Người Yêu Văn Nên đọc, Ý kiến bốn phương
Chào bác, trông cái mặt bác quen quen ( Đăng nhập | Đăng ký tạm trú )
Người Yêu Văn Nên đọc, Ý kiến bốn phương
Tuongcuop |
Sep 19 2006, 01:16 PM
Đường dẫn tới bài viết này
#1
|
Phù Đổng Thiên Vương Nhóm: Dân làng Ven Số bài viết: 405 Tham gia từ: 3-May 03 Thành viên thứ: 1.055 Tiền mặt hiện có : 631$ Số tuần chưa đóng thuế : 6 Bình chọn : |
Tôi mở Topic này đi lại những bài viết mà qua nó, ít nhiều gây cho tôi suy nghĩ về nghề văn. Bè bạn Làng ven, thấy bài viết nào cũng đã làm bạn suy nghĩ, quan tâm xin gửi vào đây cùng chia sẻ.
Lê Đạt là nhà thơ rất kính trọng không chỉ của cá nhân tôi. Ông là người đưa ra chủ thuyết Nhà thơ là Phu chữ. Ông, một trong những hạt nhân của vụ án Nhân Văn Giai Phẩm. Số phận ông ba chìm bảy nổi, nhưng lại luôn cười và tới giờ vẫn minh triết. Trò chuyện với ông, không thấy sự xa cách về tuổi tác, về địa vị xã hội. Ông là người trân trọng tuổi trẻ và tài năng nhưng không nuông chiều thói hư danh và các trò Diễn...Lại thấy ông là người khiêm nhường và biết mình. Hai tập thơ Bóng chữ và Ngó lời trình làng cách đây gần thập kỉ gây tiếng vang trên văn đàn nhưng ông vẫn nói: Mỗi khi mình làm thơ, để cho ai đó không hiểu hoặc chưa hiểu là lỗi tại mình. Cách tân phải trả giá. Mấy năm gần đây ông tập thiền để chống chọi lại bệnh tật và tuổi tác và đã vượt qua những gia đoạn khắc nghiệt của quy luật tạo hóa. Ông vẫn học qua đọc và không hề từ chối những cuộc gặp gỡ có ích với giới trẻ. Xin mở đầu Topic này bằng bài viết của nhà báo Ngô Hương Sen qua cuộc trò chuyện với ông. NHÀ THƠ LÊ ĐẠT: HỌC CÁCH SỐNG CHO TỬ TẾ Nhà thơ Lê Đạt Ông Di Lặc, như cách mà ngay từ thời trẻ, những người bạn đã gọi nhà thơ Lê Đạt, vào tuổi bẩy mươi mấy, đúng là cái bụng tròn tròn, và từng tràng cười ngất ngư sảng khoái... Bao sóng gió lận đận cuộc đời vèo qua, tưởng đâu chớp mắt, ông, bây giờ đang mãn nguyện hết cỡ vì lần đầu tiên trong đời đã có được một cái bàn viết thực sự theo đúng nghĩa đen trong một căn phòng riêng đẹp như khách sạn... “Đấy là Chế độ mà con trai dành cho theo Tiêu chuẩn Bố”... Nhà thơ Lê Đạt khoe, vẫn kèm theo giọng cười rung rung thỏa mãn... Không thích, nhưng chấp nhận sự cô đơn Là nhà thơ, làm nghề cầm bút, mà tận lúc này, ông mới có một cái bàn viết. Vậy trước giờ, ông ngồi viết như thế nào? Tôi ngồi trên giường, kê một cái thùng vốn dùng đựng sữa để viết. Bao năm vẫn thế, các bản thảo đã ra đời như thế. Vậy nên tối đầu tiên ngủ ở phòng của mình (trong một ngôi nhà khang trang rộng rãi mặt phố Phó Đức Chính đi bộ được ra hồ Tây - NV) thấy như khách sạn ấy. Con cháu ra vào phòng mình cũng phải gõ cửa xin phép. Thành ra, dạo này tôi sảng khoái và khỏe ra nhiều lắm. Chắc các nhà văn trẻ thế hệ @ đủ đầy tiện nghi không thể hình dung nổi, có một thời, những người đi trước như nhà thơ Lê Đạt lại phải chịu đựng nhiều như thế? Những nỗi đày ải về thể xác không đáng bận tâm. Sự dày vò dằn vặt về mặt tinh thần mới khổ. Theo nghề viết, đã là khổ lắm rồi. Nhà thơ, chỉ một tờ giấy và cái bút thôi nhưng vất vả lắm. Nhưng người có bản lĩnh là người biết biến tất cả những trắc trở của đời mình thành việc hữu ích. Trang Tử đã nói: Mọi người đều biết lợi ích của cái hữu dụng, ít ai biết lợi ích của cái vô dụng. Làm thơ như tập thể dục, phải tập thường xuyên đều đặn, nếu không sẽ quên. Chuyên nghiệp tức là ôn luyện suốt đời. Văn ôn võ luyện mà... Vậy ông đã hưởng lợi từ cái “vô dụng” ấy như thế nào? Hơn bốn năm trời, ngày 8 giờ vàng ngọc, tôi lên thư viện đọc sách. Đấy là quãng thời du “du học” tại chỗ vô cùng hữu ích. Những lúc nản lòng, tôi lại đến sách, hy vọng tìm ra một lời giải, một lý do để tin trong việc giao lưu với những con người “tử tế” của chữ nghĩa. Rồi làm thơ. Thơ mình viết ra không nơi nào in, cũng tốt. Mình được thoải mái với những trò chơi chữ nghiêm túc, tập sinh sự với ngữ nghĩa và ngữ pháp để tạo ra một sự sinh mới cho thơ. Ông luôn giữ được một thế lạc quan, dù cuộc đời không bằng phẳng. Nhưng lạ thật, các cây bút trẻ hiện nay, họ hay buồn, họ cô đơn, hay ca thán và luôn (tự) tưởng tượng ra những bi kịch cho mình? Không thích sự cô đơn nhưng tôi chấp nhận nó, bởi cô đơn trong sáng tạo là rất hữu ích. Là người không có tuổi trẻ, nên tôi rất quý tuổi trẻ. Léc môn tốp có câu rất hay: Trong bão táp mới thấy bình yên. Đừng nôn nóng. Các nhà văn trẻ, hãy cho họ thời gian, cứ để họ bình tĩnh. Chính chúng ta cũng đang coi thường họ, cứ đồng nghĩa trẻ với chưa trưởng thành, với non yếu. Xã hội tôn trọng tuổi già nhưng chưa tôn trọng đúng mức tuổi trẻ... Ngược lại, người viết trẻ cũng phải có ý thức tự trưởng thành, tự tôn trọng mình. Cách duy nhất để khẳng định mình là lao động, làm việc, suy nghĩ nhiều hơn. Mà những người trẻ ấy, họ nói có vẻ tự tin thế thôi, nhưng thực ra trong thâm tâm đang hoang mang lắm... Vậy nên ai động vào mình mới rầm rĩ cả lên chứ. Đừng có chui vào truyền thống rồi ngủ yên Thế hệ chúng tôi, đã có tháng ngày, thầm thì nhắc tới và “lén lút” ngưỡng mộ những cái