Langven.com Forum

Giúp đỡ - Lục lọi - Dân l ng - Lịch
Full Version: Duyên Anh Và Các Tác Phẩm
Quán nước đầu làng Ven > Sáng Tác - Thảo Luận - Phổ biến kiến thức > Văn Học & Ngôn Ngữ
Pages: 1, 2
trademark
Duyên Anh từng được mệnh danh là "Nhà Văn của Tuổi Thơ" lừng lẫy một thời của miền Nam, được hàng triệu độc giả say mê yêu mến. Sau đây là một vài sáng tác của ông.

Gửi Lan Anh: Bây giờ tôi mới có thể post được bài trong diễn đàn. chọn truyện đầu tiên là "Đại Dương Trong Lòng Con Ốc Nhỏ" như đã hứa. rose.gif


Ðại Dương Trong Lòng Con Ốc Nhỏ

DUYÊN ANH




Bến đò Đồng Đức càng ngày càng nhiều khách tới lui. Bây giờ không còn mùa đông mưa phùn rây mờ sông nước, không còn họ hàng lũ ruồi nhặng sợ rét, lười biếng đâu trên sợi dây lòng thòng để treo chuối, treo ngãn bám vào liếp, vào tường tròn ba tháng rét mướt đìu hiu. Dân thành phố tản cư về đồng ruộng. Họ mang theo niềm vui và cuộc sống mới mẻ khiến quê ngoại nhà tôi tấp nập, ồn ào. Nằm nghe tiếng chim cu gáy buổi trưa, tôi cảm thấy buồn tẻ. Kỷ niệm tràn lụt đầu óc tôi bằng những bộ mặt sáng sủa, những điệu cười hồn nhiên của đám trẻ nhỏ thành thị trạc tuổi em Mai. Tôi nghĩ, giá anh em tôi không phải sống hẩm hiu ở quê ngoại thì lúc này đây, chúng tôi cũng biết tung tăng dắt tay nhau chuyện trò dưới ánh trăng đồng nội. Chứ đâu chịu lạc lõng trong đêm tối, nhìn bóng mẹ gầy yếu run rẩy cơ hồ chiếc lá sắp lìa cành. Bất giác, tôi nhớ cha tôi và nước mắt phủ mờ...


Mẹ tôi bảo thoạt tiên cha tôi đánh đàn thập lục cho ban hát cải lương lưu động. Dạo ấy danh từ nghệ sĩ còn xa lạ nên ông bầu coi cha tôi ngang chức anh lao công. Làm việc từ tám giờ tối tới hai giờ khuya. Tiền thù lao dè xẻng mới đủ nuôi một vợ, một con. Trong gánh hát, cha bị bạn đồng nghiệp chê bai tài đàn non nớt hay tâu hót với ông bầu vài điều lầm lẫn của cha tôi. Thì cha tôi hậm hực nguyền rủa thói đời đen bạc. Chán rồi, cha tôi trách ông phó Nhị. Giá ông phó truyền đủ ngón trứ danh, chắn chắn sự nghiệp cha tôi đỡ méo mó. Tôi cố mường tượng cái cảnh hậu trường sân khấu giữa mùa hè nóng nực, cha tôi cởi trần biểu diễn tài nghệ, dìu điệu ca cho đào kép ngọt giọng. Mồ hôi, có khi cả nước mắt, rơi rụng trên mười sáu sợi tơ đồng đổi miếng cơm hẩm manh áo thô. Về sau có lần giận đời, cha tôi đập đàn giải nghệ.


Khi tôi hiểu biết, thấy đời cha tôi lẩn quẩn trong hai câu thơ của bài hát nói cha tôi khai bút nhân dịp năm mới: "Ông Lái thuốc bắt đầu, ông Phó, ông Ký, ông Thầu, ông Lang..." Mỗi chuỗi nghề nghiệp quàng vào cổ cha tôi. Lên voi xuống chó, xuống chó lên voi... Tội nghiệp cha tôi, người còn chút tâm hồn để không nỡ gọi tài đánh đàn là nghề kiếm cơm.


Từ ông lái thuốc bắc đến ông lang băm chế thuốc cao đan hoàn tán. Chao ôi, tôi phải viết thế nào đây cho thật linh động từng cảnh cha tôi ngồi chế thuốc cam bằng thuyền gang, ngồi thái thuốc sống bằng dao cầu, ngồi xao thuốc bổ bằng nồi rang đất và hoàn viên thuốc tễ? Làm sao ai chứa chất được trọn vẹn ngần kia mẫu đời. Thế mà cha tôi, trời ơi! Tôi muốn làm một khán giả vô tư nhỏ lệ tiếc thương gã nghệ sĩ sinh nhầm xứ sở.


Có bận túng bấn quá, cha mẹ tôi phải chia nhau mỗi người một chợ đem thuốc hoàn, thuốc tán trị các bệnh cam sài thai đẹn, ho hen, giun sán ra bày ngổn ngang trên manh chiếu hẹp dưới quán chợ. Mẹ tôi bán quanh quẩn mấy chợ gần miền bể như chợ Tiểu Hoàng... Sáng sớm mẹ đi, xế chiều mẹ về săn sóc anh em tôi. Còn cha tôi xách chiếc va ly lớn lễ mễ sang mãi tận Thần đầu, Thần huống. Cha tôi đi hàng tuần mới trở lại, nói là vừa bán thuốc vừa thăm dò xem bên sông Trà Lý có dễ kiếm ăn thì cho gia đình sang.


Những chuyến cha tôi vắng nhà, mẹ tôi xuôi ngược tần tảo, anh em tôi nương bóng nhau cầu nguyện. Nghe mẹ tôi bảo sóng sông Trà dữ tợn. "Sóng cửa Trà, mà cửa Hộ", em Mai chỉ sợ phà đắm. Tôi dỗ dành em tôi rằng cha tôi sống tới tám mươi tuổi để xem anh em tôi khôn lớn. Em Mai thường khóc tỏ vẻ lo ngại. Khốn nạn, cha mẹ tôi nghèo nàn, còn tình thương mến nhưng tình thương mến không nuôi sống được con nên muốn con no lành đã phải xa con, cực nhọc. Tôi cứ nghĩ đến lúc cha mẹ tôi ngồi dọn hàng khi chợ chiều tan vắng. Ánh nắng vàng vọt quê mùa chiếu vào khuôn mặt thê thảm vì nhớ con, vì ế hàng của cha tôi chắc đau thương lắm.


Ít tháng sau cha tôi bỏ nghề lang thuốc. Cha tôi sắm ít dụng cụ chữa xe đạp. Người ta đặt tên mới cho cha tôi: ông Phó. Cha tôi sửa chữa, lau dầu, vá chín, vá sống săm lốp xe đạp, xe tay. Nếu ai cần tô điểm xe mình thì cha tôi cũng biết sơn xì, sơn hấp, mạ kền bằng... ngân nhũ. Nhiều lần nhìn cha tôi nghiến răng vặn cái ốc lâu ngày thiếu dầu mỡ, lòng tôi thắt lại. Tay cha tôi mạch máu nổi bật, chằng chịt. Có khi "lắc lê" nhờn, tuột mạnh bật tay ra. Cha tôi mất đà, chúi về một bên. Thường thường, tay cha tôi bị xước da, máu chảy ri rỉ. Cha tôi mải mê công việc không để ý, đưa tay vuốt mấy sợi tóc lòa xòa trên trán. Máu ở vết thương được dịp hòa với mồ hôi... Nhưng cha tôi nín lặng không kêu ca, không than vãn, không kể lể với vợ con. Sự nín lặng đó tôi đã khổ tâm học hỏi song tôi thấy tôi thất vọng. Vì, cho tới ngày nay, hễ gặp bất cứ con rắn độc cuộc đời nào, dù lớn dù nhỏ, cắn đau hay cắn hụt, tôi vẫn thích tìm người băng bó hộ.


Tò mò, tôi hỏi cha tôi học nghề sửa xe bao giờ, cha tôi mỉm cười: "Cái khó sinh ra cái khôn con ạ!". Tôi nghi ngờ rồi phỏng chừng cha tôi học lỏm hay cha đã từng làm thợ phụ cơm nhà việc người. Lại thêm hình ảnh thui chột của chú "học nghề" nữa!


