Langven.com Forum

Giúp đỡ - Lục lọi - Dân l ng - Lịch
Full Version: Đỗ Minh Tuấn Và Trần Mạnh Hảo đấu Bút
Quán nước đầu làng Ven > Sáng Tác - Thảo Luận - Phổ biến kiến thức > Văn Học & Ngôn Ngữ
Pages: 1, 2, 3, 4
Hoang Yen
Đỗ Minh Tuấn
Vì sao văn học ta “chưa ngang tầm thời đại”?

Lời tác giả : Bài tham luận này tôi đã chuẩn bị để đọc trước Đại hội nhà văn lần thứ 7 vừa qua. Tuy nhiên, vì thời gian hạn chế và vì nhiều lý do khác, tôi chỉ trình bày bằng miệng trước Đại hội những nội dung chính của phần 1. Sau khi tôi phát biểu, nhiều người muốn đọc bằng văn bản nên tôi đã bổ sung những ý đã nói thêm trên diễn đàn và gửi đăng toàn văn bài viết trên talawas.
Từ nhiều năm nay, trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và các bài xã luận, tổng kết, báo cáo thường kỳ của nhiều hội nghị thường xuất hiện mệnh đề “Văn học nghệ thuật của ta chưa có tác phẩm ngang tầm thời đại” hoặc “chưa có tác phẩm xứng tầm thời đại”. Mệnh đề đó như một câu kinh buồn, một lời xưng tội, một định mệnh kém cỏi, một lời tự thú, người ta cứ cứ lặp đi lặp lại như một chân lý hiển nhiên. Nhưng mệnh đề “văn học của ta chưa ngang/xứng tầm thời đại” có thể hiểu thế nào? Phải chăng, cứu cánh của văn chương nghệ thuật chỉ là vươn tới ngang tầm thời đại hay còn có một cứu cánh nào cao cả, lớn lao hơn?


1. Thế nào là một nền văn nghệ “ngang tầm thời đại”?

Ngày xưa, thời chiến tranh, ta có thể hiểu “tầm thời đại” là tầm lý tưởng, tầm anh hùng, tầm của những hy sinh, chiến thắng. Ngày nay, thời kinh tế thị trường, hội nhập, toàn cầu hoá, với rất nhiều những biến động đổi thay phức tạp trong đời sống xã hội. Phải chăng, giờ đây, khi nói “văn học của ta chưa ngang tầm thời đại” là muốn nói văn học nghệ thuật chưa phản ánh hết tầm của suy thoái, tụt hậu và tham nhũng, nghĩa là chưa mổ xẻ hết tầm những tấn bi kịch của nhân dân và dân tộc trong thời buổi hôm nay, chưa phanh phui hết tầm những thủ đoạn lưu manh, những mưu mô tàn bạo và những vỏ bọc tinh vi của đám người tham nhũng, con buôn, ăn gian và đầu cơ các kiểu trong thời đại mới? Trong văn kiện đại hội nhà văn lần này có nhận định rằng văn học của chúng ta “luôn luôn xa hoặc gần, trực tiếp hay gián tiếp gắn với tư tưởng thời đại.” Xin hỏi, tư tưởng thời đại ở đây là tư tưởng gì? Chủ nghĩa hậu hiện đại là một trong những tư tưởng thẩm mỹ của thời đại, nhưng chúng ta đã phê phán, giễu cợt chê bai nó, “đánh đập” nó tơi bời trong nhiều bài báo, công trình của các nhà văn và các giáo sư. Như vậy, đâu phải là chúng ta muốn vươn tới sánh ngang tầm tư tưởng của thời đại?

Cách đây không lâu, khi còn đang làm phim Ký ức Điện Biên, hoạ sĩ Vũ Huy và tôi có việc phải vào Bộ Văn hoá. Chúng tôi mặc quần soóc, nên người bảo vệ kiên quyết không cho vào, nói rằng chúng tôi phải ăn mặc cho nghiêm chỉnh khi đến các cơ quan nhà nước. Chúng tôi giải thích rằng cả hai vừa từ trường quay đến thẳng đây vì cần gặp Bộ trưởng có việc gấp, nhưng họ vẫn kiên quyết không cho. Hoạ sĩ Vũ Huy liền rút mô-bai ra tìm bức ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh mặc quần soóc đứng cạnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp mặc com-lê thắt cà-vạt chỉnh tề bật cho nhân viên bảo vệ xem và hỏi: “Theo anh thì hai ông này ông nào nghiêm chỉnh hơn?”. Người bảo vệ bật cười rồi cho chúng tôi vào.

Kể câu chuyện này để thấy, chỉ một khái niệm“nghiêm chỉnh” thôi mà cũng mỗi người hiểu một cách khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, tuỳ theo hệ quy chiếu, điểm nhìn, thói quen và trình độ. Thế mà, trong các văn bản pháp quy hay trong sách báo của chúng ta lại đầy rẫy những cụm từ chung chung, những khái niệm mơ hồ, những định đề cảm tính, những cụm từ hoá thạch tư duy như một bãi tha ma những hài cốt tinh thần, chữ nghĩa kiểu như “chưa ngang tầm thời đại”. Nhìn chung, người ta vẫn quen để những cụm từ sáo mòn, vô nghĩa như vậy trôi trượt qua tai, qua mắt trong suốt cuộc đời giống như vẫn để những người ăn mày, những người tiếp thị lướt qua cửa nhà mình, không đón tiếp những cũng không gây sự. Nhưng nếu ta chăm chú nhìn kỹ vào những cụm từ tù mù, hiển nhiên, trôi trượt vẫn vật vờ chễm chệ trong các không gian tinh thần công cộng đó thì ta sẽ thấy chúng là sản phẩm của một kiểu văn hoá ước lệ, bất minh bạch và bình quân chủ nghĩa, trong đó các sản phẩm tinh thần phải có một phẩm chất công cộng mang tính co dãn, bất định để thích nghi với mọi quan hệ, mọi thời đại. Đôi khi chúng cho phép mỗi người có thể chiếm hữu chúng theo cách riêng, giống như con thú treo lủng lẳng trong lều của những thợ săn để ai cũng có thể xẻo một miếng mà luộc, nướng, nấu, xào hay ăn gỏi tuỳ theo ý của mình.

Khi mỗi người hiểu mệnh đề, khái niệm theo một cách khác nhau thì sẽ dẫn đến những lý lẽ và hành động trái chiều, đối nghịch là lẽ đương nhiên. Nhưng trong đời sống văn học nghệ thuật của chúng ta lại xuất hiện những kẻ độc quyền diễn giải các khái niệm tù mù, đầu cơ trên sự mơ hồ, mòn sáo của các chủ trương, chỉ thị hay nghị quyết. Bí quyết để những kẻ này giành thế thượng phong trên văn đàn là luôn diễn giải các khái niệm có tính công quyền một cách đơn giản, nôm na, theo logic đời thường, dễ hiểu với đám đông và những cách diễn giải đó được công quyền chấp thuận cổ vũ và bảo vệ như là những phát ngôn chính thống. Trần Mạnh Hảo là nhân vật điển hình cho kiểu lý luận đầu cơ trên lẽ phải thông thường, quy giản các quan hệ văn hoá học thuật thành quan hệ chính trị và đạo đức để quy chụp nặng nề những người có cách tiếp cận khác từ phía chuyên môn, hoặc có cách viết khác với những gì được anh ta coi là bút pháp chính thống. Từ năm 1995 đến nay, Trần Mạnh Hảo đã viết nhiều bài viết xuyên tạc, bóp méo, bôi bẩn, quy kết đạo đức chính trị hàng loạt tác phẩm có tìm tòi về thi pháp như các tập thơ Mùa sạch của Trần Dần, Bóng chữ của Lê Đạt, 99 tình khúc của Hoàng Cầm, Người đi tìm mặt của Hoàng Hưng, Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều, tiểu thuyết Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà… Những bài viết của Trần Mạnh Hảo gây rất nhiều thiệt thòi cho các tác phẩm và tác giả. Báo Văn nghệ đang chuẩn bị hội thảo về tiểu thuyết Cơ hội của Chúa thì ngừng lại vì bài phê phán của Trần Mạnh Hảo in trên báo Nhân dân được coi là ý kiến của Đảng. Những bài viết của Trần Mạnh Hảo bôi bẩn, thoá mạ thơ Hoàng Cầm, thơ Trần Dần hay xuyên tạc cuốn sách Ngày văn học lên ngôi của tôi đều bị tôi viết bài đối thoại, bác bỏ từ góc độ học thuật mà Trần Mạnh Hảo không thể nói lại được. Trong các bài Kẻ lục soát đền thơ in trên Người Hà Nội và Giải mã bí quyết của mấy nhà phê phán in trên Văn nghệ quân đội tôi đã giải mã những thủ đoạn học thuật cơ bản của Trần Mạnh Hảo. Đó là các trò cắt xén, xáo trộn thứ tự, đảo lộn cấp độ, đánh tráo chủ thể, xuyên tạc về tư tưởng, quy giản các logic nghệ thuật và học thuật thành logic đời thường, lắp ghép ý kiến của người khác thành hệ thống mới theo ý mình rồi đo đạc hệ thống mới đó bằng các thước đo chính trị và đạo đức. Nhiều nhà văn bị Trần Mạnh Hảo vu cáo xúc phạm cũng đã viết bài nói lại, chỉ ra những sai lầm về tri thức và nguỵ biện về lập luận của Trần Mạnh Hảo qua các bài viết của anh ta, nhưng đa số không được in ra. Đến khi NXB Hải Phòng tập hợp lại các bài viết về Trần Mạnh Hảo trong cuốn sách Về một hiện tượng phê bình dày hơn 600 trang thì Ban Tư tưởng-Văn hoá và Bộ Văn hoá-Thông tin đã ra lệnh cấm cuốn sách này. Chính vì có những o bế bất công như thế, nên những phản ứng của xã hội phải được xả ra dưới hình thức dân gian. Năm 1998 tôi đã phải viết một thư ngỏ chuyền tay gọi Trần Mạnh Hảo là cái ca-pôt rách của Đảng, giữ vệ sinh cho Đảng trong quá trình giao lưu văn hoá làm bạn với tất cả thế gian.

Hoang Yen
Phê bình, thẩm định văn chương là quyền tự do của mỗi người, bản thân những bài viết, những nhận định phản ánh trình độ và nhân cách của tác giả. Nhưng cái cách phê bình kiểu Trần Mạnh Hảo và sự o bế của những người lãnh đạo văn hoá văn nghệ với lối phê bình ấy đã biến anh ta trở thành một vấn đề xã hội bức xúc trong giới cầm bút vì nó đã gián tiếp hạn chế tự do sáng tác một cách tinh vi và có hiệu quả khi nó tạo ra một môi trường văn hoá phê bình cộng sinh giữa những thái độ chính trị văn hoá bảo thủ thâm sâu và cái suồng sã hồn nhiên trơ tráo của một thứ văn chương cai lệ. Cái mới trong sáng tác có cội nguồn sâu thẳm từ cảm hứng mới mẻ và nhận thức tinh tế của nhà văn. Khi Trần Mạnh Hảo quy kết chính trị và đạo đức, bôi bẩn về thẩm mỹ, xúc phạm thô bạo những tác phẩm có những tìm tòi đổi mới về thi pháp, anh ta đã làm thui chột nhiều cảm hứng sáng tạo của nhà văn. Làm cho những người viết có tài chán nản, cụt hứng, đó là cái hiệu quả khống chế tự do sáng tác một cách sâu xa mà Trần Mạnh Hảo đã gây ra trong đời sống văn nghệ Việt Nam một thập kỷ qua. Nếu như cây roi của các nhà chính trị bảo thủ trước đây chỉ quất vào mông văn nghệ sĩ như Tự Đức đòi đánh đòn Nguyễn Du, thì ngọn roi của Trần Mạnh Hảo lại quất vào tim những người cầm bút. Nằm trong chăn biết chăn có rận, là nhà thơ có chút tinh tế, tài hoa, sắc sảo, Trần Mạnh Hảo đã đem những phẩm chất thi nhân của mình len lỏi vào thâm cung chữ nghĩa trong tâm hồn người viết để thăm dò, tâu báo và khủng bố. Đó là cái cách lợi hại khiến anh ta được phái bảo thủ bất tài trọng dụng để vừa hạn chế tự do sáng tác của các nhà văn, vừa đẩy nhà văn vào những chuyện ngoài lề chữ nghĩa. Những người cầm bút phải dành thời gian tâm trí cho việc thanh minh, tự vệ truy lĩnh lại thanh danh đã bị bôi bẩn và vì thế không còn tâm trí nghĩ về những chuyện lớn lao có tầm vóc toàn xã hội như tự do, dân chủ. Trần Mạnh Hảo là kẻ cướp đi nhiều tự do sáng tác của nhà văn, là cái roi ai đó đã dùng quất vào tâm hồn trí tuệ tự do của người nghệ sĩ, nay bỗng dưng anh ta lại la lối kêu ca về tự do sáng tác có khác nào vừa ăn cướp vừa la làng, đổ vấy tội lỗi của mình cho ai đó! Trên diễn đàn đại hội nhà văn lần 7 vừa qua, Trần Mạnh Hảo lại lớn tiếng đấu tranh đòi tự do sáng tác. Thật chẳng khác gì Chí Phèo lại có ngày la làng chửi bới những kẻ du côn đái vào miếu Thành Hoàng. Trần Mạnh Hảo nói rằng văn nghệ sĩ là những người thấp cổ bé họng trong xã hội mà lẽ ra họ phải là Thượng đế trong chân trời sáng tạo của mình, nhưng hỡi ôi, trước đó không lâu cái kẻ văn nhân thấp cổ bé họng đó đã bị “anh gác chợ” Trần Mạnh Hảo cậy quyền cậy thế hoạnh hoẹ, lục soát văn thơ, sờ nắn khám xét từng dòng chữ, từng dấu phảy để đong đếm từng tiếng cười tiếng khóc mà tri hô với Đảng về tư cách khả nghi của họ. Sau khi dùng những bài viết thô bạo và nguỵ biện để cướp đoạt được miếng đất tự do sáng tác, Trần Mạnh Hảo lại lớn tiếng bảo vệ miếng đất anh ta vừa cướp được, đó là cái cách thể hiện chủ quyền công khai để phi tang những hành vi cướp đoạt, tiến tới làm “sổ đỏ” cho miếng đất “bốn mặt tiền” anh ta có được sau ba lần trở cờ trắng trợn. Trên diễn đàn Đại hội, Trần Mạnh Hảo cũng phi tang việc anh ta sử dụng báo chí của công an làm nơi khủng bố văn nghệ sĩ bằng việc la lối về công an văn hoá khiến ông Khổng Minh Dụ phải bước lên trên bục để thanh minh.