tên Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán... Trẻ con sao tường tận hiểu hết được chuyện “Nhân văn, Giai phẩm”, chỉ hóng hớt từ thầy cô và những người lớn khác, mà đã thấy kính nể cái khí phách thi nhân tự chọn cho mình con đường đơn độc, không chịu đứng lẫn vào đám đông. Người viết trẻ chưa được định hướng một cách công bằng. Ví như họ có phá cách, có bạo dạn, có vượt ra khỏi những tư duy truyền thống (chỉ trong văn chương thôi) là lập tức bị chuốc cho cái “tội”: “vi phạm thuần phong mỹ tục”, hay gì gì nữa, vân vân và vân vân, đấy thưa ông? Chúng ta nên nhớ, “thuần phong mỹ tục” không phải là những cái có sẵn ở trong phòng rồi khi cần tự tiện mở khóa đem ra so... Đấy là một “thứ” càng ngày càng phải xây dựng và phát hiện. Chúng ta càng (sống) tốt sẽ càng tìm kiếm nhận chân ra nhiều thuần phong mỹ tục hơn nữa. Nếu cứ sẵn đấy lấy ra dùng là không lương thiện... Ta từ truyền thống ta đi chứ không phải chui vào truyển thống rồi ngủ yên. Càng lao động, càng văn hóa, càng tử tế thì càng thẫm đẫm cái dân tộc tính. Lúc đó ta mới thấy được cái nào là sai, cái nào đúng, cái nào là hay là dở. Tin mình đúng thì không nên sợ. Viết văn giống đi tu, phải lấy nội lực là chính. Phải luôn suy tư, cần phải nói ra được những tâm tư nguyện vọng thầm lặng của con người mà chính con người không thể cất lên tiếng. Tốt nhất là làm việc, tự sử dụng mình, biến mình thành người hữu ích. Coi mình như “phu chữ”, nhà thơ Lê Đạt nổi tiếng là người kỹ tính, cẩn trọng về chữ nghĩa? Chữ có trước mình, chết sau mình, nên mình không hiểu hết được nó đâu. Chữ vượt ra khỏi tầng ý thức của tác giả. Nhưng trước khi tôn thờ con chữ, mình phải tôn thờ đất nước mình dân tộc mình đã. Với những trải nghiệm đã qua trong cuộc đời mình, nhà thơ Lê Đạt có một lời khuyên nào đó về nghề dành tặng các cây bút trẻ? Trên đời cái gì cũng phải trả giá. Tôi biết sáng tác là công việc cực nhọc rồi, mỗi người đừng chuốc thêm những nỗi khổ cho các nhà văn nữa. Nhất là khi họ còn trẻ, còn đang hăm hở dấn thân. Đọc nhiều, rồi vừa học vừa viết là điều vô cùng cần thiết. Và phải tập, tập quan trọng lắm. Trước hết là tập (sống) cho tử tế. Người xưa nói: “Nhà nho vì người là nhà nho quân tử. Đi tu vì người là đi tu tiểu nhân”. Tu là tu cho mình. Tu cho người là kẻ cơ hội. Có vì mình, yêu mình, ta mới vì người yêu người được chứ, đúng không... Tôi biết ơn vợ Lê Đạt, hăm hở vào đời với tham vọng hồn nhiên cách tân thơ Việt, tuổi thanh xuân đã có những suy nghĩ đến giờ, 50 năm sau vẫn còn update: “Những kiếp người sống lâu trăm tuổi, Như một dãy bình vôi, Càng sống càng tồi, Càng sống càng bé lại...”… Nhưng sự hồn nhiên ấy kiếm ông vướng ngay vào vụ án văn chương, với đoạn kết là thi nhân phải đi chăn bò cho thấm nhuần tư tưởng... Nhiều năm liền, lĩnh một mức lương thấp nhất trong thang bậc, tưởng đã có lúc bị đẩy đến ngưỡng của sự cô đơn. Cái cô đơn thăm thẳm hơn của Lê Đạt, chính là, ông mở ra một con đường thơ cho riêng mình, quanh co, trúc trắc, kỳ công, hành xác, nhưng lại có rất ít người đi theo. Thơ, trong ông, đồng nghĩa vói sự sang trọng tột cùng, kiểu như thánh đường của nghệ thuật sân khấu, người thường không thể (bén mảng) bước vào, mặc dù, ông luôn nhận mình là nhà thơ tài tử… Hồi Nhân văn Giai phẩm, mới ngoài hai mươi tuổi, ông có sợ không? Không hề. Người ta chỉ sợ khi thấy mình sai. Nhưng thực ra, con người có một bản năng nguy hiểm và dai dẳng là bản năng bầy đàn. Thường trực trong mình nỗi sợ người khác nên nhiều khi tự đánh mất mình đi. Cái phần độc đáo, cái cá tính hiêm hoi trong mỗi người luôn bị đe dọa, tấn công nên dễ mai một đi. Cái hồi đó, các nhà văn, mỗi người cũng có một ứng xử riêng để thể hiện cái tôi của mình? Ví như anh Hữu Loan (nhà thơ Hữu Loan - NV), rất đáng trọng. Không chơi với các anh nữa, thà bỏ Hà Nội về quê vác đá đào đất còn hơn. Đúng là phẩm chất của một anh nông dân Thanh Hóa, khảng khái, bộc trực, không chịu lụy số đông. Hay anh Nguyên Hồng (Nhà văn Nguyên Hồng - NV) cũng vậy. Chẳng màng Thủ đô, đưa cả gia đình lên Yên Thế Bắc Giang làm kinh tế mới. Sống được đến lúc này, tôi càng kính trọng vợ mình. Hồi tôi gặp nạn, bà ấy chưa đầy 20 tuổi, xinh đẹp, lại là diễn viên chủ chốt của đoàn kịch. Nhiều người khuyên cô ấy bỏ Lê Đạt đi, dính làm gì với bọn “phản động”. Nhưng cô ấy đã nhãn nại ở bên tôi, trở thành hậu phương, chỗ trú ẩn duy nhất của mình lúc bị cuộc đời quăng quật. Cười, ông lại cười rất hể hả. Điệu cười vô vi, hồn nhiên, vượt qua tất thẩy những trôi nổi thăng trầm của cuộc đời, để tự thấy mình cũng (được) thanh thản, (được) hạnh phúc... Nhà thơ Lê Đạt cười (đúng là) như ông Di Lặc. Ngô Hương Sen (Thực hiện) |
Tuongcuop |
Sep 21 2006, 09:07 PM
Đường dẫn tới bài viết này
#2
|
Phù Đổng Thiên Vương Nhóm: Dân làng Ven Số bài viết: 405 Tham gia từ: 3-May 03 Thành viên thứ: 1.055 Tiền mặt hiện có : 631$ Số tuần chưa đóng thuế : 6 Bình chọn : |
Giải mã ảo giác Thơ trẻ