Hồi gia đình tôi ở Hà Nội về Thái Bình rồi dọn xuống miền bể, em Mai bé bỏng nên em chưa cảm được nỗi buồn biển động cuối mùa đông. Dường như, bể giận dữ tận ngoài khơi bãi Đồng Châu. Tiếng gầm gừ vọng tới nghe ghê rợn. Cha tôi khởi nghiệp chữa xe tại đây, tại ngã ba chợ huyện Tiền Hải, dưới gốc cây gạo to lớn, sù sì, gai góc. Những buổi chiều rét mướt, cha tôi ngồi co ro khâu mép lốp đứt "tanh" hay phồng mang trợn mắt thổi than hồng trong lò máy vá chín. Cha tôi nhặt nhạnh từ năm hào bơm thuê cho anh phu xe tay, chẳng nề hà việc dầu mỡ. Bởi vậy, cả sau lúc ngưng làm để vuốt ve anh em tôi, tay cha tôi, dẫu rửa xà phòng, vẫn còn đầy vết dầu lem luốc. Em Mai hay kéo đôi tay cha tôi đùa bỡn:

- Tay cha tôi đen như nhọ nồi.

Cha tôi cười:

- Trắng như bông mà con dám bảo đen. À, đố con biết tại sao tay phải cha dài hơn tay trái?

- Con chịu.

- Tại tay phải cha vặn "lắc lê". Cha vặn mạnh quá nên xương nó giãn ra.

Em Mai ngớ ngẩn:

- Con không thích tay phải cha dài đâu, cha làm cho nó ngắn bằng tay trái đi cha. Có được không hở, cha?

Cha tôi suy nghĩ giây lát, đoạn vỗ về em:

- Khó gì, rồi cha bỏ vặn "lắc lê" thì nó hết dài.


Tôi thương cha tôi, dĩ nhiên, nhưng thương bao nhiêu mới vừa? Cha tôi ít nói. Chắc chắn nỗi ray rứt vì mẹ con nheo nhóc ám ảnh cha tôi, làm cha tôi uất nghẹn: sự uất nghẹn của người không câm song không nói được. Dạo ấy, gạo kém, mẹ tôi phải chạy vay đong từng bữa một. Thoạt đầu, sáng ăn cầm dạ, chiều ăn no. Sau, sáng cha mẹ tôi nhịn chỉ thổi niêu nhỏ cho anh em tôi. Em Mai ăn xong còn thòm thèm. Cha tôi nhìn em, mắt đỏ ngầu. Mẹ tôi chạy vội xuống bếp. Tôi thương hại em, tập nhịn để em được ăn nhiều. Hôm thứ nhất, em bảo tôi:

- Sao anh không ăn?

Tôi nói dối:

- Tại anh đau bụng.

Em tôi tưởng thật:

- Thế em để phần anh vậy nhé?

Tôi cười xua tay:

- Đau bụng ăn cơm nguội thế nào được. Em ăn đi, ăn nhiều chóng lớn.

Hôm thứ hai, tôi cũng bỏ bữa sáng ân huệ của con nhà nghèo. Em tôi hỏi han vớ vẩn. Tôi phải trả lời tôi ăn sáng với em thì trưa ăn mất ngon. Nghĩ sao, em tôi giận tôi, em chẳng thèm ăn nữa. Em bắt chước nhịn đến trưa. Mẹ tôi mắng em. Em khóc, em kêu đau bụng. Như thế, em tôi hiểu chuyện rồi. Em tôi rủ tôi ra đường cái, ghé sát vào tai tôi thì thầm:

- Thật anh nhỉ, ăn bữa sáng, trưa ăn mất ngon.

Chúng tôi nhìn nhau. Chua xót. May mắn là tình cảnh ăn đong thiếu thốn rất ngắn ngủi. Gạo dần dần hơn. Nhà tôi lại tiếp tục hai bữa no nê. Đấy là những câu chuyện buồn của gia đình tôi. Nhưng chuyện khiến tôi nhớ mãi là chuyện sau đây:

Hôm cha tôi đang đánh nháp miếng lốp nổ thì một bà sang trọng tới gần. Bà ta nhìn cha tôi lúc lâu rồi mới ngại ngần hỏi:

- Bác làm ơn chỉ giùm tôi ông lang...

Bà ta quên tên ông lang. Cha tôi ngừng tay, lễ phép nói:

- Thưa bà, bà cho biết tên ông lang là gì ạ?

Móc trong túi mảnh giấy nhỏ ghi bút chì lờ mờ, bà ta lẩm nhẩm đọc:

- Ông Mai Viên bác phó ạ! Bà bạn tôi mách rằng ông Mai Viên chữa bệnh giỏi. Tôi từ phủ Kiến Xương xuống xin ông cái đơn. Bà bạn tôi trước là chỗ quen thân ông Mai Viên.

Như cái lò xo, cha tôi đứng thẳng dậy, trịnh trọng giới thiệu tựa hồ anh hề trên sân khấu giây phút sắp mở màn.

- Thưa bà... tôi là Mai Viên...


Bà khách lạ tròn xoe mắt. Bây giờ, cha tôi mới kịp để ý cái hình hài tiều tụy của lão phó chữa xe đạp dưới gốc cây gạo ngã ba chợ huyện Tiền Hải. Quần đùi đen, áo sơ mi ngắn tay nham nhở dầu mỡ mồ hôi. Chân tay sần sùi, thô lỗ... Còn giữ được đôi mắt, vầng trán rộng. Nhưng xấu hổ quá, tê tái quá, đôi mắt vội mờ đi và vầng trán lâm râm những giọt mồ hôi, những giọt mồ hôi tình cờ toát ra một buổi trời lạnh nhất. Cha tôi cúi xuống, nói rất nhỏ:

- Thưa bà tôi giải nghệ... lang thuốc rồi. Song nếu bà...

Cha tôi muốn nói thêm "nếu bà bỏ qua hình ảnh bác thợ chữa xe thì tôi sẵn lòng tiếp bà". Khốn nỗi, dù đã từng phen trầy trụa với cuộc đời, cha tôi vẫn tự ái để cứu vãn chút liêm sĩ tuy chẳng cần cứu vãn. Bà khách hình như cảm thông sự lên bổng xuống trầm của kiếp người, bà ta ngượng ngùng mãi mới thốt gọn ba tiếng "xin lỗi ông". Cha tôi mời bà ta vào nhà.

- Bà ở phủ Kiến chắc quen gia đình ông Phán Lâm?

- Thưa ông, bà Phán chỉ đường tôi mới rõ, chứ dễ chi.

- Trước kia...

- Vâng ạ! Bà Phán đã nói nhiều về ông. Tôi xin lỗi ông lần nữa vì cử chỉ vô lễ ban nãy.

- Thưa bà không hề gì ạ! Bà đừng bận tâm.


Cha tôi kê tặng bà khách ấy đơn thuốc bổ theo đúng lời viết quảng dán tường ngày xưa "xem mạch kê đơn không lấy tiền". Khi về, bà khách rút tiền cho tôi. Tôi từ chối, bỏ chạy mất. Đêm ấy, dưới ánh đèn dầu lạc tẩm bấc thắp đĩa, đêm dầy đặc, suy tư. Tôi nghe từng hơi thở dài sầu hận của cha tôi. Bất giác, tôi òa lên khóc khiến em Mai cũng khóc. Cha tôi xoa đầu anh em tôi an ủi:

- Nín ngay con, rồi các con sẽ sung sướng.

Tôi gục đầu xuống đùi cha tôi, ôm chầm lấy thân thể gầy yếu, ôm chầm lấy tấm lòng thương mến bao la mà rên xiết.

- Cha ơi! Con thương cha.

Giọng cha tôi tha thiết, bao giờ cha tôi cũng tha thiết với vợ con:

- Thương cha thì ngủ đi, sau này đừng giống cha nhé con, giống cha khổ lắm. Nhất nghệ tinh con ạ!


Nhưng anh em tôi không ngủ. Ngọn đèn gió thổi tắt rồi. Căn nhà tối om. Anh em tôi ngồi sát nhau hơn. Chúng tôi cùng im lặng nhìn ngày mai bằng bốn con mắt mờ lệ trong đêm vắng. Khổ thân em tôi, lớn dần để xem cuộc đời cha xuống dốc thảm hại. Em tôi nắm chặt lấy tay tôi như thầm nhủ, như trao gửi niềm tin. Tôi nghe rõ tiếng nước nhỏ giọt xuống chiếu.


trademark



Một sớm tháng hai, hoa gạo nở đỏ ối và bắt đầu rụng. Cha tôi vẫn co ro ngồi dưới gốc cây. Trên đầu cha tôi đủ các loài chim thi nhau ca inh ỏi. Chợt một con bậy bạ trúng giữa mái tóc cha tôi trắng xóa. Cha tôi nhìn lên xem có phải phân quạ. Vì nếu phân quạ sẽ gặp niềm rủi ro. Khốn nạn, cha tôi vừa ngẩng mặt nhìn lên thì chiếc hoa gạo to hơn nắm tay rơi giữa mặt. May mắn, cuống hoa ngược chiều nên những cánh hoa nát bét trên khuôn mặt của cha tôi như thể cha tôi bị đạn bắn vỡ mặt. Anh em tôi chạy lại quỳ xuống, cuống quít:

- Cha có đau không hở, cha?