Khi một bài viết đăng trên một tờ báo, người ta không chỉ nghĩ về một tác giả mà người ta nghĩ đến một thế lực đằng sau - thế lực chính trị, thế lực kinh tế, thế lực văn chương. Dù trên các văn kiện chính thức Đảng và nhà nước vẫn tỏ ra mở rộng tự do sáng tác, nhưng việc Trần Mạnh Hảo và một số người viết khác sử dụng các diễn đàn của các báo công an quân đội để quy kết chính trị bôi bẩn vu cáo văn nghệ sĩ cũng vô tình phản ảnh một động thái chính trị khiến văn nghệ sĩ không tin tưởng vào chế độ. Tôi rất băn khoăn về việc các báo Quân đội nhân dân, Văn nghệ quân đội và Công an TP Hồ Chí Minh liên tục cho đăng những bài đánh tôi trong nhiều năm nay, đánh từ văn học đánh sang điện ảnh, quy kết chính trị nặng nề, toàn những tội tày đình, có thể bị bỏ tù chung thân theo luật pháp: bài ký Nguyễn Thành Lân trên báo Quân đội nhân dân kết tội tôi chống lại khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Hồ Chủ tịch, bài ký tên Đặng Thành Nam trên báo Công an TP Hồ Chí Minh quy kết tôi là móc nối với những người chống cộng, tiếp tay cho những kẻ chuyển lửa về quê hương. Điều đáng nói là những bài đánh nặng tính vùi dập quy kết chính trị đó hoàn toàn không đúng, nên có bài về sau chính tác giả cũng thấy ân hận. Chẳng hạn, năm 1988, nhà thơ Nam Hà có viết một bài dài in trên hai số báo quy kết và thoá mạ nặng nề xung quanh bài viết của tôi về văn học hải ngoại in trên tờ Việt (Australia). Một thời gian sau, trong một cuộc hội thảo ở Văn nghệ Quân đội, một người bạn tôi là anh Trần Ngọc Vương có nói: “Anh Nam Hà có bài thơ rất hay mà thế hệ chúng tôi rất nhớ, đó là bài ‘Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi’. Nhưng chúng ta chiến đấu để cho Người sống mãi chứ không phải chiến đấu để cho Người phải chết. Vì thế không nên có những bài như bài đánh Đỗ Minh Tuấn trên báo Công an TP thì hơn”. Sau buổi hội thảo, anh Nam Hà có thanh minh với Trần Ngọc Vương rằng: “Nhờ Vương nói với Tuấn là bài ấy của mình bị toà soạn họ cắt xén thêm bớt nhiều, rồi đặt lại đầu đề. Chứ mình viết không đến nỗi nặng nề như thế”. Sau này, khi tôi làm phim về Điện Biên Phủ chiếu cho hơn hai triệu người xem trong cả nước, gần hai chục tờ báo có bài khẳng định phim hoành tráng, chân thực và xúc động vượt lên tất cả những phim chiến tranh và phim đặt hàng từ trước tới nay, nhưng riêng các báo của công an liên tục có bài bôi nhọ. Điều đó khiên tôi không khỏi suy nghĩ, phải chăng tôi đã chạm vào một vấn đề nhạy cảm “có tầm thời đại” trong mối quan hệ quân đội công an, nên tác phẩm của tôi bị đối xử bất công?

Hoang Yen
Qua trải nghiệm của bản thân và qua quan sát, tôi nhận thấy các bài viết phê bình lý luận và các sáng tác nào thể hiện một nỗ lực vươn tới “ngang tầm thời đại” - nhắm tới những vấn đề của thời đại, vận dụng những phương pháp, những tri thức và những kỹ năng của thời đại - đều chịu số phận không may, bị những kẻ cơ hội nhân danh Đảng xuyên tạc, bôi bẩn và xúc phạm. Những nỗ lực đối thoại, trao đổi học thuật để đi đến một sự đồng cảm, đồng điệu đều bị chặn lại vì một tập quán mini họa trong đời sống học thuật và báo chí của chúng ta. Ở nước ngoài hay ở chính nước ta trước đây đã có những cuộc tranh luận kéo dài hàng năm, thậm chí vài năm xung quanh một vấn đề. Nhưng giờ đây, những cuộc trao đổi như vậy không có nữa, hoặc là chỉ trói lại để đánh, hoặc là bị Ban Tư tưởng-Văn hoá stop giữa chừng. Tôi đề nghị Ban TTVH không stop các cuộc trao đổi, tranh luận học thuật nữa. Nếu thấy cần khẳng định một quan điểm nào đó, thì hãy đặt hoặc thuê người giỏi viết bài đáp lại các quan điểm trái ngược, nếu trong nước không có người đủ trình độ giúp Đảng chiến thắng thì bỏ tiền ra thuê học giả nước ngoài, chứ không nên dùng quyền để stop các cuộc tranh luận mà quan điểm được coi là chính thống đang yếu thế. Có như thế mới làm cho nền văn học nghệ thuật của chúng ta ngày càng phát triển ngang tầm thời đại.


2. Vì sao văn nghệ ta chưa ngang tầm thời đại?

Nếu làm một cuộc khảo cổ về tinh thần, ta có thể thấy cụm từ, cái ý tưởng coi văn học luôn luôn đi chậm hơn thời đại, luôn luôn không xứng với thời đại chỉ xuất hiện ở nước ta vài thập kỷ gần đây. Đó là cái ý tưởng xây dựng trên một tiên đề ngầm định rằng văn nghệ là công cụ phục vụ cách mạng, luôn luôn đi sau để phản ánh hiện thực cách mạng mà tầm vóc của nó được đo bằng tầm ảnh hưởng chính trị trong phạm vi xã hội. Khái niệm “thời đại” trong các văn bản nghị quyết, chỉ thị và sách báo của ta phải hiểu là thời đại cách mạng, khái niệm “tầm thời đại” phải hiểu là tầm tư tưởng chính trị của Đảng, tầm xả thân cho lẽ sống mà cách mạng đã giáo dục, tầm những chiến công, sáng tạo gây ảnh hưởng lớn trên thế giới. Nghĩa là chữ thời đại ở đây chủ yếu chỉ là thời đại của những gì xảy ra trong nội địa, không có nhiều nội dung và ý nghĩa toàn cầu. Nếu không giới hạn khái niệm như vậy, thì sẽ dẫn đến những băn khoăn, bối rối khi nhìn vào những sự kiện và những chuẩn mực cũng có tầm thời đại khác trong kỷ nguyên toàn cầu hoá với phong trào dân chủ đang ngày càng lan rộng sau cuộc cách mạng nhung ở Đông Âu như vấn đề sự lên ngôi của đồng tiền trong thời đổi mới, bản chất văn hoá của tham nhũng và mafia, sức ép đổi mới chính trị khi gia nhập các tổ chức quốc tế như WTO, vấn đề độc đảng và đa đảng, vấn đề chủ quyền biên giới và lãnh hải trong thời đại mới v.v. Bản thân những vấn đề có tầm thời đại này gần như là cấm kỵ trong sáng tác văn nghệ trong nước, vậy thì đòi hỏi văn nghệ có tác phẩm ngang/xứng tầm thời đại là một đòi hỏi phi lý và vô lối.

Không tính đến những gì bị hạn chế và cấm kỵ, nếu chỉ so với những gì mà cách mạng đã làm được trong lịch sử dân tộc thì văn học nghệ thuật cách mạng quả cũng “chưa xứng tầm thời đại”. Nhưng cái tầm vóc lùn tịt ấy của văn nghệ không phải do tài năng của nghệ sĩ không đủ, mà chính là do cái tư cách công cụ mà cách mạng đã định ra cho nó và cái phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa mà nó phải đeo mang như một vũ khí chỉ định trong cuộc so gươm với văn nghệ toàn cầu là thứ văn nghệ tự do chọn vũ khí trong các cuộc giao tranh. Nếu cách mạng quả thực là một giá trị văn hoá tư tưởng cao nhất của thời đại, thì tên hề đồng văn học cách mạng theo hầu ông chủ tất cũng phải được hưởng tầm cao đó, như đứng trên vai người khổng lồ vậy. Theo logic ấy thì một tác phẩm văn nghệ cách mạng dở cũng phải có tầm thời đại hơn những tác phẩm khác không phải là công cụ của cách mạng. Nhưng khi mắng mỏ chê bai văn học nghệ thuật của ta còn “chưa xứng tầm thời đại”, những người định giá văn học cách mạng đã không so sánh giá trị của văn nghệ cách mạng với văn nghệ thế giới, mà so sánh nó với chính tác phẩm của Đảng là hiện thực cách mạng của đất nước hôm nay. Cách nhìn nhận đó, cách so sánh đó sẽ vĩnh viễn đặt văn nghệ sĩ vào thế vĩnh viễn thua cuộc trong cuộc chạy đua với các nhà chính trị, trong đó, các nhà chính trị được tự do sáng tác ra hiện thực còn các nhà văn phải tái tạo lại cái hiện thực mà các nhà chính trị đã sáng tạo ra. Bên cạnh đó, các tác phẩm văn nghệ của ta còn bị đo đạc bởi những thước đo hổ lốn khác của thời đại như: tinh thần duy lý khoa học của thế kỷ 19 mà nhân loại đang rũ bỏ nhưng vừa mới được du nhập bổ sung vào dân trí; chủ nghĩa thực dụng và văn hoá đại chúng tân kỳ chộp giật và ăn xổi từ các phương tiện truyền thông; tinh thần vọng ngoại tiềm tàng trong cơ chế tổ chức và hoạt động của ngành văn hoá; thị hiếu tân thời của công chúng như là sản phẩm hình thành từ phim hành động Mỹ, phim tình cảm Hàn Quốc và những vụ án ly kỳ xen những lời răn dạy đạo lý kiểu cải lương trên báo chí công an.

Hoang Yen
Có lẽ cái tội danh “chưa ngang/chưa xứng tầm thời đại” chỉ có trong đời sống văn học của riêng nước ta. Trong lịch sử văn học nghệ thuật thế giới, văn nghệ luôn luôn đi trước thời đại, đứng trên tầm thời đại để tự do dự đoán, tiên tri và mơ mộng về những quyền năng mới của loài người và những cách thức chung sống, yêu thương, sáng tạo, đấu tranh. Các nhà văn và các nghệ sĩ điện ảnh ở nhiều xứ sở luôn là những người có những ý tưởng vạch hướng cho khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, trong đó có khoa học chính trị. Các nhà viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng như nhà văn Lucian (Thổ Nhĩ Kỳ) đã có ý tưởng về một con thuyền bay lên mặt trăng từ cách đây 20 thế kỷ; Savinien Cyrano de Bergerac (Pháp) đã tưởng tượng ra chuyện du hành lên mặt trăng và mặt trời bằng tên lửa trong bộ tiểu thuyết Du hành đến Mặt trăng và Mặt trời (Voyages to the Moon and Sun) viết từ thế kỷ 17; Junes Verne (Pháp) và Herbert George Well (Mỹ) trong các bộ sách viết từ thế kỷ 19 như: Hai vạn dặm dưới đáy biển, Năm tuần trên khinh khí cầu, Từ trái đất tới mặt trăng, Người vô hình, Cỗ máy thời gian, Chiến tranh giữa các hành tinh… đã đưa ra nhiều ý tưởng khoa học táo bạo, vượt tầm thời đại, tiên đoán sự ra đời của tàu ngầm, máy phát điện, máy phá băng, điều hoà nhiệt độ, băng đĩa lưu giữ hình ảnh, âm thanh, các thiết bị giúp tổ chức hội nghị từ xa và nhiều phương tiện kỹ thuật tân tiến khác. Không chỉ tiên đoán về khoa học kỹ thuật, các nhà văn và các nghệ sĩ điện ảnh còn tiên đoán về các hiện tượng tự nhiên và các trào lưu xã hội, các lối sống và thủ đoạn hành động của con người như nhà văn Anh Arthur C. Clarke đã từng mô tả sóng thần đổ vào bờ biển Sri Lanka trước khi chuyện đó xảy ra nhiều năm; nhà văn Isaac Asimov trong loạt truyện về người máy và đạo diễn Steven Spielberg trong bộ phim Trí thông minh nhân tạo (Artificial Intelligence) đã tiên đoán về chuyện những robot ngày càng trở nên thông minh hoàn thiện theo hình mẫu con người, ngày càng can thiệp sâu vào đời sống xã hội và có nguy cơ chống lại nhân loại; các nhà viết truyện tranh Nhật Bản thuộc làn sống mới shojo manga dự báo về đồng tính luyến ái từ thập kỷ 70 của thế kỷ 20, v.v.

Phải chăng, các văn nghệ sĩ của chúng ta không có khả năng vượt tầm thời đại như văn nghệ sĩ trên thế giới? Không, chúng ta đã có Vũ Trọng Phụng tiên cảm về một xã hội vô thường trong Số đỏ viết từ đầu thế kỷ trước, có Nam Cao hình dung về một kiểu quyền lực của kẻ cùng đinh trong mô hình nhân cách văn hoá đặc thù của Chí Phèo, dự cảm về cái nhạt nhẽo hiện sinh của cuộc đời trí thức khi mất đi lẽ sống trong Sống mòn. Đó là những nhà văn ngang tầm thời đại, vượt tầm thời đại nhờ có được tự do sáng tác và tác phẩm của họ được đo đạc bằng những tiêu chí văn hoá, thẩm mỹ có tầm nhân loại rộng hơn nhiệm vụ của một người chiến sĩ cách mạng.

Nhiều văn nghệ sĩ của chúng ta hôm nay mặc dù chẳng sáng tác được tác phẩm nào thực sự có giá trị vẫn chân thành ấp ủ niềm tự hào với tư cách một chiến sĩ cách mạng “dùng cán bút làm đòn xoay chế độ”, thậm chí họ sẵn sàng đánh đổi niềm kiêu hãnh văn chương lấy niềm kiêu hãnh của người chiến sĩ. Sự xa lánh một số phương pháp sáng tác khác ngoài phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa và sự tự “thiến hoạn” trí tưởng tượng tự do sáng tạo được họ ý thức như một sự hy sinh vì đại nghĩa. Nếu hiểu được đó là một kiểu phẩm giá do cách mạng đào luyện thì không nên mắng mỏ, chê bai họ là “chưa xứng tầm thời đại”, vì đó là cách đánh giá ăn gian theo kiểu đo một sự vật bằng hai cây thước có giá trị ngược chiều nhau. Bởi lẽ, nếu muốn làm cái gì “xứng tầm thời đại” thì các văn nghệ sĩ của ta khó có thể giữ nguyên tư cách người chiến sĩ trung kiên trong đội ngũ cách mạng để biến văn nghệ thành công cụ tuyên truyền giáo dục và đấu tranh chính trị như nửa thế kỷ qua. Nên trân trọng sự dấn thân của họ, sự hy sinh tự do của họ, sự có mặt thầm lặng của họ trong đội ngũ những đoàn quân cách mạng.

Hy vọng rằng với những đổi mới trong đời sống chính trị xã hội, trong quan niệm văn học nghệ thuật và trong lãnh đạo văn hoá nói chung, văn nghệ sĩ của ta sẽ ngày càng có tự do sáng tác để cho ra đời những tác phẩm vượt tầm thời đại như văn nghệ sĩ của các xứ người.

© 2005 talawas

Hoang Yen
Trần Mạnh Hảo
“Chiếc ca-pốt rách của Đảng” thưa chuyện cùng “chiếc ca-pốt lành của Đảng”

Xin quý độc giả thứ lỗi, cái nhan đề có vẻ khiếm nhã trên không phải do Trần Mạnh Hảo nghĩ ra, mà là “phát minh” của nhà văn kiêm đạo diễn điện ảnh Ðỗ Minh Tuấn, đăng trên talawas, mục “Văn học Việt Nam” ngày 5-5-2005, trong tham luận của tác giả tại Đại hội Nhà văn Việt Nam từ ngày 23-25 tháng 4-2005: “Vì sao văn học ta chưa ngang tầm thời đại?”, có đoạn viết như sau: “Năm 1998 tôi đã phải viết một thư ngỏ chuyền tay, gọi “Trần Mạnh Hảo là cái ca-pốt rách của Đảng”, giữ vệ sinh cho Đảng trong quá trình giao lưu văn hoá làm bạn với tất cả thế gian...”

Ðoạn văn trên của Ðỗ Minh Tuấn do ông chính thức đứng trên diễn đàn Hội trường Ba Ðình phát ngôn vào chiều ngày 24-4-2005. Trước mặt ông Nguyễn Khoa Ðiềm, Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam kiêm Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương và nhiều chục cán bộ trung cao cấp khác của Đảng Cộng sản, cùng ngót 600 nhà văn đảng viên và nhà văn không đảng viên, Ðỗ Minh Tuấn đã “tấn phong” cả Ðảng và Trần Mạnh Hảo trong vai trò mới rất kinh dị của hành vi giao hợp vĩ mô, bằng chiếc-ca-pốt-người-Trần-Mạnh-Hảo? Có lẽ, trong lịch sử 75 năm của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ từng bị ai chửi thậm tệ đến như vậy, hạ nhục bằng lời lẽ thô bỉ vô văn hoá đến như vậy, lại bị chửi ngay ở giữa trái tim của Đảng là Hội trường Ba Ðình; thế mà ông Nguyễn Khoa Ðiềm và mấy trăm đảng viên vẫn im lặng ngồi nghe, không phản ứng, đại hội kết thúc cả tháng vẫn không thấy Đảng đáp lại cú chửi lịch sử của Ðỗ Minh Tuấn là sao? Có khi nào “Việt Minh làm thinh đồng ý”, ông Nguyễn Khoa Ðiềm im lặng không phản ứng hay sai hàng nghìn thuộc hạ phê phán trên hơn 600 tờ báo của Đảng mà ông Ðiềm thực chất là tổng biên tập (mượn ý của nhà văn Hoàng Quốc Hải), ngầm như một sự chấp nhận câu chửi Đảng vĩ đại của Ðỗ Minh Tuấn kia là đúng sự thật?