-------------------------------------------------------------------------------- Sau khi đăng tải bài trả lời phỏng vấn nhà thơ trẻ Lê Thiếu Nhơn, chúng tôi đã nhận được ý kiến của một số bạn đọc bày tỏ mong muốn được tiếp xúc với bản tham luận của nhà thơ tại Hội thảo thơ TP Hồ Chí Minh cuối tháng 8 vừa qua, để đáp ứng nhu cầu này, dưới đây chúng tôi cho đăng lại toàn bộ bản tham luận để bạn đọc tham khảo. Thật khó khi phải cân nhắc khái niệm “trẻ” giữa nhịp sống năng động hôm nay. Trẻ về tuổi đời hay trẻ về tuổi nghề? Nghề thơ cực nhọc và càng đi càng xa trên cuộc mưu sinh chữ, nên khoảng cách bài thơ đầu tay và bài thơ cuối cùng có khi vài giây mà có khi cả đời người. Với góc nhìn hạn hẹp và khiêm tốn của mình, tôi chỉ tiếp cận dòng chảy trẻ trong thơ hôm nay ở khía cạnh tuổi tác. Đành xin gọi những đồng nghiệp làm thơ dưới 40 tuổi với danh xưng chung là nhà thơ trẻ, chứ không dám gọi kiểu nhà thơ 7X, nhà thơ 8X hay nhà thơ @ như thói quen đô thị thời hội nhập kinh tế quốc tế. Bước vào những năm đầu thế kỷ 21, khi làn sóng quyết tâm quyết chí làm giàu sôi sục từ anh bác sĩ chuyên khoa giải phẫu thẩm mỹ đến bà cụ về hưu bỏm bẻm nhai trầu, thì quả thật tôi cứ thấy xao lòng nghĩ đến bạn bè đôi mươi lúi húi với trang bản thảo chông chênh bao giấc mơ lương thiện. Phải chăng họ đang hy vọng về một điều gần như là tuyệt vọng? Phải chăng họ đang đong đưa số phận mình trên những cành cây trơ trụi dưới ánh điện cao ốc? Phải chăng họ đang muốn giữ lại chút chậm chạp nhân nghĩa giữa thác lũ phăm phăm rượt đuổi danh lợi? Người sáng tạo vốn đã cô độc thì nhà thơ trẻ bây giờ càng cô độc hơn. Thế nhưng, tôi cứ mỏi mòn tin rằng, những ai có đôi phút xa vắng, có đôi lần lầm lũi, có đôi ngày bất an sẽ trân trọng lao động nặng trĩu âu lo của nhà thơ trẻ. Chỉ nhói lên một băn khoăn thường thực: để giành lấy thị phần thẩm mỹ vốn khá ít ỏi ấy, thơ trẻ đã có gì, đang có gì và sẽ có gì? Bằng thái độ sòng phẳng và cầu tiến để nói thẳng với nhau thì làng thơ và bạn đọc đều thừa nhận mấy năm qua chưa có “thương hiệu” thơ trẻ. Ngoài sự rụt rè và cẩn thận trên mức cần thiết của Hội nhà văn Vịêt Nam khi chưa ghi nhận, đánh giá và trao giải cho bất kỳ nhà thơ trẻ nào, chính các tác giả chập chững làm thơ đã nhấn chìm mình trong trào lưu tự tung hô hoặc tự hí lộng bản thân. Bỏ qua sự ồn ào hãnh tiến của vài nhà thơ trẻ đang hào hứng với những lời đường mật khen chê bè cánh, theo tôi thơ trẻ ít nhiều thể hiện được niềm xao động của một thế hệ hăm hở bao khát vọng vào đời. Hầu hết nhà thơ trẻ đều trình làng những câu thơ ngổn ngang: ngổn ngang bất lực, ngổn ngang trách móc, ngổn ngang hòai niệm, ngổn ngang đợi chờ… Đó là một trạng thái ngổn ngang chuẩn bị bứt phá thoát khỏi mùa màng bội thu thơ cũ lấy vần điệu du dương làm cảm hứng nghệ thuật. Tại sao tôi và mọi người không có quyền nghĩ rằng, những câu thơ buồn nhiều hơn vui ấy đang trực tiếp dự báo về diện mạo thi ca khác? So với lớp người đi trước, nhà thơ trẻ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để tiếp xúc với thế giới rộng lớn. Tuy nhiên, trên xa lộ internet không bờ không bến, không ít bạn trẻ đã bị ngộ độc thông tin. Nhiều bạn trẻ đồng hành của tôi mải mê dồn sức lực dồi dào và quý giá nhất đời người vào những cách tân đã lỗi thời ở nước ngoài. Những tiểu xảo bị nhầm lẫn là hay ho như ám ảnh hóa, tượng trưng hóa và lập thể hóa của trường phái “thơ mông lung”, những chiêu thức tưởng chừng là tinh diệu như phản ý tượng, phản tu từ và khẩu ngữ hóa của trường phái “hậu tân thi trào”, đáng tiếc thay đã được chôn vùi ở Trung Quốc từ thập niên 80 thế kỷ trước. Một thực tế nữa để nhận ra là phong trào thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào của một bộ phận những người làm thơ trẻ. Với khả năng ngoại ngữ có lẽ cũng vừa đủ xài, vài nhà thơ trẻ vớ được những hình thức thơ đã thải hồi ở phương Tây như “thơ hậu hiện đại”, “thơ dự phóng”, “thơ trình diễn” và hớn hở reo lên bằng tâm trạng phấn khích của người đi biển hú họa gặp được mảnh lưới rách vương vãi trên sóng nước trùng khơi. Chân thành mà ghi nhận thì những quan niệm “sử dụng các kiểu chơi chữ và thủ thuật bài trí chữ trên trang giấy, bẻ gãy hình thức thơ truyền thống để giễu nhại thế giới hiện đại làm mất nhân tính” hay “nhìn bài thơ như một cấu trúc trí tuệ và âm thanh hơn là diễn đạt tâm hồn con người” thịnh hành trong thơ Mỹ nửa đầu thế kỷ 20 không phải không có lý do để tồn tại. Thế nhưng, bình tĩnh lại để thấy rõ ràng đó là sản phẩm của nhất thời bông phèng, của đùa cợt rỗi hơi, của tếu táo bất chợt, hoàn tòan xa lạ với văn hóa người Việt cặm cụi chịu thương chịu khó. Có lẽ do hơi vội vã muốn lập công, có lẽ do hơi nôn nóng muốn nổi tiếng, vài nhà thơ trẻ đã nháo nhào “đi tắt” một cách nguy hiểm. Họ bỏ quên giá trị truyền thống vốn luôn là cột mốc khởi hành cho mọi bứt phá đỉnh cao. Mặt khác, không ít tác giả chỉ mới võ vẽ vài ba dòng tạm gọi là thơ, nhưng khoái khoe mẽ hiện đại cũng lao vào lật ngược lật xuôi con chữ, nói ngô nói ngọng dăm ý, rồi tự vuốt ve rằng mình đã đi trước thiên hạ. Sự thiển cận và vụng về này hình như cũng đã len lỏi vào những tác giả không