- Cha có mở được mắt không?

Cha tôi nói:

- Đau gì mà đau, cái hoa đó mà...

Giọng em Mai run run:

- Con thấy nó kêu đánh "bốp". Chắc cha đau, cha nói dối. Con thì con khóc rồi. Cha đau thật hở, cha?

- Cái hoa nhẹ như bấc thì đau nỗi gì. Cha chỉ đau vì...

Tôi hỏi gặng:

- Vì sao cơ ạ?

- Vì... các con khổ sở!

Cha tôi rươm rướm nước mắt. Anh em tôi cúi đầu.


Mặc dù bé bỏng, anh em tôi cũng nhận ra hình ảnh cuộc đời cha tôi. Một hình ảnh bằng bao nhiêu hình ảnh nham nhở khắc khoải, què quặt. Tôi cầm tay cha tôi, nói nhỏ:

- Con sung sướng chứ có khổ đâu?

Em Mai cũng hối hả:

- Con chả khổ gì cha ạ!

Cha tôi mỉm cười gượng gạo:


- Các con nói dối.

Tôi nắm chặt tay cha tôi hơn:

- Lúc nào gần cha mẹ là các con sung sướng rồi.

Em Mai ôm đầu cha thủ thỉ:

- Con yêu cha.

- Yêu cha thì phải chăm học các con nhé, Hữu nhé! Nhất nghệ tinh...

Luôn luôn cha tôi nói "nhất nghệ tinh"... Tôi nhìn cha tôi, thấy má bên trái con dính chút máu hoa gạo. Đưa vạt áo lau sạch vết nhơ ấy, tôi giục:

- Cha vào gội đầu kẻo bẩn.

- Điềm may đấy con ạ! Hoa rơi là sang năm cha con mình giàu. Cha sẽ tậu nhà ngói trên tỉnh, con có cái xe đạp nhỏ đi học.

- Thế mẹ con?

- Mẹ con thì.. Ờ, ờ, khó nghĩ quá. Con chọn quà biếu mẹ xem nào.

- Mẹ con thôi bán xôi chè này, mẹ ở nhà khâu vá quần áo với lại kể chuyện ma này. Cha cho tiền con mua cái tráp đựng trầu biếu mẹ con nhá! Em Mai muốn mua biếu mẹ xâu tràng hạt để mẹ niệm Phật cha ạ!

- Ừ, ừ con muốn gì cũng được.

- Em Mai có búp bê, có ô tô, có tàu thủy, có nhiều thứ lắm. Em Mai không phải chơi đồ chơi bằng vỏ hến, nút chai...

Em tôi thích chí cười hớn hở. Đôi má núm đồng tiền xinh xinh tệ. Em làm nũng:

- Áo con rách rồi, cha mua áo cho con trước nhất cha nhé.

Cha tôi bỗng giật mình. Đôi mắt đang sáng rực mộng ước, phút chốc mờ đi, buồn. Cha tôi ngắm anh em tôi rồi khẽ gật đầu nói nhỏ:

- Ừ, mai cha mua áo cho con.


Hôm sau, nhằm ngày phiên chợ, cha tôi bỏ việc dẫn anh em tôi đi mua áo. Chợ phiên đông đúc, cha con dắt díu nhau chỉ sợ lạc. Qua hàng nước dừa, cha tôi cho mỗi đứa uống một cốc nhỏ năm hào. Hết quán này, quán khác mà chẳng thấy cha tôi nhắc chuyện áo làm em Mai thấp thỏm. Mãi cha tôi mới kéo anh em tôi đến hàng quần áo may sẵn có vô số người xúm lại mặc cả. Anh em tôi len lọt được vào. Em Mai nhìn những chiếc áo cánh trắng rồi nhặt vài chiếc để ướm thử. Mắt em long lanh nhưng cha tôi thì nét mặt tự nhiên tái nhợt, đôi tay run run cơ hồ như sốt rét. Cha tôi hỏi giá, người bán trả lời. Thêm thêm bớt bớt chán chê, rốt cuộc, cha tôi không dám nhất định vì sợ hớ. Em tôi trống ngực đánh thình thịch, nửa mừng nửa lo. Tôi biết giá có manh áo kia, em tôi hả hê vô vàn. "Già được bát canh, trẻ manh áo mới" mà. Cha tôi cũng biết thế, song người bán hàng chẳng thèm biết. Cha tôi đứng tần ngần. Tôi phỏng chừng cha tôi thiếu tiền.


Vuốt mái tóc em Mai, cha tôi an ủi:

- Hai anh em ra kia chờ cha nhé! Ra kia kẻo nó bắt bí. Thế nào cha cũng mua cho con.


Em tôi nuốt nước bọt ừng ực. Cha tôi đưa chúng tôi khuất khỏi hàng quần áo. Dặn dò xong, cha vội vàng đi. Trông theo cha, lòng tôi bâng khuâng tê tái. Anh em tôi đợi hàng nửa giờ mà cha tôi vẫn chưa trở lại. Chợ càng đông, tiếng ồn ào huyên náo. Anh em tôi không nghe rõ nữa. Tâm hồn em Mai hướng về manh áo, còn tâm hồn tôi thì không hiểu vì sao bối rối vô cùng. Em Mai cứ luôn miệng hỏi khiến tôi nóng ruột quá. Nắng mùa xuân hừng hực trên đầu chúng tôi. Nắm chặt tay em, tôi dìu em về phía hàng áo.


Bỗng anh em tôi thấy từ các hàng áo ban nãy người ta xô nhau giãn lối. Người bán hàng tức giận đỏ mặt lên, hét lớn:

- Ăn cắp, ăn cắp! Gớm nhanh như chớp, vừa mới quay đi mà nó đã thó mất rồi.


Tôi hoảng hồn, mắt lơ láo tìm cha. Song cha tôi không có trong đám đông trước mặt. Em Mai khóc bù lu bù loa, dỗ mãi em mới nín. Trong khi đó, người bán hàng quai mồm ra chửi bới hết lời. Hắn dọa nếu tóm được cổ kẻ cắp, sẽ đánh róc xương. Tôi chờ, chờ gần xế trưa thì ngờ rằng cha tôi lo kiếm anh em tôi và chắc chắn, đợi anh em tôi ở nhà. Tôi lớn không sợ lạc nữa nên cha tôi cũng có thể về trước. Nghĩ vậy, Tôi trở lại nhà. Anh em tôi buồn thiu, thẫn thờ bước như hai đứa trẻ ăn mày.


Về nhà, mẹ tôi bảo cha tôi bị cảm đang nằm đắp chăn rên hừ hừ. Anh em tôi xúm tới hỏi han. Cha tôi nín thinh không đáp. Em Mai sợ cha phật ý nên không hỏi đến chuyện áo mới nữa. Cả buổi chiều hôm ấy, không khí gia đình tôi nặng nề, khó thở. Đến tối, cha tôi bớt sốt, cha gọi anh em tôi tới gần xoa đầu, nắm tay như thường lệ. Cha tôi nói mua áo xong thì cha tôi cảm thấy choáng váng mặt mày, quên mất chỗ anh em tôi chờ đợi. Rồi cha tôi cắm cổ chạy về. Nghe cha kể chuyện anh em tôi vui mừng, sung sướng. Em Mai tôi hỏi:

- Cha mua áo cho con rồi hở cha?

- Ừ, đây này.

Cha tôi lật chiếu đầu giường nhấc chiếc áo ra. Em Mai vồ lấy ướm thử. Em thay áo cũ mặc áo mới vào. Em khoe tôi:

- Đẹp không anh Hữu?

- Đẹp lắm.

- Đẹp không cha?

Em Mai chợt nhớ điều gì, khuôn mặt ngây thơ nhí nhảnh phút chốc thoáng buồn. Em nói:

- Áo anh Hữu rách lưng cha ạ!

- Để phiên sau cha mua.

Tôi vội nói:

- Áo con vá được, cha đừng mua tốn tiền.

Giữa lúc ấy, mẹ tôi ở dưới bếp bước lên, em Mai níu mẹ, nũng nịu:

- Cha mua áo cho con mẹ ạ!

Mẹ tôi ngạc nhiên hỏi cha tôi:

- Tiền đâu mà cha mua áo cho con?

Cha tôi thản nhiên:

- Vay của bác Cẩm sáng sớm nay.

- Bác Cẩm đi Thái Ninh từ hôm kia cơ mà!