Ðỗ Minh Tuấn từ trên diễn đàn cao quý vào bậc nhất chế độ, đã công khai coi “quá trình giao lưu văn hoá” của Đảng Cộng sản “với tất cả thế gian” (thế gian: bao gồm cả loài người, trong đó có nhân dân Việt Nam) chỉ là quá trình của quý ông đi trác táng! Hãi thật! Trần Mạnh Hảo tôi không khỏi rùng mình, vì qua lời Ðỗ Minh Tuấn, chợt mới biết thân phận mình đã bị Đảng biến thành bao cao su hành lạc một cách nhục nhã, ô trọc là dường nào! TMH xưa nay chỉ là một dân đen (không đảng viên, không biên chế nhà nước) tưởng đi theo Đảng là vinh quang lắm, thiêng liêng cao quý lắm, ai dè bị biến thành cái bao cao su từ lúc nào, để Đảng hành lạc cả dân tộc, cả đất nước mà sao mình vẫn không hay biết mới là cái thằng ngu thậm? Theo lô-gíc của Ðỗ Minh Tuấn, Ðảng Cộng sản hiện có hai triệu đảng viên, chả lẽ chỉ dùng một cái ca-pốt Trần Mạnh Hảo, lại là ca-pốt rách, thì làm sao mà xài đủ hàng triệu cuộc mây mưa lịch sử vĩ đại này? Chắc Đảng phải “thủ” nhiều triệu Trần Mạnh Hảo khác ngon lành hơn, cỡ như Ðỗ Minh Tuấn trong túi quần, vứt cái ca-pốt rách Trần Mạnh Hảo vào sọt rác, mới có đủ cơ số ca-pốt mà ăn chơi vĩnh viễn như lời Ðỗ Minh Tuấn trịnh trọng tuyên bố trên cái bục gỗ quốc gia - nơi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội bao năm thường đứng đọc diễn văn? Hoá ra, thân phận của một anh dân đen cỡ Trần Mạnh Hảo chỉ đáng là cái bao cao su rách để Đảng “chơi giao lưu văn hoá” như Ðỗ Minh Tuấn tuyên bố.

Thực tình, nghe Ðỗ Minh Tuấn tuyên bố như trên về vai trò cách mạng khoái lạc giữa Ðảng (con C...) và Trần Mạnh Hảo (ca-pốt rách), chúng tôi nghĩ ông Tuấn đã nói bậy, làm gì có chuyện này? Nhưng suốt cả tháng trôi đi, Đảng mà cụ thể là ông Nguyễn Khoa Ðiềm vẫn làm thinh không cải chính, khiến Trần Mạnh Hảo bán tín bán nghi, biết đâu bản chất vấn đề lại nằm ở câu chửi rất kinh khủng kia của Ðỗ Minh Tuấn? Nhưng làm sao Ðỗ Minh Tuấn khám phá ra cái vụ giao hợp tày trời là Đảng đã bí mật dùng người dân Việt Nam làm bao cao su để hành lạc văn hoá?

Có lẽ điều này Ðỗ Minh Tuấn đã biết, đã lén nhìn thấy ở nhà ông Lê Ðức Thọ? Hay ông Tuấn đã được biến thành “công cụ giữ vệ sinh” cho Đảng khi cách đây gần 30 năm trước, ông và ông Vĩnh Quang Lê đi đâu cũng khoe là người của Lê Ðức Thọ, đưa ảnh mình chụp chung với “cụ Thọ” ra như một thứ “căn cước vô song” làm khiếp vía bao người. Chính vì thế ông Tuấn mới biết rất rành rẽ việc Đảng đã biến một văn nghệ sĩ thành ra cái ca-pốt như thế nào. Ðây, xin quý vị xem những dòng phê bình đấu tố, phê bình chỉ điểm, phê bình quy chụp chính trị của Ðỗ Minh Tuấn từng in trên nhiều tờ báo, sau này tập hợp in trong tập Ngày văn học lên ngôi do nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 1996.

Ðỗ Minh Tuấn không chỉ dùng một bài “Cõi chập chờn bất định và tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh” để phê phán nhà văn Bảo Ninh, mà lác đác trong các trang của tập tiểu luận Ngày văn học lên ngôi, ông Tuấn bảo hoàng hơn vua đã nhiều lần quy kết chính trị Bảo Ninh:


“Trong một số tác phẩm về chiến tranh chống Mỹ, tiêu biểu là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, đã xuất hiện sự thay máu anh hùng, tước đi những khát vọng cao cả, những cảm quan anh hùng có thực trong đời sống những người chiến sĩ của chúng ta trong chiến tranh để thay vào đó những cảm xúc, hành vi, khẩu khí và toan tính thời hậu chiến. Có ý thức hay không đó cũng là sự đánh tráo linh hồn, nhân danh một toà án tối cao của chủ nghĩa nhân văn để ép cung và xáo trộn hiện trường lịch sử, tạo ra những nhân chứng giả thay thế những nhân chứng thật đã xuất hiện trong các tác phẩm được viết theo thủ pháp nghệ thuật quen thuộc trước đây. Và, nhà văn, cố tình hay vô tình, khi ném thủ pháp nghệ thuật cũ đã làm vỡ luôn cái bình quý là hình ảnh người anh hùng có thật trong lịch sử.” (Ngày văn học lên ngôi, tr. 19).
Hoang Yen
Trang 76 trong cuốn sách này, Ðỗ Minh Tuấn tiếp tục “đánh” Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh như sau:


“Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh chẳng có gì đáng làm ta kinh hãi, vì nếu nó cũ mòn và lạc hậu về tư tưởng thì nó cũng như trăm ngàn cuốn tiểu thuyết xoàng xĩnh quanh ta. Cái làm ta kinh hãi là việc người ta ngộ nhận về giá trị của nó, giao giải thưởng cho nó, tiếp tục đưa nó lên mây xanh để dễ bề khai thác nó. Một điều “chập chờn bất định” làm ta kinh hãi nữa là thật khó mà biết được những bản dịch cuốn truyện này đã xa nguyên tác đến đâu...”

Trang 29 trong cuốn sách này, Ðỗ Minh Tuấn quy chụp chính trị Lại Nguyên Ân rất khiếp như sau:


“Một mâu thuẫn nữa trong lập luận của anh là, một mặt anh coi thường quần chúng như là một bầy đàn dễ bị thao túng ý thức, mặt khác lại coi thường thiểu số: “công việc này thực ra một vài người không làm nổi”. Vậy thì theo anh, phải bao nhiêu người, bao nhiêu đô la, bao nhiêu cuốn sách để áp đặt vào quần chúng hình ảnh của nước Việt Nam hiếu chiến, phí máu “ám sát hòa bình”? Và cái bức tường Berlin mà anh đã nói về sự sụp đổ của nó như là ví dụ về một “huyền thoại chết” có phải là do quần chúng phá đổ trong sự say mê huyền thoại về dân chủ hay không? Vậy thì ai đã thao túng tâm lý đám đông để nó cuồng nhiệt lao theo một nền dân chủ mà nã pháo vào quốc hội, như nền dân chủ của ông Enxin?”

Trong trang 33 của sách này, Ðỗ Minh Tuấn tiếp tục đóng vai nhà mác-xít lên án Lại Nguyên Ân lệch lạc về tư tưởng để răn đe bọn cầm bút nào a dua với tư bản, đế quốc:


“Khi chúng ta đặt vấn đề phải cảnh giác với mưu đồ giải huyền thoại Việt Nam là chúng ta đứng trên lập trường khoa học của chủ nghĩa Marx để chống lại việc xuyên tạc lịch sử... Trong bài viết, hai lần Lại Nguyên Ân dùng chữ “đám đông” để gọi quần chúng. Thái độ trịch thượng này xa lạ với tinh thần coi trọng quần chúng như một lực lượng sáng tạo lịch sử trong tư tưởng của một người mác-xít... Không chỉ hiểu sai chủ nghĩa Marx, Lại Nguyên Ân còn ngộ nhận về bản chất của tôn giáo...”

Đỗ Minh Tuấn đã thực sự trở thành “cái ca-pốt lành của Đảng”, một thứ ca-pốt vĩnh cửu, đa hệ, trung thành, nó mới dẻo dai làm sao, dùng mãi không rách! Hãy nhìn Ðỗ Minh Tuấn đánh lại đám nhà văn “đổi mới-đón gió-chống Đảng” một cách còn kiên cường hơn cả ông Nguyễn Khoa Ðiềm bội phần, lên án bọn nhà văn phản lại cách mạng và đe dọa trừng trị chúng ở trang 66, sách đã dẫn:


“Nếu nghệ sĩ có dấn thân vào cuộc đấu tranh cách mạng cùng nhân dân, dân tộc, thì đó là sự tự nguyện, sự hòa điệu giữa mục đích của anh ta với mục đích chung. Anh ta có quyền đứng ngoài, có quyền thờ ơ với sự nghiệp chung nhưng anh ta nên nhớ rằng quyền lựa chọn chỗ đứng trong lịch sử này không đồng nghĩa với quyền chỉ trích tự do sáng tạo của những nghệ sĩ hòa điệu cùng dân tộc và cách mạng, càng không phải quyền chống lại dân tộc và cách mạng.”

Ðỗ Minh Tuấn cảnh cáo diễn biến hòa bình trong văn học, vạch trần bọn cầm bút tay sai cho các thế lực phản động từ bên ngoài, bọn muốn Ðông Âu hoá Việt Nam, muốn xóa sổ chủ nghĩa xã hội tốt đẹp, như ở trang 67 cuốn sách trên:


“Không ít kẻ thực dụng, cơ hội nhân danh tự do sáng tạo để đòi xã hội phải thừa nhận, ủng hộ và bảo hiểm cho những hành vi chống đối phá hoại của mình, xếp hạng cho những tác phẩm nghệ thuật phục vụ những mục đích chính trị của kẻ chống lại dân tộc. Họ thường bôi nhọ những nghệ sĩ hòa điệu với dân tộc, với cách mạng là những người “cơ hội”, “phục vụ cấp trên”. Trong khi đó, chính họ, họ tìm cấp trên ở ngoài biên giới, vì họ cho rằng họ chỉ phục tùng cấp trên cỡ thế giới mà thôi! Và họ vô tình hay cố ý, trực tiếp hay gián tiếp đem tác phẩm của mình phục vụ những mục tiêu chính trị của siêu cấp trên này hoặc trở thành món hàng béo bở cho những con buôn. Họ tự đánh lừa mình họ có nhân cách, có tự do sáng tạo, nhưng họ đã bán mình cho quỷ mà không biết. Họ cũng tìm kiếm một bảo hiểm cho mình ở các áp lực của nước ngoài. Thậm chí họ trang điểm một ít son phấn chống đối để bảo hiểm cho tương lai, nếu chế độ này sụp đổ như Ðông Âu thì họ dễ tìm thấy chỗ đứng trong chế độ mới...”

Nếu cứ trích những dòng “hồng vệ binh” của “ông-cai-văn-nghệ-đỏ-ca-pốt-lành-của-Đảng-Ðỗ-Minh- Tuấn” đấu tố đồng nghiệp, vung roi chuyên chính vô sản quất anh em “đổi mới văn học” như trên, thì trích đến mai cũng không hết.

Thế mới biết Đảng ta vậy mà khôn lắm: vứt “cái-ca-pốt-rách-trần-mạnh-hảo” đi mà dùng “cái-ca-pốt-lành-đỗ-minh-tuấn” nó lợi bội phần. Còn hơn ông Trường Chinh dùng một “cái roi ngựa phê bình” xưa, không cần quất cho con ngựa văn học nghệ thuật lồng lên, mà quất cho nó quỵ xuống càng tốt mới là Ðỗ Minh Tuấn đa hệ đa năng! Và, Đảng ta công bằng lắm, gái có công chồng chẳng phụ. Nhân dịp 50 năm kỷ niệm chiến thắng Ðiện Biên Phủ 1954-2004, lệnh của Bộ Chính trị cho Ban Tư tưởng Văn hoá + Cục Điện ảnh + Hội Điện ảnh Việt Nam phải tìm một đạo diễn “vừa hồng vừa chuyên”, tuyệt đối tốt về phẩm chất chính trị, có công bảo vệ Đảng nhiều năm, để trao cho một triệu đô-la mà làm phim ca ngợi chiến thắng Ðiện Biên Phủ. Ngoài đạo diễn đỏ Ðỗ Minh Tuấn ra, còn ai có thể vừa mắt Bộ Chính trị để cầm một triệu đô-la tiền đầu tư sáng tác vĩ đại nhất từ xưa tới nay như thế! Với số tiền cực lớn này, chỉ cần bỏ ra tí teo là báo chí cả nước đã tuyên truyền cho phim chính trị Ký ức Ðiện Biên, như thể nó sắp được giải Oscar! Thế rồi phim làm xong, đem ra chiếu, xem ngượng chết được, có ma nào xem đâu, bị báo chí cả nước chửi cho sao ném số tiền 14 tỷ đồng Việt Nam ra để làm thứ phim vứt sọt rác thế? Thậm chí, sáng nay, thứ sáu 20-5-2005, khi TMH ngồi viết bài này, thấy trang đầu báo Thanh Niên mới ra cùng ngày, vẫn còn phê bình kiểu làm phim để cất kho như kiểu phim “cúng cụ” của ông đạo diễn Ðỗ Minh Tuấn. Ðấy là bài báo của tác giả Nguyễn Thông với tiêu đề: “Làm phim để cất kho” kịch liệt phê phán phim Ký ức Ðiện Biên dở tệ, làm để cốt “cất kho, là phim làm bằng kinh phí nhà nước, mà nào có ít, mỗi phim tốn cả chục tỉ đồng...”

Vấn đề là năm ngoái Ðỗ Minh Tuấn mới cầm một triệu đô-la tiền đầu tư sáng tác của Đảng ưu ái, chưa đầy một năm đã lên hội trường Ba Ðình chửi Đảng dùng người dân làm bao cao su để hành lạc “giao lưu văn hoá với khắp thế gian”. Trò tráo trở này có thể làm ông Nguyễn Khoa Ðiềm ngồi nghe kinh ngạc mãi không mở nổi miệng!

Sài Gòn 20-5-2005

© 2005 talawas

Hoang Yen
Đỗ Minh Tuấn
Tiếp tục nhận diện «ca-pốt rách của Đảng»

Nghe tin Trần Mạnh Hảo có bài đối thoại với tôi trên talawas, tôi tưởng rằng sẽ được đọc những ý tưởng hay, mới lạ nhằm trao đổi với tôi những vấn đề học thuật xung quanh bài viết "Vì sao văn học ta chưa ngang tầm thời đại" đăng đã ba tuần mà chưa có hồi âm. Nào ngờ sau 20 ngày nghiền ngẫm Trần Mạnh Hảo chỉ tung ra những lời lẽ bù lu bù loa, ngoa ngoắt và kích động xung quanh mấy chữ "ca-pốt rách của Ðảng" - cái danh hiệu tôi mà đã tặng cho ông trong bài tham luận kia. Trần Mạnh Hảo đã dùng tới gần ba ngàn chữ để đối thoại với 5 chữ của tôi, kích động lộ liễu hàng loạt thế lực chính trị trong và ngoài nước hòng đưa tôi vào cái thế bị cả hai bên cùng căm thù và đối phó. Cái tình thế đi giữa nhiều làn đạn tôi đã quen rồi. Cái cung cách phường tuồng mồm loa mép giải, ngụy biện, bịa chuyện và đánh tráo của Trần Mạnh Hảo chẳng ai còn lạ nữa. Song, việc một sự phân tích cụ thể bài viết của ông sẽ giúp đọc giả gần xa hiểu thêm một số cảnh ngộ và tâm thế của những người trí thức, qua đó nhìn ra một số vấn đề và diễn biến liên quan đến nhân cách trí thức và xu thế dân chủ hoá trong đất nước hôm nay.