còn trẻ. Thực tế bẽ bàng trên, nói ra không phải để chê bai hay dè bĩu đồng nghiệp, vì hoàn toàn không có lợi cho chính tôi, hoàn toàn không có lợi cho tiến trình phát triển thi ca, và càng không có lợi cho công chúng. Bạn đọc tinh tế và bận rộn hôm nay không đủ thời gian để lý luận với chúng ta về sự giành giật thơ chú trọng ngôn ngữ hay nghiêng sang cảm xúc. Bạn đọc chỉ cần thơ hay, chỉ cần những câu thơ mang lại giá trị tinh thần mới. Đứng trước “đơn đặt hàng” của bạn đọc và của nền thơ đang bấn loạn khuynh hướng, đòi hỏi bản thân mỗi nhà thơ không thể không trang bị cho mình một nội lực văn hóa trước khi cách tân chữ nghĩa hay cải tiến thi pháp. Không ai tin khả năng maratong của một đứa trẻ chưa biết đi, cũng như không ai dám đánh cược cho những nhà thơ chỉ lem nhem mấy câu dài câu cụt! Trong ước mơ hội nhập và đưa tên tuổi ra khỏi biên giới, lẽ nào tham vọng cao cả “trở thành công dân thế giới” của vài nhà thơ trẻ hôm nay sẽ không có cơ hội? Có phải xã hội đương thời thiếu cái nhìn độ lượng với dăm người làm thơ trẻ lành tính và thích dấn thân cho những cuộc khám phá không khoan nhượng? Trên giấy trắng mực đen, không ai phủ nhận được ai và cũng ai bịp bợm được ai. Nhân loại hàng ngàn năm nay đã chấp nhận biết bao thiên tài, và vẫn còn đủ chỗ cho những thành tựu rực rỡ tiếp theo. Nếu các nhà thơ trẻ hôm nay chỉ nhăm nhăm chạy theo cách tân hình thức, cố la to lên về một sự hiện diện, cố uốn éo thân mình để thiên hạ chú ý, thậm chí hình thành ảo giác người khác đang kiềm hãm tài năng mình, thì thái độ này không khác hơn một trò hề rẻ tiền trong mắt những người có bản lĩnh hiểu biết. Tôi vẫn tin rằng, nếu các nhà thơ trẻ viết thật hay, thật xúc động về những ngày mình đang sống, những điều mình đang nghĩ, những giận hờn đang giằng xé, những yêu thương đang thôi thúc của bản thân thì chắn chắn sẽ chuyển tải đến bạn bè quốc tế một tâm hồn người Việt, một cốt cách người Việt, một đời sống người Việt những năm đầu thế kỷ XXI! LÊ THIẾU NHƠN Lời bàn của TC: Một lần Khoa bảo, thời này không phải thời của thi ca. Mình cứ băn khoăn. Thực tế hiện nay rất ít người đọc thơ. Ko phải chỉ ở ta không bán được thơ mà dường như toàn thế giới, đâu cũng thế... Ở Đức, vừa rồi bàn việc tái bản cuốn Maodchen Kiều của Fanz Faber mà nhà xuất bản từ chối vì Thơ không bán được. Cũng thực tế là, bấy nay rất ít ai có những bài thơ đọc một hai lần là thuộc ngay. Nhưng đọc bài viết này thấy đau đớn, khi mà xã hội biết bao quay cuồng thì nhiều người viết trẻ vẫn làm thơ...Và cuộc tử chiến giữa hiện đại và truyền thống, những mâu thuẫn của nó, những bế tắc đang hàng ngày diễn ra để các nhà thơ mỗi ngày già đi mà thơ chưa tới? Bài viết này được sửa chữa mông má bởi Tuongcuop: Sep 21 2006, 09:09 PM |
Tuongcuop |
Sep 21 2006, 09:37 PM
Đường dẫn tới bài viết này
#3
|
Phù Đổng Thiên Vương Nhóm: Dân làng Ven Số bài viết: 405 Tham gia từ: 3-May 03 Thành viên thứ: 1.055 Tiền mặt hiện có : 631$ Số tuần chưa đóng thuế : 6 Bình chọn : |
Lời bàn của TC:
Tô Hoài viết dung dị. Nhận xét ông, có lần nhà phê bình Đặng Tiến noí, đại ý: Tô Hoài viết cái gì cũng ra thể kí. Có thể như vậy, vì rất khó phân biệt trong văn ông nơi nào là sự thật , chỗ nào là hư cấu. Đọc chỗ nào, cũng tưởng như cuộc sống đã được ông bê vào trang giấy. Trong làng văn, có thể nói, ông là người sành chơi chữ thuần Việt nhất; mà hay tóm nguyên những từ những ngữ của một thơì, của đường phố, xóm giềng, quán chợ... Ông bảo, đi chơi phố là Bát phố; ông tả cái tầu điện cũ "rách rứoi tả tơi" làm con tầu của kỉ niệm với bao người Hà Nội xưa như có một linh hồn, một con người Hà Nội cũ trên đường phố... Và, chính cái lối viết ấy mà người cùng thời đọc văn ông tìm được man mát kỉ niệm còn người thời sau thấy được cái không khí huyền thoại ngữ ngĩa của ngày xưa. Đọc Tô Hoài nên đọc chậm, thật chậm. Nên chọn khi thư dỗi mà xem ông viết, như chiều thu không còn gì lo nghĩ thì ra bên hồ rủ người tri kỉ mà nhâm nhi một chút rượu thực trong, thực thơm. Khi ấy nào cần nói chi đâu, nhìn vào mắt nhau là đã biết lời định nói, biết cái nhà văn thầm định gửi theo con chữ điều gì. Dung và Quyền trong Chuyện cũ Hà Nôị, in ở Nguyệt san Người hà Nội số 1- có chua bút tích của Tô hoài nắm 1999. Thực chất là chuyện thật ông kể về hai người bạn, nhưng về cấu trúc thì giống như một truyện ngắn mang tính thân phận con người. Vẫn vậy, văn ông khi nào cũng là những trường đoạn buồn. Đọc ông, tới chót khi ông hạ: Biết thế nào, chán đến đỗi không còn muốn nhận ra nhau nữa...mà buồn ngao ngán. : ::: Tô Hoài :::: Dung và Quyền Phố Hàng Ngang, Hàng Buồm cũng chẳng khác xưa bao nhiêu. Mặt đường, đôi chỗ vẫn cái nắp gang đậy cống ngầm còn đề tên sở thời Pháp. Không kể mấy bảng điện nhấp nháy, cái nhà tầng nông lòng đột ngột chon von lên như những đồ chơi của trẻ con. Chỉ có một cái khác. Xe đạp, xe máy liên liến khin khít đan nối nhau. Ngày xưa thì lòng đường, vỉa hè toàn những chân người đi, chân người ngược xuôi như lồng vào nhau. Họa sĩ Ngô Thúc Dung vẽ cho báo Hà Nội Tân