Cha tôi lặng thinh. Mẹ tôi không hiểu gì cũng lặng thinh. Tôi nhìn cha tôi. Cha tôi nhìn mẹ con tôi. Mắt cha tôi long lanh. Bóng cha tôi gầy gò in hình trên bức tường vôi loang lở. Có ai ngờ cái thân thể gầy gò kia lại bọc nổi tình thương yêu rộng lớn như con ốc nhỏ thu gọn cả đại dương trong lòng mà vẫn câm nín. Câm nín suốt đời. Tôi muốn ôm cha tôi, muốn xé rách làn da ngực để được nói vào trái tim cao cả của cha tôi rằng "Cha ơi! Cha vì anh em con mà phải như thế... Con sẽ làm gì cho xứng đáng sự hy sinh đó của cha!" Nhưng làm sao mà nói? Cảm xúc đã nghẹn cả lời. Tôi òa lên khóc. Cha tôi giật mình hỏi:

- Sao con khóc?

- Con thương cha.

- Nín đi... để dành nước mắt chứ chú bé. Khóc nhiều hết thì sao?


Tôi chưa nín. Vì nghĩ tới suối sầu bắt nguồn từ túp lều tranh bên gốc chuối tiêu chảy róc rách, róc rách qua hồn anh em tôi. Suối sầu này còn chảy mãi. Và còn chảy, nước mắt còn rơi, không lo khô cạn.


Sau đấy, cha tôi bị ám ảnh bởi chiếc áo ăn cắp ngoài chợ, trừ tôi, không ai rõ, cha tôi đau ốm liên miên. Tuy nhiên, cha tôi vẫn vẽ bao ước mộng. Anh em tôi mong ngày tháng lụn dần, sang năm chóng đến. Song sang năm chưa kịp đến với nhà ngói ở tỉnh, với búp bê, với tàu thủy, với xe đạp thì cha tôi nhuốm bệnh thương hàn. Tôi cố nghiến răng giữ kín chuyện nên khi cha tôi chết cha tôi vẫn tưởng sự bí mật theo cha xuống lòng mộ.


Cha tôi chết, mẹ con tôi nheo nhóc bơ vơ. Mẹ tôi năm tháng ngồi đan nỗi buồn ở bến đò Đồng Đức. Anh em tôi nhìn đám trẻ thành thị rồi vội vàng cúi gầm mặt qua sân nhà ông ngoại, làm rơi mất tuổi thơ.



DUYÊN ANH


trích từ Hoa Thiên Lý, 1963
trademark


Con Sáo Của Em Tôi


DUYÊN ANH




Sau khi cha tôi mất, gia đình càng ngày càng túng bấn, một mình mẹ tôi không đủ sức nuôi nấng hai đứa con mồ côi nơi thành thị nên mẹ đưa hai anh em tôi trở về làng cũ . Bên nội xóa bỏ tên cha tôi trong gia phả vì cha tôi xé tờ khai sinh mà ông tôi cố tình điền tên tuổi người vợ cả vào chỗ tên tuổi mẹ tôi . Ông tôi muốn gạt mẹ khỏi cuộc đời cha tôi bấy giờ và cuộc đời tôi mai hậu. Việc ấy rất giản dị như ông đã xóa bỏ tên chú Nghị vì chú mê cô đào cải lương gia nhập ban hát, lang thang rày đây mai đó. Bên ngoại từ bỏ mẹ tôi ngay từ dạo mẹ có mang ba tháng vì mẹ trốn nhà, vượt luật lệ cổ truyền, theo cha tôi làm vợ lẽ. Thành thử lớn lên anh em tôi mù mịt cả ý niệm gia tộc. Mẹ tôi thường kể rằng trước khi lấy mẹ tôi, cha tôi đã có vợ . Người vợ ấy cha tôi không yêu thương, nên bốn năm liền bà tôi cứ hoài công mong bế cháu. Ông tôi buồn phiền, thở dài thườn thượt, ông nghĩ đến nghiệp chướng xa xôi nào, lúc này sự quả báo hiện hình khiến dù con gái. Thật vô phúc. Cha tôi đi vắng luôn luôn, cha năng ở nhà ông phó Nhị hầu hạ ông để hòng ông truyền hết ngón đàn thập lục.


Cha tôi phải giặt quần áo, đấm bóp chân tay hay kiếm rượu, đồ nhắm cho ông Phó, phục dịch ông đủ điều. Rốt cuộc ông Phó vẫn giữ lại đôi ngón sở trường, ông sợ dạy hết, mai mốt cha tôi giỏi hơn ông. Bởi vậy, tài nghệ của cha tôi chưa nổi bật, và chưa đủ thời giờ nghiên cứu âm nhạc quê hương thì cha tôi đã gặp mẹ tôi. Cuộc tình duyên này làm đảo lộn đời cha và ảnh hưởng rất nhiều đến anh em tôi sau này .


Ông nội tôi biết chuyện tức sôi ruột, chửi bới cả gia đình nhà mẹ tôi. Tiếng dữ đồn tới xóm làng bên kia sông. Ông ngoại tôi đuổi mẹ tôi khỏi cửa. Bấy giờ mẹ tôi có mang tôi được ba tháng. Cha tôi lén lút gởi mẹ tôi nương náu nhờ người bà con xóm cuối thôn. Bà nội tôi thương con cả, lại nghe tin mẹ tôi có chửa nên bớt giận. Bà nội xin ông nội nhận mẹ tôi làm vợ lẽ cha tôi. Cuộc hôn nhân không giá thú. Việc tưởng vậy êm thắm. Ai ngờ ông ngoại tôi lồng lộn tìm bắt mẹ tôi, đánh đập mẹ tôi một trận tàn nhẫn. Tệ hơn nữa, ông ngoại tôi lại gọt hết tóc, bôi vôi trắng xóa đầu mẹ tôi rồi mới đoạn tình phụ tử. Mẹ tôi phải trùm khăn vuông kín mít ngót hai năm trời.


Mẹ về sống dưới gian nhà mái dột, vách bùn trát nham nhở bên cạnh chuồng trâu của đại gia đình họ Nguyễn nhà tôi. Suốt thời gian đèo bòng cái hình hài tôi, cái bọc đau khổ, mẹ tôi chịu đựng bao nhiêu điều tủi nhục. Hết người vợ cả hẹp hòi, ích kỷ của cha tôi hằn học ghen tuông, lại đến các cô tôi kiếm cớ sinh sự. Vợ cả cha tôi bảo mẹ tôi độn vải đầy bụng để đánh lừa ông tôi. Ông tôi nhiều bận chỉ mặt mẹ tôi dọa nạt rằng nếu đúng tháng mà không sinh nở thì sẽ tống cổ mẹ tôi đi. Chú Nghiêm thỉnh thoảng về thăm nhà cũng hạch sách mẹ tôi. Ông tôi quý chú Nghiêm lắm. Trong khi cha tôi mải đàn sáo, chú Nghị giang hồ phiêu bạt, chú khéo léo chiều ông tôi. Bởi thế chú Nghiêm được xuống tỉnh học, đỗ đạt giỏi giang. Chú khinh bỉ mẹ tôi, sự khinh bỉ chú học mót của đám dân trưởng giả thành phố. Mẹ tôi đau khổ trăm chiều, ngày làm quần quật như con vật, tối ôm bụng khóc một mình. Tội nghiệp mẹ tôi, tôi chả biết ví mẹ giống ai. Ðầy tớ nhà ông tôi còn sung sướng còn nói đùa nghịch, chứ mẹ tôi thì câm nín suốt ngày đêm. Cha tôi hy vọng mẹ tôi sinh con trai và đứa đầu lòng sẽ là nhịp cầu bắc qua những tâm hồn người bên nội với tâm hồn mẹ tôi. Chắc chắn mẹ tôi hết tủi cực.


Ðến ngày mẹ tôi trở dạ, ông tôi cất vội vàng túp lều nhỏ ở xó vườn, cạnh khóm chuối tiêu. Tôi cất tiếng khóc ban đầu nơi ấy, ở túp lều xó vườn, cạnh khóm chuối tiêu, cạnh những con người hà tiện tình thương mến. Vì đêm tôi mở mắt chào đời, cha tôi đi vắng nên cớ sự xảy ra như tôi đã nói đoạn đầu. Tuần lễ sau cha tôi về, cha nghiến răng xé nát tờ khai sinh rồi đưa mẹ con tôi xuống tỉnh lỵ. Tôi vĩnh biệt họ hàng bên nội bằng mấy tiếng "oe oe". Tôi lớn dần, lớn dần để thu vào tầm mắt non nớt hình ảnh cuộc đời cha tôi : hình ảnh gã nhạc công hậu trường sân khấu cải lương, hình ảnh ông lái thuốc bắc, hình ảnh ông thư ký sở tư, hình ảnh ông thợ chữa xe đạp và sau rốt là hình ảnh ông lang chế thuốc cao đơn hoàn tán. Mãi tới ngày cha tôi mất, tôi mới thù hằn những hình ảnh méo mó đọa đầy linh hồn cha tôi. Sao đời cha tôi nhiều hình ảnh thế? Và đời tôi nữa, hình ảnh thẫm nét nhất là một đêm mù mịt bên khóm chuối tiêu. Thế mà anh em tôi lại phải về quê ngoại. Tôi không hiểu tại sao mẹ tôi chịu nhục nhã, nương náu dưới túp nhà lá bỏ hoang vườn sau, trước đây ông bà ngoại dành riêng cho bọn thợ gặt mỗi vụ mùa. Mẹ tôi chỉ nghĩ đến anh em tôi. Trời ơi, tôi muốn khóc quá.