Ðạo văn, diễn giải xuyên tạc hình tượng “ca-pốt rách”

Có thể nói Trần Mạnh Hảo đã "đánh cắp" bản quyền hình tượng ca-pốt của Ðảng mà tôi nghĩ ra để tạo hình tượng "ca-pốt lành của Ðảng" hết sức dễ dãi và khiên cưỡng. "Ca-pốt rách của Ðảng" là một hình tượng mới mẻ và hoàn chỉnh, khái quát được toàn bộ nhân cách lý luận của Trần Mạnh Hảo cả khi ông viết Ly thân lẫn khi ông viết các bài phê bình khủng bố các nhà văn, thậm chí bao quát cả tương lai ứng xử đầy bất trắc của Trần Mạnh Hảo - nếu ông tiếp tục giữ vệ sinh cho Ðảng bằng các bài viết quy chụp và đe nẹt thì vẫn là thực hiện chức năng của chiếc ca-pốt, nếu ông viết những cái khác quay ngược 180 độ kiểu như bài tham luận cò mồi về tự do sáng tác trong đại hội kia thì nghĩa là vết rách của cái ca-pốt ấy đã to hơn. Còn "ca-pốt lành" chỉ là một trò nói ngược giản đơn, không có nội dung thực tế cụ thể và thuyết phục. Hình tượng hoá một nhân cách lý luận không thể chỉ là trò chơi chữ, đảo chữ giản đơn mà phải căn cứ trên các hành vi học thuật và các tương quan thực tế. Gọi Trần Mạnh Hảo là chiếc "ca-pốt rách của Ðảng" là chính xác vì ông luôn đóng vai trò cái vỏ đạo lý của Đảng che đậy những dục vọng quyền lực và luôn sử dụng khái niệm một cách co dãn để lúc nào cũng vừa khít với độ cương cứng lên gân không ổn định của những người cầm quyền... Khi lãnh đạo hữu khuynh, bất lực và thoả hiệp, không lên gân lập trường thì nhà lý luận-phê bình Trần Mạnh Hảo trở nên thất nghiệp. Ðỗ Minh Tuấn thì ngược lại, không bao giờ chịu làm cái vỏ cho Ðảng mà luôn tìm cách nới hết cỡ cái vỏ nguyên tắc tù mù co dãn vẫn trùm lên giam hãm cái dương vật tinh thần đầy hứng khởi tự do. Vốn có chút "bảo hoàng hơn vua" như Trần Mạnh Hảo đã nhận định, Ðỗ Minh Tuấn trở nên hùng hồn nhất khi Ðảng hữu khuynh, bạc nhược để cho bọn cơ hội, vọng ngoại báng bổ cha ông và chà đạp lên các giá trị đích thực của dân tộc. Như vậy sao có thể coi Ðỗ Minh Tuấn là cái ca-pốt lành của Ðảng được?!

Trần Mạnh Hảo đã làm thô thiển hình tượng tinh tế của tôi khi đưa vào cụm từ "ca-pốt rách của Ðảng" những gạch nối quê mùa ("ca-pốt-rách-của-Ðảng"). Những gạch nối kiểu Trần Mạnh Hảo làm cho một cụm từ tự nhiên co cụm vào nhau như một thứ băng đảng, vô tình phát lộ cái thói quen móc nối phe cánh của những người viết văn kém cỏi, gợi nhớ đến những trò bàn bạc, tê lê phôn của những người đứng sau Trần Mạnh Hảo vẫn phát hiện vấn đề và cung cấp tri thức cho ông ta viết hàng loạt bài khủng bố trí thức văn nghệ sĩ.

Thông điệp của hình tượng "ca-pốt rách của Ðảng" rất rõ ràng là: Ðảng chớ có dùng những người như Trần Mạnh Hảo để bảo vệ mình mà bị nhiễm HIV lúc nào không biết. Trần Mạnh Hảo biết thừa thông điệp đó, nhưng vẫn cố xuyên tạc rằng tôi chửi Ðảng là con c... Chẳng lẽ khi ai nói "ca-pốt của Trần Mạnh Hảo" thì phải hiểu rằng Trần Mạnh Hảo là con C... hay sao? Ca-pốt của Trần Mạnh Hảo thì Trần Mạnh Hảo để trong túi hoặc đeo vào của quý chứ có trùm lên đầu đâu mà hiểu xiên xẹo vậy? Nhân cách Trần Mạnh Hảo lại đòi bao trùm lên toàn Ðảng được sao? Nhiều dân tộc đã từng thờ dương vật như một thứ tô-tem giáo, vì thế, dẫu có chứng minh khiên cưỡng được rằng cái cụm từ trên nhằm nói Ðảng là cái dương vật, thì cũng chẳng thể dẫn đến kết luận là tôi chửi Ðảng. Trái lại, coi Ðảng là cái dương vật của dân tộc là thái độ tôn vinh khuyến khích Ðảng ngày càng vững mạnh, vì nếu Ðảng không cứng cáp thì sẽ không thể hoàn thành sứ mệnh sinh sản cho dân tộc và những cái ca-pốt rách kiểu Trần Mạnh Hảo có nguy cơ thất nghiệp vì không thể đeo bám vào như khi được bảo vệ một dương vật hiên ngang.

Trong bài viết của Trần Mạnh Hảo, ở câu trên Ðảng là một biểu tượng dương vật (con C.), đến câu dưới Ðảng đã là một con người có dương vật đeo ca-pốt rách, đến câu dưới nữa Ðảng lại là hàng triệu người có nhu cầu dùng ca-pốt trong quá trình hành lạc thời đổi mới. Liên tục đánh tráo chủ thể trong một đoạn văn, đó là sản phẩm của một tư duy áp đặt tuỳ tiện và ngoa ngoắt, quen nhồi nhét cách hiểu chủ quan của mình đối với câu chữ và hình tượng của người khác cho dù các cách hiểu lúc trước và lúc sau luôn luôn mâu thuẫn. Với tư duy đổi hệ quy chiếu, đổi chủ thể liên tục như thế, hơn mười năm qua Trần Mạnh Hảo đã tạo ra một đống lý luận "củ chuối" chỉ lừa được những ai thiếu một tư duy logic lành mạnh, bình thường.

Hoang Yen
Một tư duy luôn phò lãnh đạo và hướng đến cấp trên

Trần Mạnh Hảo viết: "Ðỗ Minh Tuấn trịnh trọng tuyên bố trên cái bục gỗ quốc gia - nơi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội bao năm thường đứng đọc diễn văn". Cách liên tưởng của Trần Mạnh Hảo cho thấy ông luôn có xu hướng phò lãnh đạo, hướng tới cấp trên. Cái bục ở Hội trường Ba Ðình không chỉ có Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội đứng đọc diễn văn mà còn có nhiều người bình thường khác như các em thiếu nhi, các cựu chiến binh, những người nông dân công nhân và các trí thức văn nghệ sĩ từng đứng nói những suy nghĩ của mình trong bao nhiêu đại hội và đại lễ. Hà cớ gì nhà thơ Trần Mạnh Hảo lại giành quyền sở hữu cái bục đó cho riêng mấy ông lãnh đạo tối cao, tước đi của dân thường, của những người trí thức cái quyền bước lên đó để nói thật những điều mình suy nghĩ? Thưa nhà thơ chiến sĩ Trần Mạnh Hảo, cái bục ở Hội trường Ba Ðình trở nên trang trọng thiêng liêng không phải vì đã có các quan to đứng cạnh, mà vì nó là biểu tượng cho quyền đứng thẳng và nói thẳng của nhân dân, vì nó là nơi đã phát đi những tiếng nói mạnh mẽ và sáng suốt của những người trí thức. Nếu cái bục đó quả là nơi phát ngôn trang trọng thiêng liêng nhất thì việc tôi bước lên đó trình bày thẳng thắn công khai ý nguyện của mình và của những trí thức khác về vấn đề tôn trọng trí thức, cảnh báo Ðảng cái nguy cơ tin dùng những kẻ cơ hội là một việc làm hoàn toàn chính đáng.

Không chỉ cướp cái bục của dân giữ riêng cho lãnh đạo, Trần Mạnh Hảo còn cướp toàn bộ ghế ngồi trong Hội trường Ba Ðình giữ riêng cho quan chức. Ông quan sát và nhận xét rằng: "Trong lịch sử 75 năm của mình Ðảng Cộng sản Việt Nam chưa từng bị ai chửi thậm tệ đến như vậy... Thế mà ông Nguyễn Khoa Ðiềm và mấy trăm đảng viên vẫn im lặng ngồi nghe, không phản ứng". Rõ ràng Trần Mạnh Hảo chỉ nhìn vào quan chức đảng viên ngồi ở dưới, không bận tâm nhìn vào thái độ của mấy trăm nhà văn thường dân xem họ phản ứng ra sao trước lời phát biểu của tôi. Hàng trăm gương mặt của các nhà thơ, nhà văn đã trở thành hư vô trước con mắt của Trần Mạnh Hảo. Ông không coi họ là đang tồn tại, đang phản ứng và thẩm định những phát ngôn thẳng thắn của tôi. Nếu ông nhìn thấy những gương mặt hồ hởi, phấn khích, những cái bắt tay, những lời bình luận "Tuyệt vời", "Hay quá" của các nhà văn dành cho tôi sau khi tôi phát ra thông điệp ấy, thì ông sẽ không có những nhận định quá quan tâm tới cơ mặt và cảm xúc của cấp trên như thế.

Trần Mạnh Hảo viết: "Ông Nguyễn Khoa Ðiềm ngồi nghe kinh ngạc mãi không mở nổi miệng". Thực ra, không hề có nhà thơ Uỷ viên BCT Nguyễn Khoa Ðiềm ở Hội trường trong lúc tôi phát biểu. Nếu không phải Trần Mạnh Hảo mắc chứng bệnh nhìn vào đâu cũng thấy mặt Bộ Chính trị, trong chiêm bao cũng đầy mặt cấp trên, thì việc ông bịa đặt trắng trợn sự có mặt của nhà thơ Nguyễn Khoa Ðiềm trong Ðại hội nhà văn chiều 24-4 nhằm mục đích gì đây? Phải chăng, đó là một đòn gí điện hiểm ác, nhằm trút trách nhiệm lên đầu một uỷ viên BCT, để tạo cơ hội cho một bậc đại gia nào đó trong BCT thuộc cánh Trần Mạnh Hảo chất vẫn Nguyễn Khoa Ðiềm và đó là cái cách Trần Mạnh Hảo đưa vấn đề của tôi vào cuộc họp của BCT Ðảng CSVN? Nếu đúng thế thì nham hiểm vậy thay cái bẫy chính trị phe cánh của Trần Mạnh Hảo, nó bộc lộ tâm địa độc ác cuả một người nhân danh nhà thơ nhưng luôn muốn tống giam người viết khác vào tù.


Từ cổ vũ phất cờ đến vu cáo để giật cờ chính thống

Trở lại chuyện cái bục diễn giả trong Hội trường Ba Ðình, có lẽ nó thiêng thật, nên những lời nói của tôi phát đi từ đó trở nên có phép màu, làm cho Trần Mạnh Hảo tự nhiên buột miệng nói thật về cuốn Ngày văn học lên ngôi của tôi. Cuốn sách đó đã được ông trích dẫn đầy toan tính trong bài viết. Vì tưởng rằng độc giả talawas ai cũng yêu Bảo Ninh, ghét K. Marx, ghét dân tộc và cách mạng nên ông đã chọn trích những đoạn đầy tâm huyết của tôi liên quan đến những đối tượng này nhằm mục đích bao vây tôi cả từ hai phía. Sau khi cố tìm mọi cách kích động Ðảng và chính quyền để họ phẫn nộ với người đã phong tặng cho ông ta danh hiệu mới, Trần Mạnh Hảo lại tiếp tục mơn trớn những người chống cộng để họ hồ nghi và ác cảm với tôi. Một toan tính như thế thật thâm hiểm và quyết liệt, nhưng là một toan tính dựa trên sự thiếu hiểu biết về thế giới nên đã phân đôi người Việt thành hai loại trắng đen. Thực tế thì trong thế giới của chúng ta sống đây có hàng vạn ngả đường, hàng triệu xu hướng, đâu phải chỉ có cộng sản và chống cộng. Nhà thơ Trần Ðăng Khoa cũng phân đôi như vậy nhưng lại tỏ ra minh triết. Có lần anh nói với tôi: "Bác nguy rồi! Trong nước thì bác bênh hải ngoại, ra ngoài bác lại bênh trong nước. Như thế, ta thì tưởng bác theo Mỹ, Mỹ lại tưởng bác là người của Ðảng ta. Nguy quá!". Nhận xét sâu sắc của Trần Ðăng Khoa cũng chia sẻ phần nào cái cung cách có vẻ gàn dở và mâu thuẫn của tôi. Nhưng hãy tạm gác lại những chuyện quá sâu xa để đi vào những ý kiến của Trần Mạnh Hảo về tôi. Trần Mạnh Hảo đã trích dẫn và sắp xếp các ý của tôi thoát ly văn cảnh. Đó hầu hết là những bài viết đáp trả những bài tấn công của các tác giả như Vũ Ðức Phúc, Lại Nguyên Ân, Đức Uy, Hào Hải... Khi họ nhân danh chủ nghĩa Marx để phê phán tôi thì tôi cũng phải căn cứ vào tư tưởng mác-xít để bác bỏ họ chứ đâu phải tự nhiên vô cớ rao giảng chủ nghĩa Marx và tấn công người khác. Nhưng cứ coi như Trần Mạnh Hảo trích đúng tinh thần và những bài viết đó phản ánh đúng tính tích cực đấu tranh tư tưởng bảo vệ dân tộc và cách mạng trong cuốn sách Ngày văn học lên ngôi, thì vấn đề đặt ra là: Tại sao trước đây Trần Mạnh Hảo lại không viết như vừa viết về cuốn sách của tôi mà lại phê phán nó như một cuốn sách chống lại dân tộc và cách mạng, "giật bài vị văn hoá truyền thống","kêu gọi lật đổ những giá trị thiêng liêng"?
Hoang Yen
Những bài viết của Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Thành Lân trên báo Quân đội nhân dân, Ðặng Thành Nam trên báo Công an TP Hồ Chí Minh (trong tham luận đọc tại Ðại hội tôi đã vạch mặt những bút danh này là của Trần Mạnh Hảo) quy kết tôi chống lại khẩu hiệu "Không có gì quý hơn độc lập tự do" của chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận cuộc kháng chiến chống Mỹ, móc nối với phản động nước ngoài, tiếp tay cho bọn chuyển lửa về quê hương... thực sự đã gây cho tôi biết bao sóng gió. Tôi đã nhiều lần gửi thư lên các cấp cao nhất của Ðảng và Nhà nước nói rằng tôi là người gắn bó xây dựng Ðảng, tôi không có những thái độ chính trị như các bài đăng trên báo của quân đội và công an quy chụp, đề nghị chấn chỉnh ngay việc xúc phạm tôi trên báo chí mà không cho nói lại. Nhưng tất cả những kiến nghị của tôi đã không được hồi âm và sự vu cáo, bôi nhọ vẫn tiếp diễn, dẫn đến việc tôi phản ứng thẳng thắn trước mặt ông Trần Hoàn - Trưởng ban TTVH Trung ương Ðảng. Sau đó tôi đã ghi lại ý kiến của mình gửi lên Bộ Chính trị để báo cáo. Bài của Hoàng Linh trên Việt 3 đã công bố ý kiến của tôi trong văn bản đó. Thế là sau đó, như nhà thơ Hữu Thỉnh cho biết, đã có một cuộc họp giữa các ông Trần Hoàn - Trưởng ban TTVH TW, Nguyễn Ðình Thi - Tổng thư ký Hội Liên hiệp VHNT Việt Nam, Hà Xuân Trường - Tổng biên tập tạp chí Cộng sản và Hữu Thỉnh - Tổng thư ký Hội Nhà văn để bàn xem có truy tố tôi về chính trị như đã truy tố Dương Thu Hương hay không. Rất may là cuộc họp đó đã không đi đến kết quả xấu cho tôi. Nhưng sau đó, Ban TTVH đã giao ban thông báo về trường hợp của tôi dẫn đến việc gần ba năm tôi không được ký tên thật trên báo và không được làm phim vì các nơi đều sợ liên luỵ. Ðó quả thực là thắng lợi của Trần Mạnh Hảo và phe nhóm.