văn in ở phố Hàng Buồm. Anh Vũ Ngọc Phan bảo tôi: "Anh Dung tốt nghiệp số 1 Ðại học Mỹ thuật Ðông Dương, anh Nguyễn Ðỗ Cung giới thiệu làm cho báo ta đấy". Anh Phan muốn gợi sự chú ý và kính trọng của tôi. Thì ra đỗ nhất lại bạn của những Nguyễn Ðỗ Cung, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, những mét đỉnh rồi. Nguyễn Ðỗ Cung đương chùm cubít lập thể vẽ cái chân người như bắp chuối và người đi hai vai ngang như cua bò, tôi phục lắm, dẫu chẳng hiểu gì cả. Ngô Thức Dung minh họa báo, vẽ tay người to hơn đầu người. ồ, trường phái ông Cung mà. Nhưng rồi tôi thấy Dung vẽ cái mu bàn tay nào cũng tròn như quả bưởi, lại để ý Dung không vẽ cho báo nào khác ngoài báo của anh Phan. Về sau quen Dung nhiều hơn, tôi nghĩ: thằng này không biết vẽ, chẳng ai thuê. Thì tôi thấy Dung cũng hết oai, Dung chỉ vừa vừa như tôi thôi. Vì, giỏi hay dốt cũng là may rủi thế nào đấy. Như ông Thịnh del chỉ có mỗi báo Tiểu thuyết Thứ Bảy mượn ông vẽ cái mặt nào cũng tréo giống nhau, thế mà ông đỗ đầu Mỹ thuật Ðông Dương, ông làm thông phán sở Canh Nông cả ngày cả tháng ngồi truyền thần phóng to con tằm, con nhộng, con bướm, cái kén. Ông Thịnh del chẳng có bức tranh nào, giới vẽ có lẽ chẳng hề biết ông là ai, mà ông có cần gì đâu. Dung bảo tôi: - Bát phố một lúc, được không? Tôi chẳng có việc gì, để chối là không được. Chúng tôi ở nhà in đi ra và tôi hiểu bát phố là chẳng đi đâu cả, chỉ lê gót hết phố nọ sang phố kia, nhìn nghênh nhìn ngáo rồi nhìn xuống đường thấy chân người chen nhau đi qua đi lại. Người đi xem phố, người đi kiếm ăn, nhiều người quá, chỉ thấy chân, toàn người đi chân đất. Ðôi khi, người đàn bà trong làng ra kẻ chợ, có đột dép Kẻ Noi quai ngang và nếu là dân thầy thì có đôi giày vải như chúng tôi. Những người chân đất đi ngoài phố nhiều, nhớ mãi đến tận bây giờ. Tôi hỏi Dung: - Chiều rồi. Phải làm cái gì cho no bụng chứ? - Túi tớ cạn cả có thế mới phải đi phố ăn tiệc nhìn. - Nhịn a? - Hôm nào có tiền thì lại ăn, ăn bù. - Thôi được, đi với tớ. Tôi cũng chẳng đủ tiền mua hai bát cơm úp. Tôi nói mạnh bạo vì tôi nghĩ đến Quyền. Có thể Quyền có. Chúng tôi rẽ về phố Hàng Trống. Sang phố này đã thưa những bàn chân đi. Mấy nhà bán đồ thêu ren sách cũ. Tắt qua cửa đền vào một góc phố có một gian hàng chỉ bằng sải chân. Những cái chụp đèn bày la liệt như nón úp. ở trong nhà, một thanh niên vạm vỡ sơ mi trắng cộc tay đương soi gương nắn cái múi cà vạt đen. - Giới thiệu... Quyền nói to: - Họa sĩ Dung, quen rồi. Ðã vẽ chụp đèn cho nhà này. - à... Họ biết nhau, tôi nhẹ hẳn người, nói luôn: - Ðương định đi ăn mà chưa trữ được đủ tiền. - Có đây, có đây. Quyền chạy sang cửa hàng bên cạnh xem nhờ đồng hồ. - Năm rưỡi, đóng cửa được rồi. Chúng tôi giúp Quyền vác những tấm cánh cửa lắp đóng lên kín gian hàng. Tôi hỏi khẽ Dung: - Ðã cộng tác với Quyền à? - Có một lần, đã lâu. Thằng cha nhớ dai gớm. - Cái kiốt đằng Hàng Da của cậu mà treo bán những cái chụp đèn này cũng nên lắm. - Có thể, có thể. Ðằng ấy bảo nó cho mượn mấy cái bày thử. Ðã lắp cửa xong, chúng tôi ra chỗ đầu Hàng Giò, xuống dốc Hàng Kèn, tạt sang ngả hồ Thiền cuông. Chỗ ấy có mấy hàng cơm, sau lưng trông xuống bãi cỏ lau. Ðằng kia là Vân Hồ, nhưng quãng nay lầy lội, phải vòng lên Thể Giao mới có lối xuống. Thành phố chưa bắt điện đến vùng đấy. Trong búi cỏ lau đen lù lù, ánh đèn ba dây, đèn hoa kỳ lốm đốm to nhỏ như những con đom đóm. Mấy quán cơm đầu ghế đón người đi làm bên ga Hàng Cỏ về các đầu Ô Thanh Nhàn, Ô Trung Hiền, đôi khi có những xe chở gỗ dưới Phà Ðen lên. ấy vậy mà hàng quán đỏ đèn suốt sáng. Bởi vì những con bạc rúc ráy trong bụi lau lần ra ăn đêm. Chúng tôi cũng đã nhẵn mặt ở đây. Thấp thoáng một cái đầu chó treo dưới mái tranh. Tôi hỏi Quyền: - Vào làm mấy chén mừng gặp nhau, được không? Quyền nói: - Không. Tớ là sì cút (*). Và tớ thương loài vật, con chó thân thiết với người nhất, tớ không ăn thịt chó. - Thế thì ăn gì? - Cơm, đậu rán, canh cà chua, như mọi khi. Ðược không? Bài viết này được sửa chữa mông má bởi Tuongcuop: Sep 21 2006, 09:46 PM |
Tuongcuop |
Sep 21 2006, 09:39 PM
Đường dẫn tới bài viết này
#4
|
Phù Đổng Thiên Vương Nhóm: Dân làng Ven Số bài viết: 405 Tham gia từ: 3-May 03 Thành viên thứ: 1.055 Tiền mặt hiện có : 631$ Số tuần chưa đóng thuế : 6 Bình chọn : |
Hai thằng không có tiền, thế nào mà chẳng được. Nhoáng một cái xong bữa chẳng có gì để kề cà, chúng tôi bước ra ánh điện loáng thoáng ngoài hè phố. Tôi chẳng hỏi ai, cũng không nghĩ đi đâu tối nay. Ðứng cửa sổ rạp Hiệp Thành nghe cải lương, lượn nhà thổ ngõ Yên Thái cũng chỉ nghĩ và kể ra thế thôi. Không đi đâu thì đi ngủ vậy. Có ba nơi. Về nhà tôi trên Bưởi thì xa mà đã hết tàu điện. Ðến cái kiốt của Dung ở chợ Hàng Da thì ôi thôi, khi sáng ra có thể đã gãy đầu gối. Cái kiốt bốn mặt cửa nhưng hẹp quá, đêm phải đổi hai thế nằm. Lúc thì khoanh chân, lúc thì duỗi gác hai chân lên vách. Dung thấp bé người, suốt đêm nằm khoanh hai chân, đêm nào cũng thế. Ðến nhà Quyền thì được ngự trên mảnh ván. Rộng rãi, chỉ phải cái không có màn.
