danh có thể tồn tại là nguyên nhân tạo ra loạn lạc.
Chính vì biết điều này, mà khi vua Gia Long Nguyễn Ánh lên ngôi, vua đã bãi bỏ chức tể tướng (tương đương với thủ tướng hiện tại) để quyền điều hành và quyền chính danh chỉ là một người, chính vì thế triều nhà Nguyễn không có cát cứ. Chế độ của nhà Nguyễn đã hoàn thiện tới đỉnh điểm với triều đại của vua Minh Mạng. Và không phải ngẫu nhiên, thời Minh Mạng là đỉnh cao của chế độ phong kiến tập quyền VN. Giống như cái đỉnh maximum của hàm số parabol trong toán học.
Cách đây mấy năm, trước khi thủ tướng Dũng « nghỉ hưu chế độ », tôi đã từng nói vào thời điểm này VN dường như đã xuất hiện chế độ Vua Lê chúa Trịnh. Nguyên nhân ? do đảng không còn bàn tay cơ chế điều khiển nhân sự là ủy ban kiểm tra trung ương nữa, do nó bị giải tán, đồng thời tổ chức chống tham nhũng lại rơi vào tay thủ tướng. Cũng vào thời gian này, các « trí sĩ dân chủ » (hiểu là muốn đa đảng) cứ ngoạc mồm ra nói rằng một đảng là « vừa đá bóng vừa thổi còi », nhưng chính việc đảng bỏ rơi nhiệm vụ kiểm tra, đã khiến xẩy ra tình trạng vừa đá bóng vừa thổi còi, chính danh không có cơ chế để thực hiện thì tất nhiên hình thái Vua Lê Chúa Trịnh xuất hiện làm mờ nhạt chính danh đi.
Nhưng việc chính danh phải có cơ chế để sử dụng chính danh không đủ, mà còn có vấn đề khác là cát cứ (với từ mới thì ta gọi là địa phương chủ nghĩa). Cát cứ thường xẩy ra trong một chế độ có truyền thống hành chính lâu đời như các nước ở Đông Á, mà VN là một nước như thế. Cát cứ xẩy ra nếu lợi ích nhóm kinh tế trùng với quyền lực hành chính địa phương. Hiện tại ở VN có từ « trên nóng dưới lạnh », « trên có quyết sách dưới có đối sách » chính là chỉ điều này. Việc này xẩy ra vì ở VN, như tôi đã nói ở trên có một truyền thống địa phương vùng miền mạnh, đồng thời thị trường toàn quốc không đều. Ở VN không có một thị trường dân tộc thống nhất mà là nhiều thị trường đồng tồn tại, gắn với một trung tâm kinh tế như thành phố HCM, hay Hà nội. Đây là một vấn đề lịch sử, cũng như là quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt kinh tế nhằm vào xuất khẩu. Do khi kinh tế xuất nhập khẩu là chính, địa điểm sản xuất sẽ gắn bó với thị trường tiêu thụ hàng hóa của nó hơn, tức là không phải VN, chứ không tạo ra gắn kết vùng miền trong một nước. Vì thế phát triển thị trường nội địa cho doanh nghiệp VN là một cách chữa chạy cơ bản vấn đề cát cứ này.
Trong khi chờ đợi một thị trường thống nhất toàn quốc hướng nội, có sức mạnh hơn, để đập tan sự cát cứ, phải có chính sách điều khiển nhân sự địa phương không để chúng bám rễ vào một nơi cố định, tạo dưng nên một đế chế địa phương. Lấy một ví dụ ngay trước mắt. Hiện tại báo chí VN cú thỉnh thoảng lại thập thò đưa ra vấn đề lập một thứ chính quyền địa phương đặc biệt, mà họ gọi là chế độ thị trưởng cho thành phố HCM. Do không có thông tin, tôi không rõ bản chất của kiểu quản lý này là gì. Nhưng nếu nó là một thứ tự trị, bầu bán tại chỗ, Trung ương không can thiệp được, thì chắc chắn dẫn tới cát cứ. Tại sao ? vì hiện tại với vai trò đầu tầu xuất khẩu, quan hệ giữa TP HCM với các tỉnh khác ở Nam Bộ là một quan hệ thuộc địa. Nó hút máu mỡ của Nam Bộ vào đây mà không có sự lại quả. Sự lại quả thực ra đã được thực hiện qua việc đóng thuế cho nhà nước, để rồi từ đó nhà nước phân chia lại. Nếu bây giờ cái đường dây ấy bị cắt đứt, do lợi ích cá thể của thành phố này tạo ra và có thể thổi bùng lên, thì sẽ dẫn tới cát cứ.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
root
post Jan 3 2023, 08:43 AM    
Đường dẫn tới bài viết này #5