Ở đây, chúng tôi sống lủi thủi cô độc. Mẹ tôi dọn quán bán nước chè tươi, xôi chè, canh bún ngoài bến đò Ðồng Đức, bòn nhặt từng hào chỉ. Thường mẹ dậy sớm sửa soạn đồ hàng, cơm nước buổi sáng để anh em tôi ăn. Mẹ nắm thêm hai nắm nhỏ phòng trưa đói còn lót dạ tạm. Chập tối mẹ lần mò về nhóm bếp thổi cơm. Bữa nào hàng ế ẩm, mẹ con tôi ăn canh bún, ăn xôi chè thay cơm. Mẹ tôi luôn luôn vui vẻ dù thỉnh thoảng cậu mợ, dì bác tôi mỉa mai đủ điều. Họ nói những lời mà bây giờ tôi hãy còn nhớ. Tôi không thể tưởng tượng nỗi tê tái nghiến nát cõi lòng mẹ khi bà ngoại gọi mẹ là "đồ đĩ", bác tôi bảo mẹ là "con lăng loàn" và mợ tôi nói bâng quơ "cóc chết ba năm quay đầu về núi". Tôi thấy mẹ tôi cúi đầu lẳng lặng, nước mắt nhỏ giọt trên mái tóc em tôi, thì tôi đoán rằng mẹ buồn. Hồi ấy, tuy tôi bé bỏng nhưng tôi đã biết xét đoán những con mắt soi mói, những lời tiếng bấc chì, những bộ mặt ích kỷ của mọi người họ hàng bên ngoại. Tôi thương mẹ. Tôi thương em gái tôi hơn, chưa được hưởng sung sướng thì cha vội lìa đời. Tôi hằng mơ ước một mai khôn lớn, tôi sẽ kiếm tiền nuôi mẹ, sẽ tậu nhà ở tỉnh, mẹ tôi thôi bán hàng, em tôi cắp sách đi học. Nghĩ vậy tôi thèm đọc sách lắm. Khốn nỗi mẹ tôi nghèo cực, lấy tiền đâu mà mua. Tôi đành học ôn mớ sách cũ nát và dạy em tôi từng trang, từng đoạn dè sẻn, sợ hết chữ.


Ðám con cái cậu mợ tôi vào hùa cha mẹ chúng bắt nạt anh em tôi. Hễ em tôi hở ra món đồ chơi nào là chúng nó tìm cách ăn cắp. Tôi đòi, chúng xúm nhau đánh đập tôi sưng tím cả mặt mày. Em tôi khóc, mẹ tôi thở dài đau đớn. Dần dần cuộc sống quen nếp. Anh em tôi biết thân phận, bắt chước mẹ tôi, tập nhịn nhục, tập nghiến răng và hy vọng. Anh em tôi đùa nghịch với nhau, chẳng dám lai vãng đến thềm nhà ông bà ngoại.


Tôi hay bắt dế, bắt chuồn chuồn, bắt công cống cho em tôi chơi. Bạn bè của chúng tôi có chừng chỉ có con chim chích chòe sáng nào cũng đậu trên cành soan ca hát líu lo rồi tung cánh bay xa tìm mồi. Em tôi thích chim. Tôi vụng về, không trèo cao được. Tôi hẹn sẽ bắt tặng em tôi một con sáo khi mùa xuân sang.


Mùa xuân, hoa soan vườn nhà nở nhiều, mầu tím dịu mắt. Mẹ tôi nói hoa soan nở chỉ tổ đuổi muỗi mệt xác. Cùng lượt hoa soan khoe sắc, sáo trên rừng đổ xô xuống đồng bằng hàng đám, cơ man. Em tôi nhìn những con sáo đen, lông muôn muốt, viền mắt vàng vàng, ra chiều thèm ước. Tôi theo bọn trẻ con bến đò, lấy rổ rách, vất cạp rồi buộc lại tựa hình cái đó đơm tép. Xong, tôi bó manh chiếu bên ngoài bịt chặt một đầu, còn đầu kia để ngỏ cho sáo ra vào. Tôi buộc tổ sáo trên cành sung thấp nhất. Hai hôm sau vợ chồng nhà sáo bắt đầu tha rác về tổ của anh em tôi. Chúng tôi hoan hỉ đợi chờ. Em tôi chưa chi đã vội lo cái lồng nhốt con sáo. Tôi bảo em tôi phải mong ba tháng. Em tôi sốt ruột. Ngày nào cũng hỏi thăm sáo. Mẹ mắng em, em dỗi bỏ cơm. Tôi dỗ dành em mới chịu ăn.


Ít lâu sau tôi trèo lên thăm tổ. Tôi thò tay tận phía trong và biết sáo đẻ bốn trứng. Tôi lôi ra xem. Trứng sáo to bằng ngón tay cái của tôi, màu xanh xanh vân vân đẹp quá. Tôi kể chuyện em nghe. Em nhẩy reo ầm ỹ. Mẹ tôi dọa rằng :

- Rắn ưa tìm tổ chim ăn trứng. Con liệu hồn, nó cắn thì chết.


Tôi phát run, thề sẽ chừa thói liều lĩnh nguy hiểm. Nhưng em tôi muốn coi trứng sáo, em cứ nằn nì đem xuống một trứng. Tôi đành mạo hiểm lần nữa. Lúc tôi đang lúi húi trước cửa sổ thì vợ chồng đôi sáo bay về. Chúng nó lượn trên đầu tôi, kêu inh ỏi. Tôi bỏ trứng vào túi áo, tụt xuống, sướt cả tay, máu chảy đầm đìa. Em tôi thỏa mãn sự tò mò, em trông tôi, thương hại. Tôi an ủi em và trả lại trứng cho sáo.




trademark



Tối hôm ấy mẹ tôi đánh tôi hai roi tội không vâng lời. Mẹ nói :

- Còn trèo nữa, sáo sẽ bỏ tổ.

Anh em tôi lo ngại ngủ chẳng ngon giấc. Ngày tháng mùa xuân trôi vùn vụt. Một buổi sáng anh em tôi nghe rõ tiếng sáo con kêu trong tổ, em tôi hỏi :

- Anh ơi! Sáo con có bú mẹ không?

Tôi vuốt tóc em dịu dàng trả lời :

- Em bú mẹ chứ sáo nào bú mẹ

Em ngây thơ :

- Thế làm sao nó lớn được?

- À sáo mẹ mớm mồi.

- Sáo bố làm gì hở anh?

- Sáo bố đứng canh. Em nhìn thì biết. Kia kìa, trên cành cây gần tổ. Khi sáo mẹ mớm mồi cho các con, cũng như khi ấp trứng, sáo bố bao giờ cũng lởn vởn ngoài tổ em ạ!


Tôi giảng nghĩa thế vì tôi nghe lỏm bọn trẻ con ngoài bến đò. Em tôi ngạc nhiên, ngây người đứng ngắm. Lát lâu em mỉm cười nũng nịu :

- Sáo con ngủ, sáo mẹ có ru không anh?

- Chắc có.

- Anh biết à?

- Thì anh đoán, chim cũng như người vậy em ạ!

- Mẹ ru em bằng bài "Con cò mà đi ăn đêm", sáo ru con bằng bài gì hở anh?

- Anh chịu, chả biết được.

- Giá sáo là người để em hỏi nó chắc thích lắm anh nhỉ?

- Ừ.


Ðám con cái ngỗ nghịch của cậu mợ tôi đã thấy chỗ tôi buộc tổ sáo. Tôi tức sôi ruột, tức muốn đốt nhà chúng nó. Chúng nó rình mò làm tôi không thể ra bến đò trông hàng giùm mẹ tôi những lúc đông khách. Anh em tôi thay phiên nhau canh gác. Mẹ tôi khuyên tôi nên chia sáo cho chúng nó. Tôi miễn cưỡng phải rỡ tổ đáng lẽ chờ vài hôm nữa sáo con già dặn hơn. Hôm tôi bắt sáo con, vợ chồng sáo bay lượn kêu thảm não. Sáo mẹ sà xuống sát đâu tôi như thể nó sắp mổ mắt tôi. Chẳng trách cha tôi xé tờ khai sinh, mẹ tôi chịu vất vả, khổ sở. Mẹ tôi mua giỏ bắt cua để tôi nhốt sáo. Cậu mợ tôi chọn lựa ba con đẹp, lớn; phần tôi là con sáo đẹt, bé nhỏ, xấu xí nhất đàn. Tôi buồn, khóc mấy đêm ròng. Làm sao tôi nhớ hết mọi chi tiết vụn vặt cái hôm ông cậu bà mợ tôi chia sáo? Cậu tôi bóp con sáo xấu số của tôi khiến cho nó há mỏ ra. Em tôi run rây chỉ sợ nó chết. Mợ tôi bảo :

- Bọn mày nuôi sáo làm quái gì, cơm còn không đủ ăn lại có cơm thừa nuôi sáo.