Gian bán chụp đèn, đèn bàn, đèn treo trần cũng không phải của Quyền ông chủ. Không biết cửa hàng của ai, chắc của người nhà, Quyền trông hàng, bán hàng ghi sổ. Những khung nan, khung gỗ thợ gò, thợ tiện ở phố Hàng Tiện đem đến, Quyền dán giấy bồi, lụa hoa, lắp bật điện. Cũng không thấy chủ hàng bao giờ chỉ có mình Quyền, sáng ra xuống bờ hồ rửa mặt, còn ỉa đái chỗ nào thì tuỳ. ấy thế nhưng đã phong lưu nhất hội rồi. Mưa sầm sập cả đêm như xay thóc. Mưa đêm ở làng, trong bóng tối bốc lên mùi rơm rạ ải, mùi hoa lý thơm ủng. Mưa rào, mưa to ở thành phố, tiếng mưa nghe mỗi tai mỗi khác, cứ như gõ thanh la, lại như liên hồi đập cái thùng sắt tây. Nhưng đã dịu được cơn oi bức ban chiều. Nhờ thế, đỡ muỗi, sáng ra mặt mũi không lấm tấm mần đỏ. Quyền cho Dung xách đi mấy chiếc chụp đèn. Cái kiốt của Dung dựng đứng như chiếc thùng gỗ vuông, trông sang bãi cỏ chợ Hàng Da. Trên bãi, thỉnh thoảng hiệu tạp hóa Tây Lùn ra căng bạt mở xổ số cò quay ăn tiền, ăn thưởng áo may ô, lọ nước hoa Con Voi, khăn mùi xoa. Ðôi khi gánh Lê Thành Các về làm xiếc. Có cả ban xiếc nước Anh với hai con la thồ đồ, lưng phủ bạt, đến cắm cọc dựng rạp. Cái kiốt vẫn đứng đấy, bốn mặt sơn xanh trổ lỗ cửa vuông, phía nào cũng thông thống. Kiốt bày bán lắm thứ lỉnh kỉnh. Những ống bút, một thếp giấy mới, gói bột màu. Có khi bày tranh phong cảnh. Cũng có buổi cho bà bán quà sáng để nhờ mẹt khoai lang luộc. Tôi bảo Dung: - Treo bảng vẽ truyền thần, có khi ăn tiền hơn. Dung xua tay: - Mày dốt bỏ mẹ. Họa sĩ không vẽ truyền thần. Nhưng tôi nghĩ cứ như Dung vẽ cái tay to hơn cái đầu thì có khi Dung cũng không biết vẽ truyền thần. Bốn mặt quang vắng, không biết đồ đạc, quần áo Dung cất đâu. Chẳng thấy cái hòm, cái bọc chỗ nào. Dung nói: - Mày nhà quê cũng có khác. ở Hà Nội bây giờ văn minh giống bên Tây. Hết mùa rét thì cái áo dạ gửi nhà cầm đồ Vạn Bảo phố Mới. Giờ đương nắng nóng, chỉ cần nhất bộ, tối đi ngủ thì cởi ra giặt cho tiện. Tôi đã quen lối nói tiếu lâm chày cối bịa tạc ra cách sống thành phố. Bốn cái chụp đèn Dung để bốn cửa. Hai chụp treo, hai chụp đèn bàn đặt trên mỏm hòn gạch nhô cái chóp lên. Ði cả bốn bên đều trông thấy, cũng vui vui mắt. Một hôm tôi đến chẳng thấy cái chụp đèn nào. - Bán hết cả rồi à? - Mất cắp hết thì có. -Không gắn được con mắt đằng lưng thành thử cứ trông cửa trước thì nó phỗng đằng sau. Ðến năm kháng chiến, phố xá tản cư đi khắp nơi. Người ta như con kiến khi gặp nhau thế nào đôi bên cũng đụng râu chụm lại như chào hỏi, trò chuyện rồi mới lại tăng tả bò đi. Cho nên ai ở đâu rồi cũng được tin, mình không gặp thì thế nào cũng có người gặp, người biết. Tôi cũng láng máng biết tin tức bè bạn và người quen, xóm giềng, ai tản cư vùng nào, công tác ở đâu, ai chết bom, ai lại về thành. Nghe nói Quyền đã lấy vợ, vợ chồng đem nhau lên Phú Thọ. Năm ấy, tôi có việc về Gia Ðiền. Việc vui và cũng nực cười. Tôi đi dự đám cưới họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ. Anh Tỵ ở vùng văn nghệ sĩ tản cư trong khu Bốn. Trường Mỹ thuật của anh Tô Ngọc Vân mở ở Việt Bắc, anh Tỵ được mời ra dạy. Tỵ cũng đã cứng tuổi. Chị trẻ hơn, gia đình cũng ở Hà Nội tản cư đi. Tiếng đồn thế nào đấy, có thể bên nhà gái nghi ngờ, mà nhà trai nhà gái đều đương trong cảnh xa lạ không biết đâu mà hỏi han dò la được. Tôi được giao việc đại diện cơ quan đi dự đám cưới. Tôi có nhiệm vụ nói thật nhưng nói khéo thế nào để họ nhà gái tin tưởng tôi là bạn anh Tỵ từ xưa và anh Tỵ chưa có vợ bao giờ. Mọi việc đều xong xuôi, êm đẹp. Hôm về, tôi không ra theo đường bờ sông. Tôi đi đường trong, qua làng đồi chè, rừng sơn, rừng cọ từ Gia Ðiền sang Ao Châu. Tôi đã được biết Quyền ở Ao Châu. Tôi vào xưởng giấy Ao Châu hỏi Quyền. Người ta bảo: ông Quyền thôi việc ở đây rồi. Bác ra ngoài đầm, hỏi ông Quyền Chài thì ai cũng biết - Quyền Chài là thế nào? Người ta chỉ cười. Ao Châu, một vùng đầm nước mênh mông như hồ Tây bọc một dãy đồi ở giữa. Tôi được chỉ vào một cái lều lá gồi bên bờ nước. Quyền cởi trần, da bắt nắng đỏ xạm, vẫn cao lớn và để bộ râu quai nón xồm xoàm đen kịt, chỏm mũi đỏ sần sùi nhô lên quen thuộc. Cái lều một gian một chái, một người đàn bà ra chào tôi. Chị mặc quần thâm, áo trắng nhuộm nâu non, cũng như mọi người tản cư thường gặp ở dọc đường và trong chợ. Quyền nói to: - Nhà tôi đấy. Chúng tớ nghề chài lưới, nên làng nước gọi là Quyền Chài. Nhờ giời cũng đủ chén, cứ xuống nước thì có cá đem bán. |