Một người gắn bó và đang xây dựng VENOnline ngày một tốt đẹp hơn
Group Icon

Nhóm: Lý trưởng
Số bài viết: 1.935
Tham gia từ: 12-August 02
Thành viên thứ: 140

Tiền mặt hiện có : 52.125$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Nói chung ông nào có tư tưởng bài Tàu là dốt rồi, không cần phải đọc thêm sách của ông đó làm gì cho mất công. Tàu chính là kho nguyên liệu và là thị trường xuất khẩu lớn nhất của VN. VN có may mắn là ở cạnh Tàu, giao thương đường bộ cực kỳ tiện lợi. Nếu Tàu mà lên được thì VN cũng sẽ lên theo, nên mừng mới phải!

Bài viết này được sửa chữa mông má bởi root: Jan 3 2023, 08:45 AM


--------------------
Cuộc đời không có phím undo!



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post Jan 4 2023, 06:13 AM    
Đường dẫn tới bài viết này #6

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



@root,
Nhận xét của root hơi cực đoan. Quyển sách mà tôi lấy làm đầu đề chủ đề này để .. bình loạn xuất bản cũng gần đây 2020. Điều thú vị của nó đó là sự tập hợp các bài viết của nhiều trí thức, có thể gọi là trí thức của xã hội dân sự, vì họ không phải là những người lãnh đạo cầm chịch nền kinh tế, cơ sở sản xuất ở VN hiện tại, nhận thức của họ là nhận thức tư vấn, có tính chất chủ quan, mặc dù có người đã từng là tư vấn của ông Kiệt, hay của chủ tịch nước VN hiện tại. Điều thú vị nhất với tôi đó là sự tập hợp của các diện mạo trí thức khác nhau ở VN và nước ngoài, và khi đọc họ thì điều đầu tiên tôi nghĩ tới đó là vấn đề « phi phương tây hóa nhận thức » (tiếng Pháp desoccidentalisation). Phi phương Tây hóa nhận thức không phải là đưa ra một nhận thức chống các giá trị văn hóa của phương Tây, mà phải vượt lên trên nó để tìm hiểu tại sao nó lại nói thế, vì lý do gì, nguyên nhân ra sao.. và từ đó mới có thể đổi hệ quy chiếu, như tôi đã từng nói. Tại sao lại có vấn đề phi phương tây hóa nhận thức mà không phải là phi trung quốc, hay phi Nga, .. bởi vì càng ngày số lượng người việt học tập, sinh hoạt, trao đổi với phương tây càng cao, .. áp lực của tuyên truyền phương tây ngày càng lớn, và tất nhiên việc những người nhận họ là trí thức sẽ vay mượn cái nhìn của phương Tây một cách ý thức hay vô y thức càng nhiều.
Hiện tại lối sống phương Tây, hay hướng theo « chuẩn phương Tây » ở VN ngày càng nhiều, ngay ở Hà nội, chỉ cần root tới các khu chung cư cao cấp kiểu Time city, Royal city, là sẽ thấy một không gian fake kiểu phương Tây được tạo ra một cách cố ý để câu khách. Một phương Tây, được nhìn qua con mắt tầng lớp khá giả ở VN. Hình thức fake này không đáng ngại, dù họ đã nhầm hiện đại hóa là âu hóa. Nhưng nếu nhận thức con người cũng méo mó ngộ nhận như cái cảnh quan fake phương Tây này tạo ra thì lại nguy hiểm.
Trong tập sách mà tôi đang bình loạn, không phải tác giả nào trí thức nào cũng thế, và cũng có những bài viết hay, thường là bài viết có tính chuyên môn, còn nếu về nhận thức chúng, thì nhiều khi nhận thức của họ kiểu phương Tây cũng fake như cảnh quan phương Tây ở mấy cái chung cư mà tôi nói ở trên. (tất nhiên là theo nhận xét chủ quan của tôi).


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post Jan 5 2023, 10:35 PM    
Đường dẫn tới bài viết này #7