Nếu lúc đó Trần Mạnh Hảo và phe nhóm nhận xét về các bài viết của tôi như ông vừa nhận xét, rằng Ðỗ Minh Tuấn là Hồng vệ binh của Ðảng, rằng Ðỗ Minh Tuấn bảo vệ cách mạng và dân tộc quyết liệt trong các bài viết của mình thì sự tình sẽ tốt đẹp biết bao. Ðỗ Minh Tuấn sẽ được phong Nghệ sĩ ưu tú như bao đồng nghiệp khác, sẽ được tiếp tục làm phim và viết báo để in ra nhiều tập sách như Trần Mạnh Hảo và biết đâu đã được mời vào Ðảng và đã trở thành lãnh đạo cấp cao với những tập thơ được Trần Mạnh Hảo say sưa phân tích và tâng bốc. Nhưng tiếc thay, Trần Mạnh Hảo và phe nhóm lại không viết thế, vì trong tâm địa họ sợ cái tư cách chính thống-cởi mở của tôi sẽ có lợi cho những người đổi mới trong cách viết. Với thái độ cởi mở trong nghệ thuật, tôi đã làm ảnh hưởng đến cuộc cạnh tranh phe cánh trong làng viết, nếu tôi được tin cậy về chính trị thì nguy to cho đám bảo thủ hẹp hòi. Trời đã sinh Trần Mạnh Hảo sao còn sinh Ðỗ Minh Tuấn làm chi? Phải dẹp Ðỗ Minh Tuấn khỏi cái sân chính thống để một mình Trần Mạnh Hảo tung hoành, rộng tay vút cây roi phê bình lý luận mà quất vào lưng con ngựa văn nghệ Việt Nam. Và, họ đã thành công trong cuộc đảo chính này. Trước đó, khi tôi vừa xuất hiện như một nhà phê bình lý luận trên báo chí, Trần Mạnh Hảo đã viết trong một bức thư mà tôi vẫn đang lưu: "Cờ đến tay cứ phất đi! Ông là đại dương mênh mông, tôi chỉ là hòn đảo nhỏ". Vậy mà chỉ mấy tháng sau Trần Mạnh Hảo ký nặc danh viết bài quy chính trị cho tôi, để rồi hai năm sau Trần Mạnh Hảo giật được "ngọn cờ" mà anh ta từng cỗ vũ tôi phất mạnh đi để múa may từ ấy đến giờ.


Ðổi mới, dân chủ hoá và bệnh xấu hổ của người chiến thắng

Như thế là, Ðỗ Minh Tuấn luôn muốn được Ðảng tin dùng nhưng đâu có được tin. Có thể sâu xa là tôi không có những phẩm chất cần thiết để trở thành một ngòi bút chính thống. Nhưng Trần Mạnh Hảo và phe nhóm đã dùng nhiều thủ đoạn thâm hiểm và trắng trợn để tước đoạt niềm tin của các cấp lãnh đạo với tôi, khiến tôi phải chịu nhiều thiệt thòi, bất công, xúc phạm và vì thế có tập quán luôn luôn cứ phải gồng lên để chống trả cuộc đời.

Nhưng trong cái rủi lại có cái may, nhờ những năm tháng không được làm phim, không được viết bài trên báo trong nước mà tôi có dịp tham gia viết bài cho các báo chí văn chương hải ngoại và thường xuyên trao đổi trên các diễn đàn liên liên mạng như diễn đàn VNSA của du học sinh Việt Nam ở nước ngoài, diễn đàn trí thức của báo Cánh én, qua đó có thêm nhiều bè bạn khắp bốn phương, mở rộng thêm tầm mắt và dần dần hiểu sâu về tự do, dân chủ. Nhiều định kiến và ngộ nhận về các xã hội khác cũng đã mất đi, thay vào đó, khát vọng xây dựng một xã hội dân chủ tự do ngày càng lớn dậy, khiến tôi có thêm dũng khí vượt qua những ràng buộc thường tình, những lo toan thường nhật để quyết liệt đấu tranh. Nhưng tôi không ăn gian, không chối bỏ một thời nỗ lực gắn bó xây dựng Ðảng đầy ngây thơ, trong sáng và ảo tưởng như một thứ Ðông Ki Sốt thời nay. Sinh thời, ông Vũ Huy Cương vẫn thường trao đổi chân tình, vừa trêu tôi là "con chuột ngày" chạy nhanh nên khó bắt, vừa chê trách tôi là ngây thơ, tin vào những giá trị đẹp của thời chiến tranh để rồi bị cường quyền lợi dụng.

Cho đến giờ, tôi vẫn tin vào vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời chiến tranh. Tôi tự hào với chiến thắng Ðiện Biên Phủ, làm hết mình để tôn vinh chiến thắng này. Trần Mạnh Hảo thì lại vô tình tự thú rằng xem phim về Ðiện Biên "ngượng chết đi được". Việc gì mà phải xấu hổ khi xem lại những hình ảnh về một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của dân tộc? Nếu phim dở ông cũng chẳng có lý do gì phải ngượng cho tôi. Ðây chính là sự buột miệng tự thú về "bệnh xấu hổ của người chiến thắng" mà tôi đã từng phát hiện từ mười năm trước hay cách nói nhập nhèm để tỏ ra chẳng ưa gì chiến thắng? Chúng ta cứ việc đổi mới, dân chủ hoá, mở rộng giao lưu quốc tế, hà tất phải xấu hổ vì quá khứ anh hùng, quyết liệt của cha ông, dường như cha ông ta "máu quá", hiếu chiến quá, đánh đuổi hết ngoại nhân làm dân tộc mất đi nhiều cơ hội được khai hoá văn minh và phát triển như các xứ sở hiền lành, khôn ngoan khác, chẳng hạn như Thụy Sĩ , Thái Lan. Cái mặc cảm nhược tiểu chối bỏ quá khứ mới là nhục nhã, đáng xấu hổ. Người phương Tây bị xúc phạm thì đòi đấu súng, thậm chí làm những cuộc Thập tự chinh tàn sát cả triệu người, người Nhật bị xúc phạm thì rút gươm mổ bụng, người Mỹ bị xúc phạm thì đem bom trút xuống các xứ sở khác để tự vệ từ xa. Vậy tổ tiên ta bị xúc phạm thì không có quyền dùng "rơm con cúi" đốt nhà dạy đạo và dùng "lưỡi dao phay" chém rớt đầu những quan ba để rồi xốc tới làm nên những Ðiện Biên chấn động địa cầu sao? Trần Mạnh Hảo ở đây dẫu sao cũng thành thực hơn khi viết bài trên báo Công an TP Hồ Chí Minh núp sau lưng em bé học sinh lớp 11 Nguyễn Phi Thanh để đòi bỏ kiệt tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của cụ Ðồ Chiểu ra khỏi sách giáo khoa. Vốn là một cựu chiến binh đã viết hàng vạn chữ ngợi ca kháng chiến và văn chương kháng chiến, Trần Mạnh Hảo thường nhân danh máu để ca ngợi cả những bài thơ chẳng có gì hay, vậy mà nay viết bài trên talawas lại phải lén lút tỏ tình chính trị với ai đó bằng cách khai lý lịch không đảng viên (thực ra đã vào Ðảng rồi nhưng lại xin ra) và bày tỏ sự xấu hổ trước chiến thắng của dân tộc trong quá khứ. Ðành rằng cái ca-pốt rách có quyền rách thêm nhiều lần nữa mà nó vẫn là nó, chẳng có gì đáng phải ngạc nhiên. Nhưng, Trần Mạnh Hảo tỏ ra mâu thuẫn khi vừa leo lẻo kích động các quan lớn đòi họ phải phản ứng với tôi để bảo vệ sự uy nghi của cái bục gỗ quốc gia ở Hội trường Ba đình, lại vừa xấu hổ trước việc tôn vinh những người đã lính anh hùng đặt cái bục đó vào tầm nhìn nhân loại.

Tuy nhiên, sự mâu thuẫn này có hàm chứa một xảo thuật văn hoá đằng sau. Cái võ giương cao áp-phích và khẩu hiệu chính trị chính thống ở mặt tiền, để bôi bẩn và hạ nhục văn hoá truyền thống ở phía sau nhằm dần dần tạo nên mặc cảm xấu hổ và xa lánh với cả những giá trị đích thực trong quá khứ cũng có thể là một biện pháp tẩy não hữu hiệu mà một số tờ báo của Ðảng, nhất là báo phía Nam đang làm hàng ngày. Cái phương cách chạỵ trốn khỏi quá khứ đó kết hợp với sự làm thinh của các quan văn hoá tạo nên một hiệu quả ghê gớm là chính bản thân tôi sau khi bị báo chí tráo trở xúc phạm tác phẩm tâm huyết về Ðiện Biên Phủ cũng đã phải tuyên bố thẳng trong một diễn đàn Hội thảo về điện ảnh tại LHP quốc gia vừa qua là: "Tôi sẽ không bao giờ làm phim về cách mạng nữa, vì những tác phẩm về cách mạng giờ đây đều bị báo chí của Ðảng bôi bẩn và lãnh đạo Ðảng quay lưng".
Hoang Yen
Nếu mặc cảm xấu hổ với những nguyên lý chính trị của mình thì hãy đổi mới về chính trị, từ bỏ độc quyền lãnh đạo xã hội, xây dựng một thể chế dân chủ, chứ đừng giữ quyền lãnh đạo mà để xã hội chà đạp và bôi bẩn lên những chiến công làm bằng xương máu của nhân dân. Ðiện Biên Phủ không phải là chiến công của riêng ông Võ Nguyên Giáp để mà kỳ thị. Không thể nói rằng người ta chỉ muốn nói về tác phẩm của chúng tôi thôi chứ không định tẩy não về văn hoá, vì khi bộ phim vừa ra lò cũng chính những báo ấy đã đăng bài khẳng định, đề cao về nghệ thuật, thế rồi, sau những diễn biến chính trị nội bộ và chính trị toàn cầu, người ta lại nhân danh kinh tế thị trường nói những điều ngược lại, bôi bẩn xúc phạm tác phẩm của chúng tôi vì những động cơ bè cánh hay cơ hội. Trong khi bôi bẩn những tác phẩm liên quan đến cách mạng và quá khứ thì người ta đã ào ạt tôn vinh những tác phẩm đầy sex và bạo lực của ngoại nhân. Trần Mạnh Hảo kích động ông Nguyễn Khoa Ðiềm xui ông dùng 600 tờ báo để tiếp tục đánh tôi chỉ là cách xui trẻ ăn cứt gà, chỉ đẩy những người trí thức nhân sĩ giàu thiện chí xây dựng Ðảng như tôi đến chỗ căm ghét Ðảng mà thôi.


Về những tin tức bịa đặt kiểu Gơben

Trong bài viết của mình Trần Mạnh Hảo không chỉ tiếp tục các thủ đoạn cũ: lu loa, vu vạ, thổi phổng, đánh tráo thời gian, đánh tráo chủ thể, mà ông còn dựng chuyện vô bằng cứ.


Tôi chưa bao giờ chụp ảnh với ông Lê Ðức Thọ và đi khoe ảnh ấy như Trần Mạnh Hảo viết. Tôi có quan hệ với ông Lê Ðức Thọ từ năm 1978, trong tình thế buộc phải tự vệ trong cuộc đánh nhau với con trai ông Trường Chinh lúc ấy là Bí thư Chi bộ Viện Triết học, người đã kỷ luật khai trừ Ðoàn tôi vì tội đã viết tập chuyên luận Phúc thẩm án Juda (cho rằng tôi ám chỉ Ðảng là Chúa) và muốn đưa tôi đi cải tạo. Để tự vệ, chúng tôi đã gõ cửa các Uỷ viên BCT trong đó có ông Lê Ðức Thọ để kiện lại con trai ông Trường Chinh, sau đó có quan hệ với họ, đóng góp nhiều ý tưởng mới và giới thiệu nhân sự cho các vị này. Cái hành trình Ðông Ki Sốt và Săng-sô Păng-sa đi tìm nàng Ðuyn-xi-nê ở Bộ Chính trị Ðảng CSVN có nhiều chuyện ly kỳ, thú vị, sẽ có dịp kể lại ngọn ngành, nhưng chắc chắn không có chuyện Ðỗ Minh Tuấn khoe ảnh chụp với Lê Ðức Thọ làm nhiều người khiếp vía như Trần Mạnh Hảo đã dựng chuyện. Bởi vì, Ðỗ Minh Tuấn chưa bao giờ có dịp chụp ảnh với ông Lê Ðức Thọ và cũng không có tính đi khoe quan hệ với người có quyền lực. Ngay cả khi viết lại những ý kiến của Lê Ðức Thọ bảo vệ các nhà văn, phê phán sự truy chụp, Ðỗ Minh Tuấn cũng không đứng tên mà đưa cho một nhà thơ khác in trên báo, đến nay nhiều người vẫn tưởng bài viết ghi những ý kiến cởi mở đó là của nhà thơ ấy. Thêm nữa, những người biết quan hệ của Ðỗ Minh Tuấn với Lê Ðức Thọ như Văn Cao, Ðặng Ðình Hưng, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Tài Cẩn, Trần Ðình Hượu, Hoàng Ngọc Hiến, Tương Lai... chẳng ai "sợ khiếp vía" như Trần Mạnh Hảo nói, mà trái lại đều tin cậy nơi nhân cách nghệ sĩ của tôi để chia sẻ ít nhiều những khát vọng giành tự do dân chủ. Khoảng năm 1980, ông Hoàng Ngọc Hiến đã nói với tôi trước của thư viện Khoa học Xã hội rằng: "Mình phục các cậu. Các cậu không để cho những kẻ dốt nát và cơ hội đạp xuống bùn đen như một số người viết ngày xưa". Trong Ðại hội nhà văn vừa qua ông vẫn xác nhận lại là có nhớ đã nói ý kiến đó.


Trần Mạnh Hảo viết: "Nhân dịp 50 năm kỷ niệm chiến thắng Ðiện Biên Phủ 1954-2004, lệnh của Bộ Chính trị cho Ban Tư tưởng Văn hoá + Cục Điện ảnh + Hội Điện ảnh Việt Nam phải tìm một đạo diễn “vừa hồng vừa chuyên”, tuyệt đối tốt về phẩm chất chính trị, có công bảo vệ Đảng nhiều năm, để trao cho một triệu đô-la mà làm phim ca ngợi chiến thắng Ðiện Biên Phủ. Ngoài đạo diễn đỏ Ðỗ Minh Tuấn ra, còn ai có thể vừa mắt Bộ Chính trị để cầm một triệu đô-la tiền đầu tư sáng tác vĩ đại nhất từ xưa tới nay như thế!" Xin hỏi Trần Mạnh Hảo dựng đứng ra chuyện này để làm gì? Có phải ông quá coi thường độc giả talawas nên đem cái logic chính trị trẻ con ra để lừa họ không?