Tôi cáu tiết cãi lại :

- Sáo ăn cào cào chứ cần gì cơm gạo.

Cậu tôi chẳng nể nang gì mẹ tôi cả, cậu chúi đầu tôi một cái thật mạnh. Tôi lao đao xuýt ngã. Cậu mắng mỏ :

- Ðồ chết cha, đồ con hoang có khác. Anh em mày lớn lên thì thành đồ ăn cắp!


Tôi nín lặng, em tôi chạy vào ôm lấy mẹ. Và cả tôi cũng lủi thủi cầm con sáo vừa đi vừa khóc. Tiếng khóc của em tôi, em tôi rõ ràng hơn. Mẹ tôi thương anh em tôi, mẹ bỏ bán hàng nửa buổi đan cái làn mắt thưa. Mẹ bảo nhốt sáo vào đấy rồi treo lên cây, sáo mẹ luyến con sẽ mớm mồi, như vậy sáo chóng lớn.


Tôi nghe mẹ. Quả con sáo của anh em tôi được sáo mẹ chăm lo chu đáo. Ðám con cái của cậu mợ tôi ghen ghét. Chúng nó chăm chăm đòi bắn đôi sáo già. Tôi chỉ ngại nhỡ chúng bắn sáo của tôi. Bọn ranh con mất dạy, ích kỷ bắn súng cao su không trúng, chúng nó nhờ người thổi ống xì đồng. Buổi sáng hôm cái gã mắt chột rình rập ngoài vườn, anh em tôi lo cuống quýt. Em tôi nhìn sâu chim đủ loại : chào mào, chích chòe, liếu tiếu lủng lẳng trên vai hắn, em nói nhỏ :

- Khéo nó bắn chết sáo mất anh ạ!

Tôi run run trả lời em :

- Ðừng sợ em ơi! Mắt nó chột bắn chả tin đâu.

Nhưng đôi sáo già đi kiếm mồi đã về. Tim anh em tôi đập mạnh. Tôi rõi mắt lên cành sung chờ đợi. Sáo bố đậu cách cái làn khá xa, sáo mẹ mon men lại gần mớm mồi. Trong lúc đó, viên đạn đất oan nghiệt từ ống xì đồng thổi phụt ra. Sáo bố trúng đạn rơi xuống ao. Em tôi giật nẩy mình kêu lớn :

- Chết em rồi!

Tôi cảm thấy như viên đạn trúng đầu tôi. Con sáo bố đã chết. Sáo mẹ bay lượn, rỉa rói ai oán hàng giờ. Em tôi ứa nước mắt :

- Sáo của anh em mình mất bố rồi nó sẽ khổ lắm anh nhỉ?


Câu nói khiến lòng tôi se lại. Tôi nhớ cha tôi. Phải chi cha tôi còn sống thì anh em tôi đâu khổ sở thế này. Sáo mẹ thỉnh thoảng bay tới, nó chỉ dám sà vội qua cái làn, có khi sáo con chưa kịp há mỏ, mồi đã rơi mất. Sáo mẹ sợ sệt tất cả. Tôi chạnh nghĩ đến mẹ tôi mà buồn vời vợi.


Em tôi lo cho sáo con, đòi mang xuống. Từ đấy sáo mẹ không trở lại nữa. Có lẽ nó đã chết vì cô độc hay đã về rừng. Chúng tôi nuôi sáo bằng chuối. Dần dần sáo lớn, tôi ra đồng đập cào cào lấy mồi nuôi sáo. Tội nghiệp sáo con côi cút, đêm ngày âm thầm chui rúc trong cái giỏ cua. Em tôi đang phân vân không hiểu mai kia sáo lớn nhốt vào đâu. Ước gì có cái lồng tre, chúng tôi mơ ước song mẹ tôi không thừa tiền chiều chuộng con.


Giữa lúc đó thì chú Nghị đến thăm mẹ tôi. Họ hàng bên nội nhà tôi chỉ chú Nghị là kẻ có lòng. Bao nhiêu năm tháng qua rồi, từ ngày tôi sinh ra đời tới bây giờ, chú luôn luôn an ủi, giúp đỡ mẹ tôi. Tuy chú nghèo, tôi thường nghĩ giang hồ phiêu bạt như chú, giầu sao được. Chú Nghị tốt lắm, chú bênh vực mẹ tôi thuở mẹ tôi bị cả gia đình chồng xúm vào cấu xé, đay nghiến chỉ vì mẹ tôi thương yêu cha tôi quá đến nỗi mẹ bằng lòng lấy cha tôi không cần giá thú. Hôm đưa xác cha tôi tới nghĩa địa, tôi thấy chú khóc nức nở khi những tảng đất phủ kín dần chiếc quan tài bằng gỗ mộc. Tôi còn đủ trí nhớ để hình dung ra bộ mặt khắc khổ phong sương của chú Nghị. Và hình dung ra thì tôi lại ghét cay đắng ông bà nội, các cô các chú tôi, nhất là người vợ cả ích kỷ của cha tôi.


Dạo cha tôi ở Hà - nội, ban tuồng chú Nghị sau nhiều chuyến lang thang dọc đường gió bụi, trở về trình diễn tại thành phố này. Chú dành ghế cho cha mẹ tôi xem tuồng liên miên. Mỗi buổi tan hát, chú dẫn đi ăn mì. Khi rảnh rang, chú dắt tôi tới vườn Bách - thú xem xiếc hoặc dạo mát loanh quanh trong công viên rồi ra ngồi ăn bánh tôm trên đường Cổ - ngư bên hồn Trúc - bạch. Mỗi phố tôi qua, chú dạy tôi cách trông chừng hai đường xe cộ lưu thông. Vì chú cháu tôi hay thơ thẩn buổi sáng, chú bảo tôi thở hít mạnh, chú giữ lưng tôi ngay thẳng tựa người lính tập đứng nghiêm. Tôi yếu đuối, chắc chắn sự yếu đuối ảnh hưởng phần nào những ngày mẹ tôi mang thai tôi, tâm hồn mẹ bị dằn vặt, thôi thúc thời gian đó. Chú kể cho tôi nghe truyện anh hùng Nguyễn- Huệ, Lê - Lợi, Lý - Thường - Kiệt, câu kết luận của chú bao giờ cũng hàm đầy ý khuyến khích :

- Cháu gắng lên, mai mốt cháu sẽ giỏi, cháu sẽ hãnh diện làm con của cha mẹ cháu.


Tôi không nghe chú nói tới quãng đời luân lạc chìm nổi của một kép hát. Sau này vợ chú bỏ chú lấy người khác, chú nghiện rượu và thù hằn tất cả. Tôi không biết tại sao chú hay giấu diếm sự uẩn ức mà đáng lẽ nói được thì chú bớt giận dữ kẻ khác trên đời. Nhưng, ngay trong những cơn điên tàn bạo, chú tôi rất hiền hòa với mẹ con tôi. Tôi nhớ dạo gia đình tôi sống ở ngoại ô Khâm - thiên, nhà tôi phải đi qua cái ngõ hẹp bẩn thỉu. Một buổi tối, tôi đang cắm cổ bước, vì tôi sợ ma, thình lình chú Nghị nấp sau đám giậu kêu "ú a ú ớ" cơ hồ tiếng ma quỷ giận hờn rồi xô ra chắn lối. Chú muốn dọa tôi nên chú chơi thế. Song lúc ấy tôi không thèm hiểu. Trong khoảnh khắc, đầu óc tôi tràn ngập sợ hãi, khích động. Tôi cáu tiết đá chú nột cái thật mạnh. Tôi mới lên mười nhưng tôi mang giầy, trong cơn tức giận tôi đá mạnh kinh khủng và cái đá làm sước ống chân chú Nghị. Máu chảy ròng ròng, chú đau đớn, rên nhè nhẹ rồi ngẩng lên mỉm cười. Chú ôm tôi xin lỗi. Tôi khóc thương chú khiến chú rớt nước mắt. Chú Nghị mang vết sẹo trên da tháng năm nối tiếp. Thỉnh thoảng vui vẻ, chú kéo ống quần khoe vết sẹo. Anh em tôi lại sà vào lòng chú nũng nịu.