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Tôi tiếp tục phân tích bài viết đầu tiên của quyển sách, nhưng không phải bài viết nào trong quyển sách này tôi sẽ phân tích dài hơi như thế này, đây chỉ là sự tình cờ mà thôi. Toàn bộ cuốn sách có khoảng 3,4 bài viết sẽ được tôi phân tích kỹ như thế này.
Tiếp tục về vấn đề cát cứ. Tóm lại muốn tìm hiểu cơ chế cát cứ, chia rẽ ở VN thì phải tìm hiểu trong cơ cấu tổ chức, mối quan hệ giữa quyền lực địa phương và trung ương, lợi ích nhóm, mối quan hệ giữa quyền lực trung ương, lợi ích nhóm đồng thời dị biệt vùng miền. Nếu những điều này trùng với nhau lợi dụng được nhau kiểu (lợi ích nhóm = chính quyền địa phương= dị biệt vùng miền, dấu bằng tôi dùng ở đây phải hiểu như sự tương đồng chứ không phải là bằng nhau) thì sẽ xẩy ra cát cứ, bất chấp lòng yêu nước của người Việt cũng như sự chính danh của nhà nước.
Hiện tại nhà nước VN có những cấu trúc cơ chế đó. Nó vừa là sản phẩm của 3 cuộc kháng chiến (chống Pháp, Mỹ, TQ), là sự sáng tạo của chủ nghĩa Mác Lê nin kiểu Nho giáo VN, tức là chủ nghĩa Mác Lê nin hoàn toàn được bản địa hóa, vừa là sự kế thừa truyền thống nhà nước VN từ thời phong kiến. Nó không phải là một hình thức ngoại lại được nhập khẩu do bị ép buộc theo một mô hình nào.
Bây giờ ta hãy điểm lại những điểm sáng và đặc trưng của nó.
1- Cấu trúc đầu tiên để thống nhất đất nước chính là ĐẢNG. Ở VN nhà nước dựa vào ĐẢNG trong một hệ thống ĐẢNG-NHÀ NƯỚC. Cấu trúc thống nhất này là duy nhất, ngoài nó ra ta chỉ có các cấu trúc vùng miền, địa phương, thành thị, nông thôn.
2- Cấu trúc ĐẢNG này thống nhất và điều khiển nhà nước qua hai bàn tay quyền lực
2.1 về mặt tổ chức đó là ủy ban kiểm tra trung ương và nội chính. Tổ chức này nhằm điều khiển, kiểm tra nhân lực
2.2 Về mặt nhà nước thâm sâu đó là sự chỉ đạo trực tiếp của ĐẢNG với hai cơ cấu quyền lực cứng đó là quân đội và an ninh. Ở VN, sự chỉ đạo này thông qua các quân ủy trung ương.
3- Các tổ chức địa phương về hành chính không trùng với các hệ thống địa phương về quân sự. Ở VN các quân khu (ta có 9 quân khu) thì chúng không trùng với hệ thống hành chính địa phương, mặc dù mỗi địa phương đều có dân quân, du kích.
Hiệu quả của những đặc trưng trên đó là cơ cấu chống cát cứ, tạo ra một nhà nước mạnh. Với tôi, nếu một nước nằm trong thế giới thứ 3, ngoài phương Tây, thì hình thức nhà nước VN có thể coi là tối ưu. Điều duy nhất nó phải hoàn thiện đó là chuyển các quan hệ giữa những thực thể này (ĐẢng, nhà nước, chính quyền Trung ương, địa phương) theo một mối quan hệ pháp quyền theo luật mà không phải là cơ chế hành chính đơn thuần.
Điều mà ở VN xã hội hay bức xúc, và thường được lợi dụng để cổ vũ cho « đa nguyên đa đảng », đó là hai vấn đề :
1- Quan hệ giữa giới kinh doanh, sản xuất với hệ thống hành chính, trong một cơ chế xin -cho (như kiểu dân nói « hành là chính »).