Thực tế là Bộ Chính trị chẳng biết tôi là ai, và cũng chẳng quan tâm đến chuyện làm phim về Ðiện Biên Phủ vì những lý do nội bộ phức tạp. Trong kế hoạch tài chính chi cho đợt kỷ niệm 50 năm Ðiện Biên Phủ không có khoản nào dành cho phim Ký ức Ðiện Biên. Sau khi chị Nguyễn Thị Hồng Ngát đưa kịch bản xuống Hãng phim truyện đề nghị tôi viết lại kịch bản và đạo diễn, ông Nguyễn Văn Nam có viết một công văn vượt cấp lên Thủ tướng Chính phủ xin tài trợ cho Hãng thực hiện phim này. Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm - Trưởng Ban chỉ đạo đợt kỷ niệm 50 năm chiến thắng Ðiện Biên Phủ nhận được công văn thì rất băn khoăn, vừa muốn làm, vừa không biết lấy kinh phí ở đâu. Sau khi biết Ðại tướng Võ Nguyên Giáp ký vào kịch bản phân cảnh để lưu bút tích kỷ niệm, nhiều người có trách nhiệm đã có ý kiến ủng hộ việc làm phim. Sau đó, nhờ tác động của báo chí và thiện chí của các cơ quan liên quan, Bộ Tài chính đã thu xếp được nguồn kinh phí để làm phim đó.
Hoang Yen
Khi phim vừa ra đời, đã có trên 20 tờ báo lớn trong cả nước đăng bài khẳng định, ca ngợi về nghệ thuật. Làm gì có chuyện"bị báo chí cả nước chửi cho" như ông Hảo nói. Sau đó hai tuần mới xuất hiện bài viết của Ðức Kôn trên báo Công an TP Hồ Chí Minh và Ðiện ảnh TP Hồ Chí Minh, rồi đến vài tờ báo phía Nam đăng những tin đồn kiểu Gơben rằng phim vắng khách, phim chẳng ra sao mà không có lập luận chứng minh gì cả, thậm chí người viết cũng chưa xem, do những tác giả vô danh kiểu Nguyễn Thông viết xen kẽ một hai câu trong những bài về điện ảnh. Báo Thanh niên là tờ báo đầu tiên đăng bài khen ngợi Ký ức Ðiện Biên, vậy mà trước những biến động của các quan hệ nội bộ và các tương quan quyền lực, một năm sau cũng tự nhiên vô cớ lôi Ký ức Ðiện Biên ra bôi bác trong bài viết Trần Mạnh Hảo đã dẫn. Người ta không khỏi băn khoăn, phải chăng báo Thanh niên đã trót có bản lĩnh bảo vệ cụ Ðồ Chiểu, ngược với quan điểm của tờ Tuổi trẻ nên đã phải cho đăng một bài lạc lõng vô duyên của một tác giả vô danh như thế ở mục Chào buổi sáng để nhằm xoa dịu mấy tờ báo cùng băng nhóm phía Nam, thanh minh khéo rằng tôi tuy có nói khác các anh về cụ Ðồ Chiểu nhưng vẫn đang đồng hành với anh trong chuyện bôi bác những tác phẩm về cách mạng như Giải phóng Sài Gòn, Ký ức Ðiện Biên?


Ðôi lời khuyên chân tình

Tôi bước lên bục đại hội đọc tham luận lôi lại chuyện Trần Mạnh Hảo ký tên thật và tên nặc danh quy kết chính trị tôi trên báo quân đội, công an không phải vì tôi hận thù ông. Thực ra, tôi đã quên những chuyện ấy rồi. Chuyện xảy ra từ năm 1997, 1998, sau đó ông đã gặp tôi ở Hội trường Ba đình trong đại hội nhà văn 5 năm trước (y như ông gặp Nguyễn Huy Thiệp lần này) và nói rằng chúng mình không nên làm đấu sĩ cho người khác giải trí miễn phí. Vì thế, tôi không nói lại chuyện xưa. Sau này, khi tổ chức hội nghị lý luận phê bình trên Tam Đảo, Hội Nhà văn đang muốn đề cao Trần Mạnh Hảo nên đã không mời tôi vì sợ hai người sẽ xung đột trong phát biểu. Khi từ Tam Đảo trở về tình cờ gặp tôi ở Bưu điện Hà Nội, Trần Mạnh Hảo cũng chủ động đưa danh thiếp để sau này liên lạc. Lẽ ra, quan hệ có thể trở lại bình thường, ngờ đâu mấy năm sau phim Ký ức Ðiện Biên ra đời bị bọn người cơ hội, đạo văn, đạo điện ảnh gửi đơn kiện cáo khắp nơi và xúi đàn em xúc phạm trên báo chí, khiến tôi vô cùng phẫn uất. Thêm vào đó, việc báo Công an TP Hồ Chí Minh tiếp tục đăng bài tấn công xúc phạm bộ phim của tôi khiến vết thương ngày xưa do Trần Mạnh Hảo và phe cánh trong tờ báo này gây ra trong tâm hồn tôi đã sưng tấy lại. Khi lãnh đạo Ban TTVH và lãnh đạo Bộ Văn hoá bênh che trắng trợn bọn người này, đối xử bất công với tôi trong LHP quốc gia và trong nhiều việc khác, tôi càng thêm căm giận. Vì thế, mặc dù bận tham gia LHP Singapore với ba bộ phim của tôi, tôi vẫn quyết trở về dự Ðại hội nhà văn ngày cuối để bước lên bục nói lên những suy nghĩ về quan hệ giữa Ðảng với văn nghệ và tầm thời đại.

Có thể Trần Mạnh Hảo cũng đã bắt đầu giác ngộ được sai lầm, muốn làm lại cuộc đời mình nên trong Ðại hội vừa qua ông đã gặp gỡ làm lành với những người từng bị ông "thượng cẳng chân, hạ cẳng tay", đi ăn trưa với Nguyễn Huy Thiệp, tâm sự với Nguyễn Quang Thiều, lên bục đấu tranh cho tự do sáng tác và phê phán công an đặt tường lửa, v.v. Điều đó cũng tốt thôi. Tiếc rằng, cái cung cách không sòng phẳng của ông khiến người ta hồ nghi ông chỉ là một thứ cò mồi trong giai đoạn mới, hoặc đang tiếp tục trở cờ lần nữa. Hay nói theo cách của tôi, cái ca-pốt của Ðảng lại rách thêm một tý. Lẽ ra, thay vì khai báo lý lịch (không đảng viên, không biên chế) một cách hạ mình, tội nghiệp, ông nên có đôi lời sòng phẳng với quá khứ, rằng trước đây tôi có sai lầm quá tay với anh em như thế, nay tôi thấy cần đem bản lĩnh và trí tuệ của mình đấu tranh cho dân chủ tự do. Như thế có phải đàng hoàng và sòng phẳng hơn không?

Nếu Trần Mạnh Hảo có đối thoại lại bài viết này hay các bài viết khác của tôi, mong ông chịu khó động não sáng tạo ra cái gì mới mẻ của riêng mình, không nên ăn theo, nói leo, nói ngược theo kiểu khi bị nói là ca-pốt rách thì nói lại người ta là ca-pốt lành như bài viết vừa đăng trên talawas.


Hà nội 29-5-2005


© 2005 talawas

Anhi
Ôi... đúng là, cuộc đời, đầy phong ba...
Phó Thường Nhân
Đúng là cuộc đời đầy phong ba bão táp thật. laugh1.gif
Đọc loáng thoáng (thật sự tôi không muốn đọc kỹ, vì nó hơi quá xa quá "sâu" so với trình độ và sự hiểu biết của tôi về giới văn nghệ sĩ ở VN) Tôi thấy có một số điểm mà tôi không hiểu được các vị ấy.

Tại sao các vị muốn làm một nền văn học "ngang tâm thời đại" mà không thấy có sự bàn luận nào về bạn đọc trong nước. Vậy lấy cái gì để đo sự ngang tầm thời đại cũng không rõ. Hay các vị tự ngồi bốc vào nhau để xem ai ngang tầm thời đại.

Đọc thêm một đoạn, thì có thể hiểu là "ngang tầm thời đại = không có sự kiểm soát của Đảng". Nếu thật sự là thế thì tôi thấy các vị ấy thật đáng thương hại. Tôi không cổ vũ cho việc kiểm soát của Đảng, nhưng tôi không nghĩ rằng đó là điều kiện giết chết văn nghệ VN. Mới đây tôi xem một phỏng vấn trên Tivi giới thiệu văn học Nga hậu Liên Xô, nhân ngày triển lãm sách văn học của Nga ở Pháp. Trong đó , khi phỏng vấn một nhà văn trẻ của Nga, đang nổi (xin lỗi là tôi không quan tâm đến văn học lắm, nên không nhớ được tên). Ông ta nói đùa để trả lời cho câu hỏi tại sao văn học Nga lại thảm hại, "không ngang tầm thời đại", mất bạn đọc rằng "sắp tới ông Putine sẽ kiểm soát văn học chặt chẽ hơn, như vậy chắc chắn sẽ có nhiều tác phẩm nổi tiếng hơn". laugh1.gif

Cảm nhận của riêng tôi là văn học VN chưa thoát ra được văn học tuyên truyền. Bởi vì nó mang cái dấu tuyên truyền nên hoá ra văn học chân chính sẽ phải là "phản tuyên truyền". Điều này hoàn toàn không phải. Lấy những ví dụ các nhà văn nổi tiếng cổ điển ở Pháp, ví dụ như Ban dắc, hay Alesandre Dumas không có nhà văn nào nói tới chính trị cả, nhưng đặc biệt họ rât để ý tới bạn đọc. Cả hai nhà văn này đều viết các cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất đăng tải trên báo thường nhật. Và tôi chắc rằng họ không bao giờ nghĩ tới chuyện cho ra đời một tác phẩm "ngang tầm thời đại" (hiểu theo nghĩa thông thường là một tác phẩm nổi tiếng) cả.

Một điểm yếu nữa, theo tôi nghĩ là các nhà văn VN "quốc doanh" này hình như không có ethics. Sự không có ethics này là biểu hiện của việc không có tư tưởng kiểu "sans foi ni loi" (không có niềm tin, không có đạo đức). Nếu không có niềm tin, một niềm tin thật sự, tự mình tìm ra giành cho chính mình. Nếu không có một nguyên tắc đạo đức, tự mình tìm ra, ngăn chặn cái ego, chỉ lấy cái ego làm mục đích duy nhất thì những trò cãi vã "vô công rồi nghề" thế này sẽ còn tiếp diễn mãi mãi. Ở đây có thể có vấn đề về quản lý, về tranh giành quyền lợi cũng như sự nổi tiếng. Nhưng nó không che lấp được sự thiếu thốn về ethics của họ. Vì không có ethics thì làm gì có nhân cách đây.

Tóm lại, Quan tâm tới bạn đọc hơn, bỏ bớt sự quan tâm đến chính trị tuyên truyền đi, tự tìm cho mình một triết lý sống, một triêt lý sáng tác có thể giải quyết được các bế tắc này. Còn nếu cứ tiếp tục hô khẩu hiểu "sáng tác ngang tầm thời đại", cãi vã hục hặc nhau như thế này thì có lẽ là làm cho cười cho thiên hạ thì đúng hơn. Dù sao có lẽ cũng có thể đạt được chỉ tiêu "chuyện cười
ra.. nước mắt ngang tầm thời đại". laugh1.gif
2910
Chính sự kiểm duyệt trong từng người viết, từng người đọc, từng nhà xuất bản. Và trình độ, trí lực tưởng tượng kém.
Phó Thường Nhân
Bác 2910 phang ra một câu kinh phết nhỉ. laugh1.gif

Chuyện tự kiểm duyệt trong từng người đọc thì không bao giờ có được. Cho nên điều đó không phải lo. Ngược lại trong từng nước, người ta cũng phải bắt buộc có một nhận thức gì đó chung. Nễu không thì cái xã hội đó sẽ tan rã. Chỉ có điều cái nhận thức chung đó được truyền bá bằng cách nào, có khéo léo không, có hợp lý không, có phản kinh tế, hay dẫn tới bóp chẹt cuộc sống dân sự (société civile) không . Tất cả những điều này thuộc về mặt tuyên truyền, xã hội nào cũng có. Ở phương Tây thì người ta gọi đó là technique communication, các chuyên gia về tuyên truyền thông tin (Communication Advisor) đầy rẫy. Điều quan trọng là nó chỉ là một bộ phận của thông tin, của nhận thức xã hội mà không phải tất cả.
Ngay ở VN, khi có phim "những cô gái chân dài" thì người ta kéo nhau đi xem, khi cho ra những bộ phim lịch sử thì số lượng người xem ít hơn nhiều. Như vậy dân thì không ai có thể nhồi sọ hay kiểm duyệt được cả.

Về nhà xuất bản, thì có lẽ sự kiểm duyệt là mạnh nhất và hiệu quả nhất. Đây cũng là cách quản lý của những nước tiên tiến. Chỉ có điều các nhà xuất bản của họ nằm trong tay những nhóm tài phiệt lớn có quan hệ tới chính trị nhà nước, được luật pháp làm trọng tài, chứ không phải là mối quan hệ trực tiếp "anh hai anh ba" như ở VN. Như vậy mối quan hệ, ảnh hưởng của chính trị tới nhà xuất bản kín đáo hơn, kheo léo hơn, và cũng thoáng hơn.
Nhưng dù ở ta hay ở Tây, các nhà xuất bản cũng phải tự sống. Nền kinh tế thị trường bắt buộc phải thế. Như vậy cái sự "nghe theo chính trị" kia tự khắc bắt buộc phải giảm. Vì người ta không thể sống bằng các sản phẩm không ăn khách. Khách ở đây là dân. Dân thì không thể nhồi sọ thị hiếu được. Chính vì thế mà không thể đổ lỗi tất cả cho sự kiểm duyệt hay chính sách của Đảng.
Thậm chí, như tôi nói ở trên, cái vật cản này có lẽ lại có thể làm cho người ta phải đi vòng, nói khéo, tất cả những thủ pháp có thể làm cho văn chương lên tay. Cái này thì cũng giống như chuyện tái ông mất ngựa. Rủi chưa chắc là rủi mà may chưa chắc là may đâu.

Tất nhiên, tôi muốn VN học Tây phương, vì nó tiên tiến hơn, thoáng hơn. Dễ hiểu. Nhưng con người VN ví dụ như những vị kia có đủ sức để làm việc đó không. Cảm giác của tôi là không.

Bây giờ nói tới con người. Điều làm tôi ngạc nhiên là các vị này thiếu sự chân thành, thật thà và tự tin. Tôi không phản đối họ có thể thay đổi ý kiến. Tôi theo đạo Phật, thì chuyện thay đổi là điều căn bản của cuộc sống. Triết lý phật giáo coi tất cả là Pháp, là hiện tượng. Đã là hiện tượng thì sự thay đổi là thường. Ông Đỗ Minh Tuấn, ông Trần Mạnh Hảo trước kia bảo vệ cách nhìn văn hoá hiện thực XHCN, ngày nay ông muốn tự do sáng tác. Điều này không làm ai chết ? nhưng nghe cách biện bạch, giải thích sự thay đổi của ông có cái gì đó không chân thành ? có cái gì đó như xu thời, có cái gì đó mà người ta gọi là malhonête (thiếu thẳng thăn). Nếu giả dụ người ta thực có chính kiến, có nhận xét, có sự suy ngẫm tư tưởng riêng, có niềm tin vào một cái gì đó bằng một conviction (không biết tiếng Việt dịch là gì ) của chính mình thì người khác nhìn vào có thể không đồng ý, nhưng vẫn kinh trọng, nể sợ. Vì đó là sự biểu hiện của nhân cách.
Nhưng có lẽ các ông không có gì cả, mà chỉ có cái ego. Còn những thứ ông nói ra chỉ là để che đậy nhưng mánh khoé "đấu đá" hàng tôm hàng cá của các ông thôi.
Như vậy ở đây cũng chẳng có sự tự kiểm duyệt đâu. Các ông chỉ muốn dùng cái biểu kiểm duyệt để tự đặt mình vào vị trí "cai văn nghệ", để thoả mãn cái danh (có thêm cái lợi không thì tôi không biết). Có nghĩa là có khi Đảng "chưa giật dây", các ông đã tự cử động để làm trò cười cho thiên hạ.
Phê bình văn hoá văn nghệ kiểu này thì làm gì mà không thối nát.
Đoành
Việc có hay ko có các tác phẩm văn học tầm cỡ thực ra ko phụ thuộc gì vào sự quản lý ko buông xuôi của nhà nước . Văn học có thời , phụ thuộc vào mỗi giai đoạn lịch sử . 1 giai đoạn lịch sử đầy biến động sẽ đẻ ra những nhà văn tương xứng với tầm cỡ của nó , các nhà văn này lại đẻ ra những tác phẩm tương xứng với tầm vóc của họ . Đừng đổ lỗi cho cơ chế , mà hãy tự hỏi xem mình lao động thế nào , tài năng của mình ra làm sao .
NguoiVN
Em thì nghĩ cái gì cũng có thể nhồi sọ được, câu hỏi là trình độ nhồi sọ thế nào. nhồi kô khéo thì phản tác dụng. em cũng thấy ở TÂY bị nhồi sọ còn khủng khiếp hơn. Nó kô nhồi sọ chán như ở ta.Đồng ý 100% những cái bác 2910. vídụ về việc tự kiểm duyệt: Khi bác đọc những truyện porn nặng, vídụ mấy cái beastiality (làm tình với thú) một số người kô thể tiếp tục ...
Em nghĩ đúng ra thời này mới đúng là thời cho ra đời những tác phẩm để đời. Vấn đề là khi nào mới đến tay mình để mình có thể thưởng thức.
Cái hệ thống tư bản cho phép người ta làm theo lợi ích của bản thân nhưng có thể tạo lợi ích chung cho cộng đồng. Việtnam kô có hệ thống như vậy.