trademark



Ngày mẹ tôi dìu anh em tôi về quê ngoại, chú phiêu bạt mãi tận Sài - gòn. Thành thử chúng tôi trống rỗng buồn tẻ. Không ai bênh vực an ủi anh em tôi. Nay tự nhiên chú Nghị đến, hỏi chi anh em tôi không vui mừng sung sướng. Bên ngoại vẫn thù bên nội vì ngày mẹ tôi trốn nhà theo cha, ông nội cứ gọi tên ông ngoại chửi bới, trách móc. Lúc này chú Nghị có mặt ở đây, tôi thấy chú nhét bông đầy tai và đeo kính râm suốt ngày. Chú mua cho tôi vô số sách đẹp. Chú dạy anh em tôi học. Tôi thích chú Nghị nói chuyện lịch sử. Em tôi thì bận tâm về con sáo nhỏ. Em khóc khi chú dạy tôi toán pháp. Chú hỏi em tại sao, em bảo ước gì có cái lồng như bọn anh chị em con cậu con bác tôi. Chú Nghị vuốt tóc em, chú tháo cặp kính, mắt chú đỏ ngầu, chú thẫn thờ giây lát rồi ghé tai em tôi thầm thì. Em tôi nhảy lên reo múa. Mấy hôm sau, chú bỏ việc dạy học, ngồi cặm cụi vót tre đan lồng. Ba bốn ngày liền chú mới đang xong. Cái lồng sáo của em tôi đẹp chả thua gì lồng bán ngoài bến đò. Chú làm chiếc thang ngang lấy chỗ cho sáo đậu, chú buộc cóng đựng nước và cóng chưa có gạo, nước. Con sáo được nuôi trong lồng là ngày chú bỏ ra đi. Mẹ tôi giữ thế nào cũng chẳng nổi. Tôi hết hy vọng học chú. Hôm chú mới đến, chú hứa chú ở lâu, chú nói dối anh em tôi. Chú Nghị ra đi, ít tháng sau được tin chú chết, mẹ con tôi buồn não nuột. Từ đó, sớm chiều anh em tôi đành tâm sự với con sáo.


Tôi ra đồng đập cào cào, châu chấu làm mồi cho sáo ăn. Em tôi thích đút chuối cho sáo. Em cắn miếng chuối nhỏ, xâu vào đầu cây tăm. Em thổi sáo miệng, chú sáo đói kêu "khách khách" trả lời rồi há mỏ ra đợi em tôi mớm ăn. Em còn cho sáo ăn thịt nữa. Những buổi trời ấm áp, em tôi tắm sáo, rửa lồng. Nhìn sáo phơi mình dưới ánh nắng, mắt em tôi bừng lên những tia sung sướng, hy vọng. Em hay thả sáo tự do nhởn nhơ khỏi lồng. Em đi trước, sáo theo sau tựa hồ đôi bạn côi cút thương yêu nhau. Con sáo của em khôn lắm, nó thường "làm nũng" em lúc em cho nó ăn. Nó nhảy lên cánh tay em rồi bậy trắng lòe áo. Em thích ôm sáo trong lòng đôi bàn tay hoặc để nó đậu trên vai rất âu yếm. Bữa nào sáo ăn ít, em sợ sáo ốm, sáo chết, em buồn có khi em khóc. Nhiều đêm trời mưa bão, em ngủ không yên, thức giấc là hỏi chuyện sáo.


Ngày tháng trôi qua, con sáo của em tôi thay hình đổi dạng. Bộ lông đen mượt, nó nhẩy nhót luôn chân. Nó đã biết mổ gạo. Như thế anh em tôi khỏ cần lo cào cào, châu chấu, chuối, thịt nữa. Mẹ tôi bảo bóc lưỡi sáo vài lần thì nó mới nói được. Em tôi sợ sáo đau nên ngần ngừ. Nghe ai mách rằng cho sáo uống nước cua kẻo nó "sốt rét", em tôi định làm, song mẹ tôi mắng :

- Sáo đẻ ở đồng bằng thì ngã nước cái gì, chỉ vẽ chuyện.


Thế rồi anh em tôi cũng phải nhờ mẹ tôi bóc lưỡi sáo. Con sáo xấu xí út ít không ngờ đẹp quá. Bọn trẻ gạ gẫm mua, anh em tôi từ chối. Chúng nó tức giận bèn mang con mèo già hung ác tới dọa nạt. Anh em tôi thay phiên gác sáo.


Bây giờ con sáo tập hót. Mắt nó còn viền vàng xinh đáo để. Thỉnh thoảng vắng người nó líu lo đôi tiếng. Hễ có người thì nó câm tiếng. Em tôi cho rằng nó xấu hổ. Một buổi trưa anh em tôi đang thiu thiu ngủ bỗng nghe con sáo kêu hoảng hốt. Em tôi vùng dậy, thấy ở thềm nhà gã mèo hung ác đứng gầm gừ nhìn lên. Em vác guốc ném trúng mèo, nó co đuôi chạy mất. Chúng tôi lo sợ. Mẹ tôi bắt mang lồng sáo ra ngoài hàng, tối mang về.


Khách hàng ghé quán mẹ tôi, họ dạy anh em tôi cách tập sáo nói. Họ bóc hộ lưỡi rồi họ che kín mít lồng. Quả nhiên sáo không nhìn rõ ai, hót líu lo. Giọng nó trong vắt mà buồn làm sao. Trưa hè ở bến đò vắng vẻ, tiếng nó gợi cho anh em tôi bao nỗi nhớ nhung thương tiếc. Tôi lại nhớ chú Nghị, nhớ cha tôi. Dần dần em tôi dạy nó nói. Bài học vỡ lòng để sáo nói tiếng người là :

- "Sáo dạ, sáo dạ, nhà có khách".

Em tôi kiên nhẫn dạy sáo, mãi rồi con sáo côi cút của em tôi nói được. Em ngây thơ lắm, em dạy cả sáo hát, dạy nói những lời hết sức tha thiết :

-"Sáo nhớ mẹ, sáo khóc ".


Con sáo dường như hiểu nỗi lòng của em tôi nên cố gắng. Khi em hát, sáo hót và nói "Sáo nhớ mẹ..." Càng ngày sáo hót càng hay. Thấy là lạ, ông ngoại tôi xuống chơi nhà tôi nghe sáo nói. Việc này quá sự tưởng tượng của mẹ tôi. Từ ngày gia đình tôi về nương náu ở đây có khi nào ông ngoại tôi thèm thăm hỏi. Ông thích con sáo, ông đòi mượn. Em tôi lăn ra khóc từ chối. Sau hôm ấy, ông ngoại ghét anh em tôi hơn.


Ở bến đò, vô khối người muốn mua sáo, họ trả một trăm đồng nhưng em không bán. Mẹ tôi khuyên em nên bán vì trăm bạc sẽ may được cho hai anh em tôi mỗi đứa hai bộ quần áo diện tết. Em tôi không cần quần áo, nếu mẹ bán sáo thì em tôi sẽ nhịn đói đến chết. Cuối cùng mẹ chiều em. Anh em tôi có con sáo nên bớt cô độc. Trẻ con hàng xóm năng lui tới nhà tôi trừ bọn anh em họ độc ác của tôi. Trong quãng đời thơ ấu buồi tủi, anh em tôi thèm thuồng đủ thứ. May mắn mẹ đưa anh em tôi về quê chứ ở lại Hà - nội thì anh em tôi còn khổ sở dường nào. Ðiều chắc chắn là em tôi không có con sáo để trút nỗi niềm. Em tôi ưa ngồi một mình nói chuyện với sáo. Em tôi kể nỗi hiu quạnh của em làm như sáo hiểu nổi. Em hỏi sáo :

- Mất bố mẹ sáo có khổ không?

Rồi em nói tiếp :

- Khổ ư? tội nghiệp nhỉ , bé bỏng thì chỉ bị bắt nạt thôi sáo ạ! Sáo đừng khóc nhé! À sáo ăn no chóng lớn, chớ bỏ bữa, gầy còm rồi chết thì tôi buồn đấy sáo ạ! Chả ai chơi thân với người nghèo như mình đâu.

Con sáo đôi khi vô tình buột miệng :

- "Sáo nhớ mẹ sáo khóc"

Em tôi dỗ dành :

- Ừ, sáo nhớ mẹ, tôi cũng nhớ cha. Sáo khóc à, thì khóc đi...


Tôi nằm nghe, nước mắt trào ra cay đắng. Dạo ấy tôi mới chỉ mười ba tuổi, em tôi tám tuổi. Nhưng tôi sớm tiếp nhận nỗi u sầu vào tâm hồn. Và bao nỗi niềm tủi nhục thay phiên hất hủi mẹ con tôi nên tôi đã khôn ngoan, đã biết khinh bỉ họ hàng bên nội bên ngoại trừ chú Nghị.