2- Tính chất quan liêu áp chế của bộ máy hành chính với người dân, điều đi ngược lại quan hệ sản xuất kiểu thị trường tự do, gây tâm lý ức chế.
Nhưng hai điều này không thể giải quyết bằng một hệ thống chính trị đa nguyên đa đảng, mà chỉ làm trầm trọng nó hơn. Nhưng vấn đề trên liên quan tới pháp quyền, cơ chế thị trường và quản lý nhân lực theo khoa học (có thể gọi là management như trong tiếng Anh), và cơ chế thực thi khoa học (ví dụ việc số hóa quản lý hành chính sẽ làm thay đổi và làm cho hình thức quan liêu mất tác dụng)
Phải nói thêm là tác giả Huỳnh Bửu Sơn không nói tới vấn đề này, nhưng tiện, cho khỏi lạc đàn thì tôi nói ở đây, để chứng minh rằng lòng yêu nước của người VN chỉ là điều kiện cần để đoàn kết và phát triển đất nước, nó không ĐỦ, và nếu lòng yêu nước này chỉ hiểu là một thái độ tâm lý tinh thần chống TQ thì lại sai toàn bộ, vì như thế ông ta đã làm giảm hẳn giá trị lòng yêu nước của người Việt, mà việc chống TQ xâm lược chỉ là một khía cạnh, trong muôn vàn khía cạnh của nó.
Trong vấn đề cát cứ ở VN, ngoài những lý do nội tại tôi nói ở trên, nó còn có tác động của bên ngoài nữa. Thời thực dân Pháp chia VN làm 3 miền, thời kháng chiến chống Mỹ, chia cắt làm 2 miền, tác động của nước ngoài vào rất rõ ràng nên không có gì phải nói thêm. Nhưng ngay cả thời cát cứ Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn cũng có yếu tố này.
Ví dụ với thời nhà Mạc, nhà Mạc thực sự bị tiêu diệt chỉ khi nhà Thanh lên thay thế nhà Minh. Lúc này chúa Trịnh đã khôn ngoan ủng hộ nhà Thanh, trong khi hậu duệ nhà Mạc ở Cao bằng vẫn bám vào nhà Minh. Kết quả là nhà Mạc bị loại bỏ hoàn toàn.
Trong cuộc xung đột Trịnh-Nguyễn cũng có vấn đề nước ngoài này, nhưng không ở dạng chính trị trực tiếp. Có lẽ rất ít ai khi nghiên cứu thời Trịnh-Nguyễn này đặt câu hỏi tại sao chúa Nguyễn lại có đủ thế lực để chống chọi với nhà Trịnh, trong khi đất đai lãnh thổ dân số bé hơn rất nhiều. Câu trả lời phải tìm trong quan hệ của các công ty Đông Ấn mà phương Tây lập ra kinh doanh ở đây. Sức mạnh của chúa Nguyễn đã được bù bằng thương mại với phương Tây mà dấu vết vẫn để lại tới ngày nay là thành phố Hội An. Tất nhiên là ở ngoài Bắc chúa Trịnh cũng giao thương với phương Tây qua phố Hiến (Hưng yên), nhưng kinh tế thương mại đã giúp chúa Nguyễn có vật lực đủ sức chống lại chúa Trịnh (nhưng không thể chiến thắng). Chính vì thế vào giai đoạn cuối, khi phương Tây chuyển từ buôn bán sang xâm lược thuộc địa, thì sức ép thuế khóa của chúa Nguyễn lên nông dân đã làm bùng nổ khởi nghĩa Tây sơn. Cũng bị tác động tương tự, nhưng nhờ có một nền kinh tế nội địa mạnh hơn (tiềm lực của đồng bằng sông Hồng) khiến chúa Trịnh đánh thắng được chúa Nguyễn để rồi cuối cùng cũng bị nhà Tây Sơn đánh bại.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post Jan 8 2023, 05:32 AM    
Đường dẫn tới bài viết này #8