Cung Mi
Trần Mạnh Hảo

“Hết thuốc” cho Đỗ Minh Tuấn


Xin thưa với quý độc giả, trong tiêu đề bài viết này, “Hết thuốc” là mượn lời của tác giả phuong254 trên trang web www.yxine.com mà talawas link trong mục “spectrum” ngày 27-5-2005, nguyên đoạn viết về đạo diễn Đỗ Minh Tuấn như sau: “Điều đáng buồn là, ông mắc một căn bệnh rất trầm kha. Đó là bệnh: mở mồm ra là kêu gọi dân chủ hay đổi mới trong văn học nghệ thuật nhưng hành động của ông thì ngược lại. Biểu hiện của bệnh này là thói tự tôn thái quá, tự cao tự đại, coi tác phẩm của mình là nhất, ai không khen thì chỉ có hai khả năng: một là phản động, và hai là dốt nát đến độ không hiểu chi về điện ảnh. Cứ xem những bài phát biểu và trả lời phỏng vấn huênh hoang của ông ấy thì biết. Vẫn là bệnh “ai cho mày chê con tao xấu” mà Thảo Hảo đã phát hiện. Nhưng hết thuốc rồi!”.

Có thể nói, trong bài “Tiếp tục nhận diện ‘ca-pốt rách của Đảng’” đăng trên talawas ngày 2-6-2005 cũng như hầu hết các bài báo khác của Đỗ Minh Tuấn, nhìn chung, 90% dữ kiện và kết luận là do ông Tuấn bịa đặt để bôi nhọ người khác và tôn vinh mình. Tự cho mình là nhà lý luận văn học nghệ thuật hàng đầu, thế mà ông Tuấn chưa bao giờ tuân thủ nguyên tắc bất di bất dịch của thể loại này là phải nói có sách, mách có chứng. Trong bài này, cũng như các bài khác, ông Tuấn không hề đưa ra một dẫn chứng nào có tính thuyết phục, mà toàn trích miệng, rằng ông này nói với tôi thế này, ông kia ca ngợi tôi thế kia, mà không hề đưa ra một bằng chứng nào, rằng điều ấy in ở sách nào, báo nào, trang mấy, ngày mấy. Ngược lại với lối viết của ông Tuấn, chúng tôi khi phê bình hoặc trả lời ông Tuấn, bao giờ cũng trích dẫn từ các văn bản một cách khoa học, không bao giờ kết luận mà quên chứng minh.


1. Đỗ Minh Tuấn toàn khơi khơi bịa chuyện để đánh lừa độc giả

Biạ 1: Đỗ Minh Tuấn viết: “Thực ra, không hề có nhà thơ Uỷ viên BCT Nguyễn Khoa Điềm ở hội trường trong lúc tôi phát biểu. Nếu không phải Trần Mạnh Hảo mắc chứng bệnh nhìn vào đâu cũng thấy Bộ chính trị, trong chiêm bao cũng đầy mặt cấp trên, thì việc ông bịa đặt trắng trợn sự có mặt của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong đại hội nhà văn chiều 24-4 nhằm mục đích gì đây? Phải chăng, đó là một đòn gí điện hiểm ác, nhằm trút trách nhiệm lên đầu một uỷ viên BCT”. Về điều này, tôi đã gọi điện thoại hỏi nhà văn Đào Thắng, Chánh văn phòng Hội Nhà văn Việt Nam, người có chân trong Ban tổ chức đại hội, chuyên lo tiếp các vị lãnh đạo là khách đến dự đại hội; nhà văn Đào Thắng trả lời: “Đồng chí Nguyễn Khoa Điềm tham dự suốt 3 ngày đại hội, từ họp trù bị 23-4-2005 đến ngày 25-4, không nghỉ buổi nào.” (talawas và bạn đọc nào muốn kiểm chứng thông tin này, có thể gọi điện thoại cho nhà văn Đào Thắng [1] ). Vậy, việc Đỗ Minh Tuấn bịa ra chuyện này để “che chắn” cho ông Nguyễn Khoa Điềm hay không thì tuỳ bạn đọc suy xét.

Biạ 2: Đỗ Minh Tuấn viết: “Nhà thơ Hữu Thỉnh cho biết, đã có một cuộc họp giữa các ông Trần Hoàn – trưởng ban TTVH TW, Nguyễn Đình Thi - Tổng thư ký Hội liên hiệp VHNT Việt Nam, Hà Xuân Trường - Tổng biên tập tạp chí Cộng Sản và Hữu Thỉnh - Tổng thư ký Hội Nhà văn để bàn xem có truy tố tôi về chính trị như truy tố Dương Thu Hương hay không…”. Về điều này, tôi đã hỏi anh Hữu Thỉnh, anh Thỉnh bảo: “Làm gì có chuyện đó, Đỗ Minh Tuấn bịa ra đấy!”

Biạ 3: Đỗ Minh Tuấn viết tiếp: “Nhưng sau đó, Ban TTVH đã giao ban thông báo về trường hợp của tôi dẫn đến việc gần 3 năm tôi không được ký tên thật trên báo và không được làm phim...”, “…Khi lãnh đạo Ban TTVH TW và lãnh đạo Bộ Văn hoá bênh che trắng trợn bọn người này (tức những người, những tờ báo phê bình chê phim Ký ức Điện Biên của DMT là dở tệ - chú của TMH) đối xử bất công với tôi trong liên hoan phim quốc gia, và trong nhiều việc khác, tôi càng thêm căm giận”. Về điều này, tôi gọi điện thoại ngay cho nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát - Cục phó Cục Điện ảnh (người viết kịch bản cho phim Ký ức Điện Biên để ông Tuấn làm đạo diễn); bà Hồng Ngát trả lời tôi như sau: “Làm gì có chuyện Đỗ Minh Tuấn bị cấm làm phim, cấm viết ký tên thật, làm gì có chuyện cấp trên xử tệ với ĐMT, Tuấn nó bịa ra đấy!” . Cũng về chuyện ông Tuấn bịa ra bị chính quyền cấm làm phim 3 năm và không được ký tên thật khi viết báo, nhà văn - đạo diễn điện ảnh Đặng Nhật Minh trả lời điện thoại tôi như sau: “Thưa anh Hảo, tôi làm Tổng thư ký Hội Điện ảnh Việt Nam 2 khóa liền, từ năm 1989 đến năm 2000, tức khóa 3 và khóa 4. Đỗ Minh Tuấn là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Điện ảnh Việt Nam khóa 3. Làm gì có chuyện ông Tuấn bị cấp trên cấm làm phim 3 năm và cấm viết ký tên thật!”

Biạ 4: Đỗ Minh Tuấn viết: “Có lần Trần Đăng Khoa nói với tôi: “Bác nguy rồi! Trong nước thì bác bênh hải ngoại, ra ngoài bác lại bênh trong nước. Như thế, ta thì tưởng bác theo Mỹ, Mỹ lại tưởng bác là người của Đảng ta. Nguy quá!”. Tôi đã gọi cho nhà thơ Trần Đăng Khoa để xác minh việc này, ông Khoa bảo: “Trần Đăng Khoa không bao giờ nói điều đó với Đỗ Minh Tuấn. Tuấn bịa đấy!”.

Biạ 5: Đỗ Minh Tuấn viết: “Cái bẫy chính trị phe cánh Trần Mạnh Hảo, nó bộc lộ tâm địa độc ác của một người nhân danh nhà thơ nhưng luôn muốn tống giam những người viết khác vào tù”… “ viết các bài khủng bố nhà văn… quy chụp và đe nẹt”… “Những người đứng sau Trần Mạnh Hảo vẫn phát hiện vấn đề và cung cấp tri thức cho ông ta viết hàng loạt bài khủng bố trí thức văn nghệ sĩ”… “Cái cung cách phường tuồng mồm loa mép giải, ngụy biện, bịa chuyện và đánh tráo của Trần Mạnh Hảo ai còn lạ nữa”… “Trần Mạnh Hảo viết bài ký nặc danh quy chụp chính trị cho tôi, để rồi 2 năm sau Trần Mạnh Hảo giật được “ngọn cờ”…” . Tất cả những điều trên đều do Đỗ Minh Tuấn bịa ra một cách vô bằng cớ để đánh lừa bạn đọc, nhằm vu khống, bôi nhọ Trần Mạnh Hảo đến tận cùng. Tất cả những “tội lỗi” ấy của Trần Mạnh Hảo thực ra đều là của Đỗ Minh Tuấn cả, rồi ông gắp lửa bỏ tay người, đổ vấy cho người khác (như trong bài viết “Chiếc ca-pốt rách của Đảng thưa chuyện cùng chiếc ca-pốt lành của Đảng” trên talawas ngày 29-4-2005 mà Trần Mạnh Hảo đã trích dẫn cụ thể để chứng minh).

Biạ 6: Đỗ Minh Tuấn viết về các nhà văn dự Đại hội nhà văn như sau: “Rõ ràng Trần Mạnh Hảo chỉ nhìn vào quan chức đảng viên ngồi ở dưới, không bận tâm nhìn vào thái độ của mấy trăm nhà văn thường dân xem họ phản ứng ra sao trước lời phát biểu của tôi”. Điều này, Đỗ Minh Tuấn đã nói dối: hầu hết các nhà văn dự đại hội đều là đảng viên, nếu họ không đảng viên thì vẫn là cán bộ biên chế của nhà nước, hoặc về hưu thì vẫn là cán bộ đảng viên ăn lương hưu. Làm gì “có mấy trăm nhà văn thường dân” trong đại hội như ông Tuấn bịa chuyện để lừa. Nhà văn thường dân là những nhà văn ngoài biên chế nhà nước, tức không phải cán bộ, không phải đảng viên như Trần Mạnh Hảo chỉ đếm trên đầu ngón tay!

Biạ 7: Đỗ Minh Tuấn viết: “Nếu ông nhìn thấy những gương măt hồ hởi, phấn khích, những cái bắt tay, những lời bình luận “tuyệt vời”, “hay quá” của các nhà văn dành cho tôi sau khi tôi phát ra thông điệp ấy, thì ông sẽ không có những nhận định quá quan tâm tới cơ mặt và cảm xúc của cấp trên như thế”. Điều này Đỗ Minh Tuấn hoàn toàn bịa chuyện. Khi ông phát biểu xong, chỉ nghe thấy nhiều tiếng nói rõ to: “vô văn hoá” vang lên từ dưới hội trường. Độc giả cần đọc lại bài viết của nhà văn Vũ Ngọc Tiến “Thư ngỏ gửi bạn văn chương” trên talawas ngày 17-5-2005 thì khắc biết. Anh Vũ Ngọc Tiến viết: “Thế nên bước vào đại hội, xảy ra bao nhiêu chuyện nhộn nhạo kém văn hoá cũng là tất yếu. Bài của anh Đỗ Minh Tuấn vừa đăng trên mạng là một minh chứng”. Xin tham khảo nhận xét của tác giả phuong 254: “Cách bác (tức Đỗ Minh Tuấn - chú của TMH) gọi Trần Mạnh Hảo là “ca-pốt rách” trên diễn đàn đại hội nhà văn với bất kỳ hàm ý gì đều là hành vi kém văn hoá và vô trách nhiệm. Nó không phù hợp với giới trí thức của các bác nói chung, và đặc biệt là một văn nhân tài tử như bác, người luôn được công chúng săn đón và ái mộ”.

Biạ 8: Đỗ Minh Tuấn viết: “Trần Mạnh Hảo đã trích dẫn và sắp xếp các ý của tôi thoát ly văn cảnh”. Đây là điều dối trá của ông Tuấn, trong bài “Chiếc ca-pốt rách thưa chuyện…” vừa dẫn, chúng tôi đã trích dẫn những lời ông Tuấn đánh vào anh em đổi mới, đánh vào hải ngoại, vu cáo chính trị, quy chụp, đe nẹt các nhà văn trong nước cũng như ngoài nước một cách chính xác, hoàn toàn không có cắt xén, sắp xếp lại, hay thoát ly văn bản như ông Tuấn đã nói dối mà không hề chứng minh.

Biạ 9: Đỗ Minh Tuấn viết: “Trần Mạnh Hảo… núp vào sau lưng em bé học sinh lớp 11 Nguyễn Phi Thanh để đòi bỏ kiệt tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của cụ Đồ Chiểu ra khỏi sách giáo khoa”. Đỗ Minh Tuấn bịa chuyện này để làm gì vậy? Xin quý vị vào trang web sau của báo Công an TP. Hồ Chí Minh online xem bài viết của Trần Mạnh Hảo về “bài văn lạ”, để thấy ông Tuấn nói bất cứ điều gì đều sai sự thật : www.baocongantphcm.com.vn/detail_news.php?a=art05460 hay vào www.baocongantphcm.com.vn rồi vào tiếp mục “Phóng sự điều tra” là xem được bài viết “nhân bài văn lạ của em Nguyễn Phi Thanh…” của Trần Mạnh Hảo.

Biạ 10: Đỗ Minh Tuấn viết: “Trần Mạnh Hảo viết: “Nhân dịp 50 năm kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ 1954-2004, lệnh của Bộ Chính trị cho Ban TTVH TW+ Cục điện ảnh+Hội điện ảnh Việt Nam phải tìm một đạo diễn vừa hồng vừa chuyên, tuyệt đối tốt về phẩm chất chính trị, có công bảo vệ đảng nhiều năm, để trao cho một trệiu đô la mà làm phim ca ngợi chiến thắng Điện Biên Phủ. Ngoài đạo diễn Đỗ Minh Tuấn ra, còn ai có thể vừa mắt Bộ chính trị để cầm một triệu đô la tiền đầu tư sáng tác vĩ đại nhất từ xưa tới nay như thế?”. Xin hỏi Trần Mạnh Hảo dựng đứng ra chuyện này để làm gì? Có phải ông quá coi thường độc giả talawas nên đem cái logic chính trị trẻ con ra để lừa họ không?” . Xin thưa, sự thật rành rành vậy mà ông Tuấn còn chối! Việc Bộ Chính trị Đảng Cộng sản ra nghị quyết kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, nghị quyết có nói về chuyện làm phim kỷ niệm chiến thắng đã đăng báo toàn dân biết. Nếu không có Bộ Chính trị phê duyệt, coi xem ai xứng đáng làm phim này, làm sao Đỗ Minh Tuấn có thể ẵm 14 tỷ đồng Việt Nam (tương đương một triệu đô la) cho vào túi để làm ra thứ phim giả cầy dở nhất năm 2004 như báo chí đã viết (sẽ chứng minh sau)? Nên nhớ rằng, chế độ xã hội chủ nghĩa hiện nay chuyên đi vay nợ tư bản nước ngoài nên nợ như chúa chổm, quốc nạn tham nhũng lại hoành hành nên tiền bạc khan hiếm lắm; chuyện đầu tư một triệu đô la cho những dự án như làm phim, nhất nhất phải có Bộ Chính trị (mà đại diện là ông Trưởng Ban TTVH TW) phê duyệt. Lấy vài trăm ngàn từ ngân sách nhà nước ra đã phải thông qua bao nhiêu thủ tục nhiêu khê, huống hồ đâu phải tự nhiên mà một đạo diễn thuộc hàng thường thường bậc trung như Đỗ Minh Tuấn, lại được Đảng rót vào túi cho một triệu đô la để sáng tác ra tác phẩm ca ngợi Đảng?