Tuongcuop |
Sep 21 2006, 09:42 PM
Đường dẫn tới bài viết này
#5
|
Phù Đổng Thiên Vương Nhóm: Dân làng Ven Số bài viết: 405 Tham gia từ: 3-May 03 Thành viên thứ: 1.055 Tiền mặt hiện có : 631$ Số tuần chưa đóng thuế : 6 Bình chọn : |
Chị ấy đi chợ. Quyền bảo tôi ở nhà chơi, Quyền thả cái thúng đi bắt mấy con cá về nhắm rượu. Tôi bảo cho tôi ra hồ với. Cái thuyền thúng, Quyền ngồi đằng mũi, tay cầm bè chèo lái, bàn tay kia bơi. Tôi thả lưới từng quãng ngắn, Quyền vòng thuyền cầm bè chèo gõ xuống đòn ngang. Tiếng cành cạch xua cá dồn vào mắt lưới.
Trên thuyền, chúng tôi chuyện. - Bọn tớ đã lấy nhau từ khi còn ở Hà Nội. - ờ... ờ... - Chắc đằng ấy không biết vợ tớ là con nhà thổ ở ngõ Yên Thái. Tớ vớt ra. Tôi không biết thật. Nhưng cái tình, cái tính khí khái và nghĩa hiệp của Quyền thì tôi không lạ. - Thế sao lại bỏ làm xưởng giấy? Quyền cười nhạt: - à bọn ngồi bàn giấy trong xưởng chữ nghĩa lỗ mỗ, cũng dân thành phố ra, thế mà chó lại chê mèo lắm lông, chúng nó chửi mình là tiểu tư sản, đội cái mũ sì cút chúng nó cũng bảo là đội cứt đế quốc. Lộn ruột, tớ hét vào mặt chúng nó: ông đây học trường kỹ nghệ, công nhân hẳn hoi chứ không như chúng mày đội lốt. Công nhân thì không sợ cái gì hết. Ông đố chúng mày dám bỏ cái xưởng này ra đi tăng gia, hay chỉ là đồ ôm chân bàn đẽo cơm Nhà nước. Ông không thèm, cái mặt chúng mày chỉ bẩn mắt ông. Quyền đặt bè chèo vào lòng thuyền, nhấc từng mảng lưới lên. Có con cá rô như hạt bưởi, Quyền lại ném xuống nước. - Thế là tớ ra đây. Tớ chẳng cần đứa nào đâu. Lát sau, thu hết lưới, được mấy con chép nhỡ. Quyền cười hê hê: "Ðầu đuôi để nấu dấm quả dọc, còn chặt khúc ra nướng uống rượu, hay lắm". Tôi giễu: - Cậu là sì cút chửi rượu cơ mà. - ở đời cũng có lúc cần rượu. Chốc đã mấy chục năm qua. Rồi tôi cũng không gặp lại Quyền ở Hà Nội. Biết có còn sống, vẫn ở Ao Châu hay lại đi đâu. Họa sĩ Ngô Thúc Dung thì đôi ba khi còn biết tin. Các cơ quan mới ra khỏi thành phố lên Việt Bắc đều đóng ở Ðại Từ trên Thái Nguyên. Có người cơ quan ở xóm bên cạnh - chỗ cục quân nhu đóng, sang hỏi tìm tôi và nói : - Chúng tôi có đồng chí họa sĩ Dung... - A họa sĩ Ngô Thúc Dung! Tôi có quen... Tôi sẽ sang, tôi sang... Thế ra Dung đã vào bộ đội, lại bộ đội quân nhu... có thể Dung vẽ mẫu áo trấn thủ... Dung cho lính sang tìm tôi... Oách thế, họa sĩ Dung, đồng chí Dung... Rồi không nhớ tôi bận gì, mấy hôm sau mới sang được xóm có quân nhu ở? Tôi thấy những nhà kho, những lán ở trống hoác. Vào trong làng hỏi, bà con cũng chỉ biết bộ đội đã đi từ nửa đêm hôm kia. Bộ đội thường đi đến bí mật thế. Rồi sau tôi biết thủ trưởng cơ quan ấy là Trần Dụ Châu đã bị bắt vì tội hống hách, tiêu pha tiệc tùng bán giời không văn tự. Tôi chột dạ hỏi lại nó là thằng Trần Dụ Châu hay thằng Ngô Thúc Dung. Lẩm cẩm đâm hốt hoảng mới ngờ cái tai nghễnh ngãng chú Châu với Dung thì nhầm với nhau sao được. Nhưng tôi lại nảy ra cái lo khác. Hay là thằng Dung đã lấy bí danh là Trần Dụ Châu. Ði kháng chiến, nhiều người lấy bí danh tên khác, kể cả tôi... Ðến khi hòa bình tôi mới lại được tin về Dung. Có người trông thấy, có người đã gặp Dung ở Hà Nội. Dung không làm họa sĩ nữa. Mà Dung bây giờ bán vé xe điện, Dung nghiện thuốc phiện nặng, thảm hại lắm! Ôi Dung. Sao mà tôi nhớ thằng Dung cũng như tôi nhớ cái tàu điện, những kỷ niệm xa xưa của tôi đã già lão, sắp vứt đi cả rồi. Cái tàu điện cũng có sự tích lúc trẻ lúc xế bóng chẳng khác con người sinh ra ở thành phố này. Cái tàu điện mới đi từ Bưởi xuống chợ Mơ. Lúc qua Bờ Hồ thì có đường rẽ về Giám vào Hà Ðông. Hơn ba mươi năm sau mới đẻ thêm đường ô Ðồng Lầm ở Kim Liên lên ô Yên Phụ. Ðường tàu điện đầu tiên ra đời năm 1899 - khi tôi được sinh ra thì tàu điện đã ở tuổi hai mươi, hai mươi tuổi thanh xuân hơn hớn, cái vè tàu điện tôi được nghe kể và tôi đã hát suốt thuở tấm bé. ... Thằng Tây ngồi nghĩ cũng sành Sinh ra tàu điện chạy quanh phố phường La ga thì ở Thụy Chương... Cái ngày khai trương tàu, cưới tàu mới linh đình sao, Tây mở tiệc nhảy đầm ở