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Tiếp tới đây tôi sẽ bình luận về hai bài viết về Sài gòn. Hai bài này có thể nói bổ xung cho nhau. Bài đầu tiên của tác giả Trần Hữu Phúc Tiến có tên là « Sài gòn mỹ lệ xuyên không gian và thời gian » điểm những thông tin về lịch sử hình thành Sài gòn, từ khi nó còn là một làng chài biên giới của đế quốc Phù Nam cũ, rồi sự phát triển kinh tế của thành phố. Bài thứ 2 bàn về vấn đề văn hóa, bảo tồn văn hóa cổ của thành phố của tác giả Nguyễn Thị Hậu có tên là « Bản sắc đô thành Sài gòn trong bối cảnh Nam Bộ »
Mỗi bài viết chỉ khoảng 4,5 trang giấy, nên nó cũng chỉ có tính khái quát có nhận định của tác giả. Với bài đầu tiên điều làm tôi chú ý là Sài gon là thủ phủ (hay thủ đô) của chế độ do Pháp lập ra vào năm 1949 cho tới khi người Pháp rút vào năm 1954, đây là điều bất ngờ với tôi, vì tôi chỉ biết thành phố này là thủ đô, trung tâm chính trị của miền nam cộng hòa cũ (1954-1975), không ngờ người Pháp lúc « trao trả độc lập giả » cho Bảo Đại (1948) cũng chọn Sài gòn làm thủ đô mà không phải là Huế, hay Hà nội.
Thực ra cũng ít ai để ý tới điều này, đặc biệt là trong kháng chiến chống Pháp, vì Pháp lập ra nó chỉ để đẹp lòng Mỹ, do Mỹ lúc đó đã trở thành nước viện trợ quân sự lớn nhất cho Pháp. Từ năm 1948 tới lúc kháng chiến chống Pháp kết thúc (1954), viện trợ Mỹ đã chiếm tới 3/4 chi phí chiến tranh của Pháp ở VN.
Bài viết thứ 2 thú vị ở chỗ tác giả đã coi Sài gon là đặc trưng của văn hóa Nam Bộ, là một thành phố Nam bộ là một thành phố sông nước, bà cũng đề cập tới vấn đề bảo toàn di sản văn hóa của một thành phố « trẻ » (tương đối thôi vì Sài gon cũng có 320 tuổi).
Nhưng điều tôi viết tiếp sau ở đây về Sài gòn không phải để bình luận hai bài viết trên, mà để bổ xung những « cảm nhận Sài gòn » của tôi, và cũng để giải thích quan niệm của tôi về quan hệ thuộc địa giữa thành phố này và vùng Nam bộ về kinh tế, mà tôi đã nói trong phần viết trước.
Khi nói tới Sài gòn, người ta thường dùng tính từ trẻ để nói tới nó. Nhưng tôi sẽ dùng một tính từ khác ngược lại, đây là một thành phố già. Thành phố Sài gòn già bởi vì nó là thành phố phương Tây đầu tiên được dựng trên đất VN. Sài gòn cũng như Nam bộ là thuộc địa Pháp từ năm 1862, cũng là vùng đất đầu tiên bị thực dân Pháp chiếm ở VN, và sau đó lại được Pháp cai trị trực tiếp cho tới năm 1954, dưới hình thức thuộc địa, trong khi ở Bắc Kỳ và Trung kỳ, Pháp núp sau lưng chính quyền phong kiến bù nhìn hậu Nguyễn.
Khi người VN đi du lịch ở Pháp, thường người ta hay thích xuống miền Nam Pháp, nơi có các thành phố như Monaco, Nice, Cannes .. và họ sẽ rất ngạc nhiên là vùng đất Pháp này chỉ nhập vào Pháp từ khoảng những năm 1862, tức là tương đương với Sài gòn. Tất nhiên những vùng đất này là ở châu Âu, nhưng qua đó ta có thể thấy quan hệ của vùng Sài gòn với Pháp hầu như không thua kém gì với một số vùng đất của nước Pháp hiện tại, như tôi nói tên ở đây. Sài gòn và Nam bộ cũng có quy chế thuộc địa, khác với Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Do văn hóa phương Tây chủ yếu là văn hóa đô thị, cho nên khác với vùng lục tỉnh, ảnh hưởng văn hóa Pháp với Sài gòn sâu đậm hơn so với Nam Bộ, vì cung là văn hóa đô thị. Ta có thể coi Sài gòn như một thành phố Pháp cũng được. Nó Pháp tới mức, hiện tại, tôi không thể làm một thống kê, nhưng nếu hỏi một người Pháp đi du lịch ở VN, thì phần lớn người ta không thích Sài gòn, vì nó .. Pháp quá, mà thích Hà nội hơn, do thủ đô Hà nội có những đặc trưng của một đô thị châu Á mà Sài gon thì không.
Từ đó nó dẫn tới một hệ quả, đó là tính chất vùng miền ở Sài gòn có tính chất phương Tây, chứ nó không có tính chất địa phương thuần túy VN, đầu tiên là ảnh hưởng Pháp và sau đó là Mỹ. Còn tất nhiên nó cũng có bản chất Nam Bộ, như tác giả Nguyễn Thị Hậu nói, vì người Sài gòn cũng là người Việt nam. Với tôi, văn hóa Sài gòn là một sự hợp lưu giữa văn hóa Nam Bộ và văn hóa Pháp.
Trên thế giới có một số thành phố kiểu như Sài gòn, và nếu tính về số lượng thì cũng không nhiều. Ta có thể kể ra Bombay, Cancuta ở Ấn độ, Hồng Công, Thượng Hải ở TQ, Singapure (Malaysia), và nó cũng đảm nhiệm vai trò kinh tế tương tự như những thành phố này khi được lập ra, đó là đầu cầu thuộc địa để khai thác vùng thuộc địa background ở đằng sau. Có thành phố như Cancuta hiện tại không còn vai trò này nữa, do việc cái backgound kinh tế của nó là vùng bengale (Ấn độ) bị chia thành hai nước một phần là Ấn độ một phần là Băng la đét. Ngược lại những thành phố còn lại đều là nhưng đầu tầu kinh tế trên thế giới hiện tại, ngay cả khi những nước này đã giành được độc lập.Bombay vẫn là đầu tầu kinh tế Ấn độ, Thượng Hải là đầu tầu của TQ, Hồng công, Sing là những thành phố có quy mô kinh tế lớn (PNB của Sing gần bằng PNB VN, mà ta mới chỉ vượt được rất gần đây, trong khi nó chỉ là một nhà nước-thành phố). Bản thân Sài gon cũng là đầu tầu kinh tế của VN, đóng góp gần 1/3 PNB.
Ở trên tôi có nói Sài gòn có quan hệ chính trị kinh tế với Pháp còn trước cả một số vùng đất Pháp hiện tại, nhưng ta phải nhận thức được rằng, người của những vùng đất này khi nhập Pháp được coi là người Pháp, ngược lại ở Sài gòn, lục tỉnh thì không. Người VN vẫn có một quy chế « bản địa » bị kỳ thị, nhưng mặc dù thế đây cũng là vùng đất mà Pháp trực trị, so với các vùng có quy chế bảo hộ như ở Bắc Kỳ và Trung kỳ thì vẫn khấm khá hơn, do nó chỉ có một tròng ở cổ, trong khi ở Bắc Kỳ và Trung kỳ là hai tròng chính quyền thực dân Pháp và chính quyền phong kiến mạt nguyễn, tay sai của nó.
Như vậy với tôi, thành phố Sài gòn là một thành phố phương Tây già nhất ở VN nhưng là một thành phố phương Tây thuộc địa, không phải là thành phố phương Tây phương Tây.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post Jan 8 2023, 05:34 AM    
Đường dẫn tới bài viết này #9