Biạ 11: Đỗ Minh Tuấn khoe phim Ký ức Điện Biên của ông tuyệt vời lắm, chỉ vì trò bôi bẩn lịch sử của các báo như Công an TP.HCM, báo Thanh niên, báo Điện ảnh TP. HCM… chê dở, đã được Ban TTVH TW và Bộ Văn hoá toa rập, nên phim ông rất hay bị chúng bôi bẩn lịch sử cho là kém nhất. Rất nhiều tờ báo trong nước đã phân tích cái gian xảo, xiên xẹo này của ông Tuấn: người ta chê cái phim làm về Điện Biên của ông dở tệ, xem ngượng chết được, ông lại đánh tráo khái niệm bảo báo chí và cả Đảng Cộng sản bôi bẩn chiến thắng Điện Biên Phủ, và bôi bẩn các chiến công chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc. Đúng như nhận định của tác giả phuong 254: ai chê phim ông dở, ông bèn quy lên là phản động. Đấy là sở trường của Đỗ Minh Tuấn từ xưa đến nay. Về phim Ký ức Điện Biên của Đỗ Minh Tuấn, Yxine.com đã tổng kết đánh giá của báo chí về điện ảnh Việt Nam năm 2004, có đoạn như sau: “… Lọ lem hè phố, Ký ức Điện Biên hai phim đại diện cho những phim tệ nhất của Việt Nam”… “Đạo diễn Đỗ Minh Tuấn: đạo diễn của một phim đắt tiền nhưng quá dở và đáng thất vọng, có những phát ngôn… không biết nói sao nữa!” Xin độc giả đọc thông tin bầu phim của ông Tuấn là phim dở nhất trên trang web: www.yxine.com/?gf=bv&view=1&articles_id=300.

Chúng tôi phải dừng mục này để chuyển sang mục khác vì đã dài. Nếu cứ theo đà như trên, phải tới “Bịa 20” mới khui hết những điều nói dối của Đỗ Minh Tuấn trong bài viết trên.


Cung Mi

2. Đỗ Minh Tuấn - kẻ trí trá, lá mặt lá trái - người học trò nhỏ của ông Lê Đức Thọ

Trong lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam và nước Việt Nam, vai trò của ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ tính từ năm 1960 là vai trò số 1, trên cả ông Hồ Chí Minh. Nhiều khi, quyền lực trong tay ông Lê Đức Thọ còn trùm lên cả quyền lực của ông Tổng bí thư Lê Duẩn. Có thể nói, ông Lê Đức Thọ được coi như đồng nhất với Đảng. Thế mà từ năm 1978, lúc mới 26 tuổi, ông Đỗ Minh Tuấn, không hiểu bằng cách nào, đã lọt vào mắt xanh của ông Lê Đức Thọ, thậm chí còn như thư ký riêng không chính thức, cố vấn không chính thức cho ông Lê Đức Thọ, như chính ông Đỗ Minh Tuấn “khai ra” trên talawas trong bài viết đã dẫn, như sau: “Tôi chưa bao giờ chụp ảnh với ông Lê Đức Thọ và đi khoe ảnh ấy như ông Trần Mạnh Hảo viết. Tôi có quan hệ với ông Lê Đức Thọ từ năm 1978, trong tình thế buộc phải tự vệ trong cuộc đánh nhau với con trai ông Trường Chinh lúc ấy là bí thư chi bộ Viện triết học, người đã kỷ luật khai trừ Đoàn tôi vì tội tôi đã viết tập chuyên luận “Phúc thẩm án Juda” (cho rằng tôi ám chỉ Đảng là Chúa) và muốn đưa tôi đi cải tạo. Để tự vệ chúng tôi đã gõ cửa các Ủy viên Bộ Chính trị trong đó có ông Lê Đức Thọ để kiện lại con trai ông Trường Chinh, sau đó có quan hệ với họ, đóng góp nhiều ý tưởng mới và giới thiệu nhân sự cho các vị này… (…) … Có nhiều chuyện ly kỳ, thú vị, sẽ có dịp kể lại ngọn ngành… (…) … Ngay cả khi viết lại những ý kiến của Lê Đức Thọ (những đoạn in đậm do TMH nhấn mạnh) bảo vệ các nhà văn, phê phán sự quy chụp, Đỗ Minh Tuấn cũng không đứng tên mà đưa cho một nhà thơ khác in trên báo, đến nay nhiều người vẫn tưởng bài viết ghi những ý kiến cởi mở đó là của nhà thơ ấy…”. Qua đoạn văn tự bạch này, ta thấy chân dung ông Tuấn hiện lên rất rõ như là cái bóng nhỏ của ông thầy Lê Đức Thọ. Một người dân thường (như ông Tuấn nhận) làm sao lại có thể tự nhiên gõ cửa nhà ông Lê Đức Thọ và các Uỷ viên Bộ Chính trị khác như gõ cửa nhà mình thế? Xin thống kê vai trò chính trị của ông Đỗ Minh Tuấn trong mối quan hệ với ông Lê Đức Thọ:

Quan hệ với ông Lê Đức Thọ từ năm 1978 để đánh nhau với ông Đặng Xuân Kỳ, con trai ông Trường Chinh. (Ông Tuấn dám đánh nhau với con ông Trường Chinh - Chủ tịch Quốc hội lúc đó - thì quả là ông ta còn oai hơn một ông Bộ trưởng?)

Gõ cửa nhà các ông trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản và gõ cửa nhà ông Lê Đức Thọ (còn hơn một Uỷ viên BCT?).

Sau đó ông Tuấn có quan hệ với họ = các Ủy viên Bộ Chính trị?

Góp nhiều ý tưởng mới cho các ông trong Bộ Chính trị: cố vấn cao cấp?

Giới thiệu nhân sự cho các vị này = giới thiệu nhân sự cho các vị Bộ Chính trị để sắp xếp ai là Bộ trưởng, ai Thứ trưởng, ai Bí thư tỉnh, Chủ tịch tỉnh, ai Phó bí thư, Phó chủ tịch tỉnh, ai Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật, ai Tổng thư ký Hội Nhà văn… Như thế vai trò của Đỗ Minh Tuấn còn hơn thư ký riêng, cố vấn riêng của ông Lê Đức Thọ và các ông Uỷ viên Bộ Chính trị, nghĩa là ông Tuấn khoe mình quyền lực chỉ sau ông Lê Đức Thọ?

Thay mặt ông Lê Đức Thọ, viết lại ý kiến của ông Thọ, ký tên một nhà thơ khác mà không ký tên mình, vai trò của ông Tuấn là thư ký riêng ngầm của ông Thọ?

Với vai trò quá “dễ sợ”, quá mờ ám như trên, việc gì ông Tuấn còn thanh minh rằng tôi không hề chụp hình với ông Lê Đức Thọ và đi khoe chuyện chụp hình chung này như ông Hảo bịa. Với nhiệm vụ “ngầm”, cố vấn kiêm thư ký riêng cho ông Thọ và các ông trong Bộ Chính trị như ông Tuấn khoe, thì việc chụp hình chung với ông Thọ chỉ như một sợi lông tơ so với quả núi!

Qua đây, mới thấy rằng ông Đỗ Minh Tuấn có “nghề” đi cửa sau và giao du, gác cửa hay nhận “các nhiệm vụ ngầm” của các ông trùm cộng sản trong các “triều Bộ Chính trị” từ thời ông Lê Đức Thọ năm 1978 đến nay. Từ những lời khai này của Đỗ Minh Tuấn, ta mới giải mã ra hàng loạt điều bí mật trùm lên ông hoạt đầu này; ví như vì sao, giữa Hội trường Ba Đình, ông dám chử Đảng là con C…, lại còn dám viết rõ ràng hơn, rằng: “Coi Đảng là cái dương vật của dân tộc là thái độ tôn vinh khuyến khích Đảng ngày càng vững mạnh…”. Vì có thế lực to lớn trong Bộ Chính trị bảo vệ, nên Đỗ Minh Tuấn khoe rằng, hơn 10 năm trước, ông vẫn thòi ngòi bút qua hải ngoại, viết bài tôn vinh tự do dân chủ (mà đến nay, ai ở trong nước viết bài cho Cánh Én cũng bị coi là phản động), để ông viết bài trên báo Cánh Én như sau: “Tôi có dịp tham gia viết bài cho các tờ báo chí văn chương hải ngoại và thường xuyên trao đổi trên các diễn đàn liên mạng như diễn đàn VNSA của du học sinh ở nước ngoài, diễn đàn trí thức của báo Cánh Én… mở rộng thêm tầm mắt dần dần hiểu sâu về tự do, dân chủ…”. Tờ Cánh Én online là tờ báo chống cộng bậc nhất, bị tường lửa nặng nhất, chả lẽ khi viết trên tờ báo này, ông Tuấn lại ca ngợi Đảng Cộng sản ư? Một mặt, thòi bút ra hải ngoại chửi Đảng thoải mái mà Đảng vẫn để yên, vẫn cho cả triệu đô la để thưởng công mà làm phim ca ngợi Đảng, thì hành vi chửi Đảng này của ông Tuấn là hành vi chửi cò mồi, chửi vì được “cấp trên giao” hay vì ông có nhiều thế lực trong Bộ Chính trị “bảo hiểm” nên công an ớn ông mà không dám làm phiền?

Ngay trong bài viết này, Đỗ Minh Tuấn đã thể hiện con người lá mặt lá trái, tráo trở của mình, vừa chửi Đảng là con C…, ông lại ca ngợi Đảng liền, bảo cái bục gỗ trong Hội trường Ba Đình là cái bục dân chủ: “Thưa nhà thơ chiến sĩ Trần Mạnh Hảo, cái bục ở hội trường Ba Đình trở nên trang trọng thiêng liêng không phải vì đã có các quan to đứng cạnh, mà vì nó biểu tượng cho quyền đứng thẳng và nói thẳng của nhân dân, vì nó là nơi phát đi tiếng nói mạnh mẽ và sáng suốt của những người trí thức!”. Đỗ Minh Tuấn nói như thế này, tức là chế độ ta tốt đẹp quá rồi, tự do dân chủ quá rồi, thì vì sao ông còn chửi Đảng? Những người đứng nói trên bục kia, hầu hết là các ông quan to, các ông dân biểu = Đại biểu Quốc hội do Đảng chỉ định (để dân bầu dỏm), chứ thằng dân đen thấp cổ bé họng có mà đến Tết Ma Rốc mới được néo hoánh tới; dân bây giờ mà dám đến đứng xớ rớ gần Hội trường Ba Đình dăm ba người tụ tập là công an bắt liền (theo lệnh mới cấm tụ tập). Đang ca ngợi bục gỗ trong Hội trường Ba Đình là biểu tượng của sáng suốt, của nhân dân, của sự thiêng liêng dân chủ tự do, tức là chế độ ta tốt đẹp lắm, Đỗ Minh Tuấn bèn chửi Đảng liền, đòi Đảng xấu xa như thế thì từ bỏ vai trò lãnh đạo đi: “Nếu mặc cảm xấu hổ về những nguyên lý chính trị của mình thì hãy đổi mới về chính trị: từ bỏ độc quyền lãnh đạo xã hội, xây dựng một chế độ dân chủ, chứ đừng giữ quyền lãnh đạo mà để xã hội chà đạp và bôi bẩn lên những chiến công làm bằng xương máu của nhân dân…”. Chửi Đảng chưa khô mép, Đỗ Minh Tuấn liền thề thốt trung thành với Đảng liền: “Tôi đã nhiều lần gửi thư lên các cấp cao nhất của Đảng và nhà nước nói rằng tôi là người gắn bó xây dựng Đảng”, ”…Vốn có chút “bảo hoàng hơn vua” như Trần Mạnh Hảo đã nhận định, Đỗ Minh Tuấn trở lên hùng hồn nhất khi Đảng hữu khuynh…”. Trong bài viết này, không hiểu tại sao Đỗ Minh Tuấn cứ chửi Đảng một câu xong lại nịnh Đảng một câu? Phải chăng đó là bản chất con người Đỗ Minh Tuấn, cái hội chứng Brutus, vừa hoan hô Ceasar vừa đâm chết Ceasar?

Có thể nói, trong cuộc đời mình, ông Lê Đức Thọ đã đào tạo ra hàng vạn học trò, nhưng cho đến nay, chỉ có hai học trò “thành danh” tuyệt vời nhất đúng chí hướng và bản chất của ông: 1. học trò lớn nhất chính là cựu Chủ tịch nước, đại tướng Lê Đức Anh; 2. học trò bé nhất: đạo diễn kiêm nhà văn Đỗ Minh Tuấn. Có lẽ, chính vì suốt nhiều năm quan hệ với ông Lê Đức Thọ và các ông Ủy viên Bộ Chính trị nên Đỗ Minh Tuấn đã không chỉ nhìn rõ mười mươi, mà còn cảm được cái hành vi siêu phàm của Đảng khi biến một văn nghệ sĩ như ông trở thành chiếc bao cao su cho Đảng hành lạc văn hoá ra sao? Có lẽ, vì thấy chỉ có một mình được nhận niềm khoái lạc ké vô biên kia một cách bí mật, nên ông Tuấn nhân chuyện trả thù Trần Mạnh Hảo mà ra công khai cho mọi người biết mình đã được ân huệ cửu trùng sung sướng ra sao? Đồng thời, có nhã ý san sẻ cho kẻ “cựu thù” TMH này tí phế thải, tí sái của thứ vinh quang ngầm mình từng được hưởng nhiều năm chăng? Nên ông Tuấn mới ban cho Trần Mạnh Hảo cái đặc ân được làm “chiếc ca-pốt rách của Đảng”; còn “chiếc ca-pốt lành của Đảng” thì còn ai vào đấy nữa! Viết bài báo này, tôi xin trả lại ông Tuấn “chiếc ca-pốt rách của Đảng” ông vừa tặng tôi. Ông Đỗ Minh Tuấn, ông thừa biết Đảng khôn hơn ông tưởng nhiều: đã xài thì xài ca-pốt lành thôi, thứ ca-pốt gia truyền phải được chế tạo từ xưởng sản xuất ca-pốt chuyên nghiệp của ông Lê Đức Thọ ngày xưa mới sướng.

Sài Gòn ngày 4-6-2005

© 2005 talawas
Guatamela
Hình như đám văn nghệ sĩ nào lon ton ra hải ngoại hay về nước những đợt đầu tiên nhất đều là những người không đáng tin. Đỗ Minh Tuấn, Nguyên Ngọc, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Duy, Nguyễn Huy Thiệp ra hải ngoại nhiều lần, giao thiệp rộng, cố tạo ra hình ảnh tốt. Nay đọc bài TMH thấy hết tin
Pages: 1, 2, 3, 4
Quán nước đầu làng Ven > Sáng Tác - Thảo Luận - Phổ biến kiến thức > Văn Học & Ngôn Ngữ
Bạn đang xem phiên bản gọn nhẹ của diễn đ n dưới dạng text, để xem các b i viết với đầy đủ mầu sắc v hình ảnh hãy nhấn v o đây !
Invision Power Board © 2001-2024 Invision Power Services, Inc.