chỗ đình Thụy bên hồ Tây. Các cụ kể: khánh thành đường tàu điện các làng được một tháng đi tàu không mất tiền vé. Cả vùng Bưởi chúng tôi lên ngồi tàu điện xuống đi chơi Bờ Hồ. Cái câu cuối bài vè tàu điện chẳng biết là mỉa mai hay ba lơn: Năm xu ngồi ghế đệm bông. Hỏi mình có sướng hay không hả mình? Thanh niên thì không thèm lên tàu điện khi tàu đỗ, mà chúng tôi rún chân lấy dáng lả lướt nhảy tàu xuống tàu khi tàu đương lượn vào hay đã rời bến. Thế mà cái tàu điện đã rong ruổi đến tận khi Hà Nội chống Mỹ. Báo động cứ việc, tàu chạy suốt ngày, qua các phố Hàng Than, Quán Thánh, cạnh nhà máy điện - trọng điểm máy bay Mỹ thả bom. Cái tàu vẫn chạy. Chỉ còn người lái tàu, người bán vé tàu và mỗi một người hát xẩm, không biết sợ là cái gì, cứ ngất ngư trong lòng tàu nghêu ngao cất tiếng hát giữa tiếng bánh xe rít trong đường sắt, tiếng chuông leng keng ầm ầm và tiếng bom rơi. Rồi cái tàu điện về già. Cái tàu cái toa được tẩu tán đi rồi mới bóc đến đường sắt. Nó cũng như cái cầu Long Biên, mấy năm đau yếu sau bao nhiêu trận bom đạn, thì đến cái tàu điện rách rưới, tả tơi nhất. Nó ốm cả tinh thần lẫn thể xác. Chẳng ai thiết nó nữa, chẳng ai ngó ngàng chữa chạy cho nó nữa, chẳng biết số phận còn bắt rật rờ thế này đến khi nao. Những tiếng leng keng ầm ầm đã hết hơi, không còn giục giã vui tai như thời xưa. Mà nó rè rè như những con cóc đêm kèng kẹc nghiến răng gọi mưa. Các ông lái tàu thì say bia, say rượu tối ngày. Tay ông cầm cái mở máy bằng đồng đã mòn vát. Tàu đến ngã tư Hàng Khay, Hàng Bài thì đỗ. Chỉ vì những nơi ấy ven hè có quan bia hơi nhà mậu. Ông khóa lại số không rồi rút cái trùy đồng xách xuống đứng uống đôi ba vại bia, mặt dần dần đỏ lựng. Có khi đến chợ Mơ, đỗ lâu đợi khách thì cả ông lái, ông bán vé cùng xuống làm chén nước trắng, lại châm điếu thuốc lào ngồi lơ mơ. Cái tàu điện lại giống như bà lão đã mõ ra rồi còn làm đỏm. Cũng chẳng phải tôi còn nhớ đến Dung đâu. Mà một hôm tôi chợt nghĩ: "Cái tàu đương ốm thập tử nhất sinh thế kia cũng xuống lỗ đến nơi rồi. Ta đã đi tàu từ thuở bé, thuở trẻ, bây giờ ta đi một chuyến tàu điện dối già xem sao. Có còn nhảy tàu lên xuống được không nhỉ?". Chỉ nghĩ chơi đã thấy ngượng. Thân già này mà trổ tài điệu nghệ thì chỉ có đưa chân vào bánh tàu mà thôi. Chặp tối hôm ấy, uống vại bia ở bờ hè Hàng Khay rồi, tôi làm cuộc du lịch lên cái tàu điện ngàn xưa. Người bán vé tàu như đứng sẵn rình tôi, chộp tôi. Người ấy hiện ra trước mặt tôi, giọng khao khao mơ hồ: "Tiền vé! Tiền vé!". Trông đích là thằng Dung! Không thể nhìn nhầm không thể sai được mặc dầu đã khác lạ hẳn. Khuôn mặt chảy xị, tái xám, môi nhờn bóng, cửa tay áo về vệt đen nhãy. Rõ một con nghiện già. Chẳng ra thằng Dung một mảy nào, nhưng cái sẹo ở thái dương bên trái thì vẫn đỏ tía như đồng xu úp vào, nguyên như thế như người tù khổ sai chung thân thời trước bị thích chữ lên mặt. - Dung đấy hả? Có phải Dung không? Người ấy ngước đôi mắt đục lờ đờ nhìn tôi rồi lại cất giọng cũng rè rè đùng đục: - Vé nào! Tiền vé! Tôi đưa đồng tiền vé. Lão ta bỏ vào túi áo vét rồi lù rù quay vào, trong khi tôi còn hỏi với... Có phải Dung... có phải... Biết làm thế nào. Chán đến không còn muốn nhận ra nhau nữa. Tô Hoài (1) Sì cut (Scout): hướng đạo sinh. |
lơ ngơ |
Sep 22 2006, 12:48 AM
Đường dẫn tới bài viết này
#6
|
Regular Member Nhóm: Dân làng Ven Số bài viết: 223 Tham gia từ: 31-August 06 Đến từ: never-never land Thành viên thứ: 2.619 Tiền mặt hiện có : 3.555$ Số tuần chưa đóng thuế : 4 |
Truyện của Tô Hoài hay quá bác TC ơi. Đọc xong lòng cứ mênh mênh mang mang.
-------------------- Viết hai lèo...
|
cobebuongbinh |
Nov 30 2006, 09:51 AM
Đường dẫn tới bài viết này
#7
|
Regular Member Nhóm: Dân làng Ven Số bài viết: 113 Tham gia từ: 9-November 06 Thành viên thứ: 2.695 Tiền mặt hiện có : 2.414$ Số tuần chưa đóng thuế : 0 Bình chọn : |
uh ! công nhận. nhưng cái mênh mang này không phải la mênh mang của Thạch Lam, không trải dài như Huy Cận mà làm người ta tin vào ngày mai đấy chứ
-------------------- giếng biết mình sẽ chẳng có gì chỉ một tấm lòng thẳm sâu ngọt mát nhưng muôn kiếp không bao giờ dào dạt nên sao trời lơ đãng cứ trôi đi |
Xem diễn đàn ở dạng TEXT - PDA - Pocket PC |