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Từ những nhận xét trên ta có thể thấy những điểm yếu và mạnh của thành phố như một thực thể kinh tế văn hóa. Điểm mạnh của thành phố là sự mở cửa với bên ngoài, với thế giới, Sài gòn có lẽ là thành phố có tính quốc tế duy nhất ở VN. Điểm yếu của nó đó là khởi thủy, nó được xây dựng trên một nền tảng kinh tế thuộc địa. Thành phố có nhiệm vụ hút máu mỡ thuộc địa đem về chính quốc là Pháp. Ta có thể tưởng tượng nó với một hình ảnh như một cái cây cổ thụ có bộ rễ rất lớn hút hết đất mầu khiến cả vườn cây xung quanh nó không còn mọc được.
Hiện nay, do VN độc lập, không còn có chính quốc, nhưng tác động của cái cây cổ thụ này không thay đổi, bằng chứng, tôi cực kỳ ngạc nhiên là đồng bằng Nam Bộ, đất đai trù phú như vậy, nhưng vẫn là những tỉnh nghèo, thuần nông. Rất may mắn là máu mỡ được thành phố rút ra từ đây, một phần được quay lại dưới dạng thuế cho nhà nước, và nguồn kinh phí này được dùng trở lại để cân bằng sự phát triển các vùng miền. Như vậy làm thế nào để có sự phát triển hài hòa. Để làm điều này chỉ có cách thức là liên kết vùng, liên kết Sài gòn với các vùng xung quanh, thông qua các cơ sở hạ tầng về giao thông, về thông tin,tin học khiến cho Sài gòn nở to ra nhân lên nhưng không phải là Sài gòn hành chính, biến cả vùng Đông Nam Bộ thành một quần thể phát triển. Một dạng megalopol liên minh thành thị. Tức là phải chú ý tới kinh tế vùng, chứ đừng để kinh tế độc quyền thành phố.
Trong một nền kinh tế ở dạng thị trường tự do như VN hiện nay, việc quy hoạch đô thị kiểu bao cấp hành chính không thể làm được, vì ngoài tác động hành chính kế hoach, sức mạnh của thị trường tự do rất lớn, sức mạnh của thị trường tự do này chạy theo nguyên tắc « nước chẩy chỗ trũng », « người giầu thì càng giầu, người nghèo thì càng mạt rệp ». Chính vì thế nếu để tự nhiên, thì thành phố sẽ càng ngày càng phình to ra, các dịch vụ công cộng, quản lý , .. sẽ xuống cấp, chênh lệch giầu nghèo ngày càng lớn, .. đây chính là bộ mặt của những thành phố lớn ở các nước đang phát triển như ở châu Phi, Mỹ la tinh, ..điều mà VN nên tránh. Không thể quy hoạch thành phố một cách duy ý chí, bao cấp, nhưng không có định hướng phát triển, thì không thể được.
Tác giả Phúc Tiến, có một nhận định rất positif về thành phố Sài gòn từ khi Pháp xâm lược tới năm 1975 (1865-1975), vì như tác giả nói, Sài gòn đã từ một thành phố trấn thủ biên viễn trở thành một thành phố quốc tế, với hạ tầng cơ sở hiện đại world Class (chứ World Class là của tôi, nhưng nó chỉ nhấn mạnh thêm ý tưởng của tác giả), ông cũng nói từ Sài gon mà kinh tế thị trường, cùng giới kinh doanh cá nhân đã trở lại VN. Nhưng điều tác giả nói là đúng, nhưng không đủ. Và cũng như ông Sơn, đánh giá lòng yêu nước của người Việt chòm chõm vào việc chống TQ. Nhưng điều tác giả Phúc Tiến nói về Sài gòn cũng phiến diện, tôi sẽ thêm những phân tích ở đây.
Với tôi, muốn tìm hiểu kinh tế Sài gòn, thì phải tìm hiểu cái gốc kinh tế giúp cho thành phố sống được là gì. Nó cũng như một doanh nghiệp, phải có mánh kinh doanh và thị trường mới sống và tồn tại được. Một thành phố cũng thế. Có nhiều thành phố sinh ra rồi chết đi, khi cái lý do kinh tế để cho nó tồn tại không còn nữa. Một điều nữa phải để ý đó là nhân lực thành phố, rồi tinh hoa của nó ở đâu, tồn tại thế nào, phát triển hay bị hủy diệt. Sự cộng sinh của cư dân và hình thái kinh tế của nó sẽ tạo ra văn hóa, tạo ra đặc tính, vậy cái đặc tính này phát triển thế nào.
Trong bài viết, tác giả chỉ nêu được mấy cái mốc về hạ tầng cơ sở, kiểu Sân bay Tân sơn Nhất đã tồn tại từ năm 1914, (tức là nó cùng chung nhịp đập với sự phát triển của hàng không thế giới không thua kém gì các nơi khác), để chứng minh cho sự hiện đại của Sài gòn. Nhưng với tôi điều đó không đủ, và chính nó đã dẫn tác giả tới những nhận xét phiến diện, và từ nhận xét phiến diện sẽ dẫn tới định kiến (với một người đọc không tinh ý).


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
Phó Thường Nhân
post Jan 8 2023, 05:35 AM    
Đường dẫn tới bài viết này #10

Tả Thiên Thanh
Group Icon

Nhóm: Chánh tổng
Số bài viết: 7.007
Tham gia từ: 11-August 02
Thành viên thứ: 133

Tiền mặt hiện có : 48.886$
Số tuần chưa đóng thuế : 10

Bình chọn :



Để tìm hiểu một thành phố thì cách tốt nhất là xem trong từng giai đoạn nó sống bằng cái gì, lý do tồn tại kinh tế của nó ở đâu. Tôi sẽ phân chia ra đây theo mấy giai đoạn sau :
1- Giai đoạn 1865-1954, Giai đoạn này thành phố đóng vai trò thủ phủ kinh tế của thuộc địa Đông Dương, có nhiệm vụ xuất khẩu lúa gạo, cao su, các sản phẩm nông nghiệp phục vụ cho đế quốc thuộc địa Pháp, đổi lại, có sự nhập khẩu hàng hóa công nghiệp Pháp như một thị trường thuộc địa tiêu thụ.
2- Giai đoạn 1954-1960. Đây là một giai đoạn rất ngắn, nhưng có sự chuyển đổi về kinh tế, do thành phố Sài gòn cũng như toàn miền Nam bị cắt khỏi đế quốc Pháp, nhưng không vì thế nó tạo ra được một nền kinh tế nội địa. Đây là giai đoạn khó khăn, hỗn loạn chính trị, do chính quyền Ngô Đình Diệm phải trấn áp các giáo phái kiểu Hòa hảo, Cao đài, Bình Xuyên vẫn còn theo Pháp, và cũng để chứng tỏ sự độc lập với Pháp, mà chính quyền Diệm đã tịch thu tài sản của Pháp kiều, ép Hoa kiều nhập tịch VN (tất nhiên là VN cộng hòa). Ta có thể gọi giai đoạn này là giai đoạn cắt cầu với hệ thống thuộc địa Pháp.
3- Giai đoạn 1960-1965. Đây là giai đoạn khủng hoảng. Khủng hoảng cả về chính trị lẫn văn hóa, mà đỉnh điểm của nó là đảo chính lật đổ chính quyền Diệm vào năm 1963, còn tại sao tôi lấy năm 1965 làm mốc, bởi đây là lúc Mỹ đổ quân trực tiếp vào miền Nam. Khiến tính chất kinh tế miền Nam thay đổi theo.
4- Giai đoạn 1965-1973. Đây là giai đoạn không còn kinh tế miền Nam, và Sài gòn hoàn toanf sống bằng viện trợ Mỹ cộng với tiền đục khoét, tham nhũng từ trong viện trợ chiến tranh của Mỹ. Tại sao tôi lại lấy năm 1973 mà không phải là năm 1975, vì đây là năm Mỹ chính thức rút khỏi miền Nam.
5- Giai đoạn 1973-1975. Đây là giai đoạn khủng hoảng của kinh tế miền Nam, do Mỹ rút đi, đồng thời cộng với khủng hoảng dầu mỏ toàn thế giới do cuộc chiến tranh giữa Ai cập và Israel xẩy ra vào năm 1973, dẫn tới các nước cung cấp dầu mỏ Ả rập, sử dụng nó như vũ khí và đồng thời cũng tăng giá dầu trên thế giới.
6- Giai đoạn 1975-1983. Đây là giai đoạn không những Sài gòn không còn được tài trợ như giai các giai đoạn trước (1954-1973) mà cũng như toàn bộ nước VN, phải hứng chịu embago Mỹ, và đồng thời có cuộc cải cách kinh tế theo hương tập thể hóa. Tôi lấy mốc năm 1983 mà không phải 1979 (vì năm 1979 là năm Mỹ chính thức embago, lấy cớ VN xâm lược Cam pu chia), vì đây là năm có cải cách tiểu thương ở Sài gòn và miền Nam, và đây cũng là cuộc cải cách theo xu hướng tập thể hóa cuối cùng.
7- Giai đoạn 1983-1996, đây có thể coi là giai đoạn tự công nghiệp hóa của thành phố, trong hoàn cảnh VN bị Mỹ embago toàn bộ. Embago của Mỹ không chỉ tác động lên quan hệ kinh tế Mỹ-VN vì lúc này quan hệ kinh tế trực tiếp này là số không, nhưng nó tác động lên quan hệ của VN với thế giới. Có thể nói VN là nước thứ nhì trên thế giới (sau Cuba) bị Mỹ sử dụng chiến tranh tài chính này. Cuộc chiến tranh mà giờ đây Mỹ áp dụng với Nga, với Venezuela, với Triều Tiên.
8- Giai đoạn 1996 đến hôm nay. Đây là giai đoạn thành phố trở thành đầu tầu kinh tế VN, và kinh tế thành phố đã gắn bó với đất nước VN trong một thể thống nhất. Điều mà từ năm 1865 tới 1973 là không có.
Nếu ta để ý tới cấu trúc dân của thành phố, thì nó cũng có nhiều mốc mà ta cần phải lưu ý, vì nó thay đổi diện mạo thành phố về giới tinh hoa, về văn hóa, và cũng có tác động vào cấu trúc kinh tế. Ở đây tôi chỉ lấy mấy cái mốc tính từ lúc Pháp chiếm thành phố
1- 1862-1954, đây là thời kỳ dân số của thành phố có tính Nam bộ và Hoa kiều đậm đặc, với một giới tinh hoa là thực dân Pháp (tức là người Pháp da trắng), tư sản Hoa kiều và giới tư sản miền Nam. Giới tư sản bản địa này rất nhỏ, so với giới tư bản bản địa của những thành phố tương đương với Sài gòn về chức năng mà tôi đã nói ở trên : Bombay, Cancuta, Thượng Hải, Hồng Công, Sing, .. và nếu ta trừ bì đi tư sản Hoa kiều thì nó còn nhỏ nữa.
2- 1954-1955, thành phố lúc này đón nhận một số lượng lớn người miền Bắc, chủ yếu là người công giáo di cư vào Nam, họ không chỉ sống ở Sài gòn mà còn định cư ở nhiều nơi khác thuộc miền Đông Nam Bộ, ở những địa điểm mà chính quyền Ngô Đình Diệm coi là sống còn để bảo vệ cho « thủ đô Sài gòn ».
3- 1955-1973. Đây là giai đoạn thành phố phình lên do chiến tranh, khiến cư dân ở nhiều nơi trên toàn miền Nam chạy về đây. Sự phình lên này không phải do phát triển kinh tế tạo ra.
4- 1975-1991, đây cũng là thời gian có nhiều sự chuyển đổi với thành phố. Nó có hai dòng người. Một dòng người tiếp tục nhập vào thành phố, nhưng khác với giai đoạn 1955-1973, nó không chỉ hạn chế ở miền Nam. Và một dòng người đi khỏi thành phố, vượt biên, đoàn tụ gia đình định cư ở nước ngoài chủ yếu là ở Mỹ và phương Tây. Người dân được đưa khỏi thành phố trong các chiến dịch « xây dựng kinh tế mới ». Giai đoạn này cũng có tác dụng quyết định với giới tinh hoa của thành phố. Giới tinh hoa của thành phố hiện nay là từ đây.
5- 1991 trở lại đây. Sự nhập cư, di cư của thành phố hoàn toàn binh thường như bất cứ một thành phố lớn nào khác trên thế giới trong khuôn khổ một nhà nước thống nhất, tùy theo nhu cầu và điều kiện phát triển kinh tế mà thành phố tạo ra dẫn tới việc như câu nói « 63 dân cư của các tỉnh thành toàn quốc đều có mặt ở TP HỒ CHÍ MINH »
Tôi sẽ bình loạn những điều nói trên tiếp sau, và những hệ quả của nó.


--------------------
Tả Thiên Thanh



User is offlineProfile Card
Go to the top of the page
+
« Bài viết cũ hơn · CLB Văn Hoá - Lịch sử · Bài mới tiếp theo »
 

4 Trang  1 2 3 > » 
Topic Options
1 người đang chống cằm trầm tư ngâm cứu chủ đề này (1 khách vãng lai và 0 thầy mo tàng hình)
0 Thành viên:
 

Xem diễn đàn ở dạng TEXT - PDA - Pocket PC