Cuộc đời đọa đầy tôi ngay ở cái tuổi đáng được hưởng hạnh phúc, sung sướng. Thành ra nếu có ai nghi ngờ, tôi vẫn nói rằng suốt thời thơ ấu của tôi, tôi không biết trông trăng trông sao, không biết bẻ hoa bắt bướm mà chỉ biết be bờ ruộng đơm đó kiếm tép để ăn, ăn thừa thì mẹ tôi đem ra bến đò bán. Cùng tuổi tôi, đám con cái của cậu mợ tôi còn vòi vĩnh cha mẹ, ngu ngơ chả hiểu gì. Thế mà tôi hiểu cách rang cám cho thơm, cắt màn cũ khâu thành vó, vót tre thành giọng, cất vó tôm. Tôi hiểu cách cưa ống nứa, đan hom đào giun xào với lá bòng thả ống lươn. Tôi hiểu cách đan rọ cá rô, ngâm thóc vào nước gạo cho thối nhử đàn cá. Tôi hiểu nhiều lắm, hiểu cả những lời bóng gió, mỉa mai của thiên hạ để sau này bước xuống cuộc đời đem tâm sự của một con chim hụt mũi tên.


Mẹ tôi ví tôi như trái chín rấm. Tôi tưởng tôi là trái chín hoang. Vì trừ trái chín cây không thèm kể đến, trái chín rấm còn được người ta xếp vào lò hay bỏ vào vựa, vào chum, người ta nhét vào đầy lá soan cho mau chín chứ đời tôi, đời anh em tôi nhất định là hai trái chín hoang. Ngày nào đó, người ta thấy hai trái xanh quá, xấu xí quá, người ta ném vô bụi giậu. Mưa, nắng, gió bão tới tấp, chịu đựng nổi thì trái chín. Tôi biết tôi chịu đựng nổi bởi vì ngoài họ hàng bên nội bên ngoại còn mẹ tôi, còn chú Nghị. Ngoài đám con cái cậu mợ tôi hay bắt nạt, hếp đáp anh em tôi còn bọn trẻ con ở bến đò Ðồng - đức dạy tôi buộc tổ sáo... Và mai mốt tôi sẽ chín, chín chẳng để trả thù ai đâu, nhưng chín để kể lại chuỗi ngày tháng anh em tôi nuôi con sáo.


Con sáo là niềm an ủi duy nhất, là niều kiêu hãnh duy nhất của anh em tôi. Trong khi chung quanh tôi, trẻ con nhà giầu nuôi sáo bằng lồng son, cóng sứ, thức ăn thì gạo trộn lòng đỏ trứng gà, nước uống thì pha sôm nhị hồng, sáo của chúng nó vẫn chết. Anh em tôi nuôi sáo chỉ có gạo trắng, nước lã, lồng tre mà sáo hót lại hót hay, sáo nói lại nói giỏi. Tưởng con sáo cũng nên kiêu hãnh. Với tình thương mến của anh em tôi, với cái lồng do chú Nghị đan, nó đã thành con sáo quý khác cả những sáo quý nhất trên đời.


Tính ra anh em tôi nuôi sáo đã lâu. Năm ngoái mẹ tôi buôn bán phát tài, tết nhất cũng đủ bánh trái, thịt ăn mấy ngày. Anh em tôi mỗi đứa có bộ quần áo mới , có tiền xu, tiền hào chơi đáo, chơi cò quay, có tranh con lợn treo tường, có long đình, tượng bụt chơi làm đình làm chùa. Giá nghe mẹ bán con sáo thì tiếc chừng nào. Năm nay hàng quán ế ẩm. Suốt mùa đông mưa lê thê, bến đò vắng khách. Mẹ tôi lại đau yếu luôn luôn, phải nghỉ ở nhà. Con sáo cùng chung nỗi buồn, biếng ca hót lười bay nhảy, nó quên cả lải nhải mấy câu nói em tôi dạy thuộc lòng.


trademark



Trời cuối tháng chạp mưa phùn rả rích. Gió bấc thổi vù vù. Rét thấu xương. Anh em tôi co ro trong ổ rơm, lồng sáo đặt bên cạnh. Mẹ tôi lại sốt từ hôm ông Táo lên chầu trời. Ba hôm nữa tết rồi mà mẹ vẫn nằm rên rỉ. Tôi lo ngại quá, tâm hồn thờ thẫn.


Em tôi sốt ruột vì trời mưa. Nhà chỉ còn gạo, mẹ tôi chưa sắm sửa đồ cúng. Gà vịt cũng chưa mua. Cho đến tối ba mươi, mẹ tôi lên cơn sốt nặng. Mẹ tôi rên hừ hừ. Ðắp hai cái chăn, hai cái chiếu, mẹ vẫn còn rét. Anh em tôi ôm nhau khóc thút thít. Em hỏi những câu quái gở khiến tôi rùng mình.

- Anh ơi! liệu mẹ có chết không?

- Không, mẹ phải sống nuôi anh em mình thành người chứ.

- Sao mãi mẹ chả khỏi gì cả?

- Tại trời mưa lạnh, tạnh nắng là mẹ khỏi, em đừng lo.


Tôi nói dối em tôi tại mưa lạnh, thực ra mẹ tôi chẳng uống thuốc men gì cả. Con nhà nghèo, ốm no bò dạy. Tôi thường bị sổ mũi, ho mà có cần mời thầy lang đâu. Nằm vài bữa, trở dậy lại khỏe như cũ. Tôi tin thế nên đỡ lo.

- Dạo cha còn sống mẹ có ốm nặng không anh?

- Anh chả nhớ rõ.

Trưa nay, em ngủ nằm mơ thấy cha, em nhớ cha quá, ước gì cha sống lại...


Em tôi khóc to hơn. Tôi ôm em vào lòng, thương mến. Bên ngoài trời còn mưa lai rai. Ðêm cuối năm mù mịt. Anh em tôi lo lắng không dám ngủ. Lúc mẹ tung chăn chiếu, anh em tôi nhảy bổ vào ôm mẹ. Hơi nóng và mồi hôi sau cơn sốt thoát ra sưởi ấm anh em tôi giữa đêm trừ tịch. Mẹ tôi vuốt tóc em.

- Mai, ngủ thôi chứ con, mai dậy sớm mẹ mừng tuổi tiền mua pháo tép.

Em tôi nũng nịu :

- Con mua pháo ống lệnh cơ!

- Ừ thì mua pháo ống lệnh.

- Mới lại cái gương cho con sáo nó soi.

- Gớm cô ả vòi vĩnh mãi.


Mẹ tôi chiều con, mẹ nói hơi nhiều, giọng mẹ mệt nhọc. Tôi định hỏi mẹ cái gì, nhưng thương mẹ lại nghĩ không ra. Anh em tôi tắt đèn đi ngủ.


Sáng mồng một tôi dậy sớm. Em tôi ngủ mê mệt, tôi đắp thêm chiếu cho em ấm áp ngủ lâu. Mẹ tôi hình như đã đỡ. Mẹ nhìn em tôi, lắc đầu ái ngại. Dưới ngọn đèn lù mù, tôi thấy nước mắt mẹ tôi lăn tăn trên gò má xanh xao, khắc khổ. Mẹ tôi nói nhỏ :

- Hữu này, mẹ dặn con nghe nhé! Hôm nay đừng lởn vởn ngoài ngõ, đừng lấy tiền của ai cho.

Mẹ tôi dặn tôi bằng thừa. Cậu mợ tôi dạy tôi nhiều bài học độc ác, giả đạo đức quá rồi, tôi thèm thuồng gì mà ngửa tay ra để người ta nhổ bọt vào. Nhưng tôi phải đáp :

- Vâng ạ!

Giọng mẹ tôi đứt từng câu ngắn :

- Tại mẹ ốm... thành thử... tết này nhà mình... thiếu cỗ. Con nhớ... thắp hương... bàn thờ cha con nhé! Con lớn rồi, chả cần, chứ em con, ngày tết... không được miếng thịt...


Mẹ tôi bỏ lửng câu nói, ôm mặt khóc tấm tức. Tôi bỏ ra ngoài sân. Trời lạnh hẳn. Phía nhà trên, gia đình ông ngoại đang giết gà, vo gạo, thổi xôi... Chiều qua nhà ông mổ lợn. Tôi muốn lên chầu chực để may ra ông thương hại thí cho một miếng về ăn tết. Song tôi nhớ tới chú Nghị, tới những bài học làm người chú dạy tôi nên tôi lại thôi. Dường như hồi chú ghé đây để đan cái lồng sáo, chú nhìn tôi rồi gật gù, bao giờ chú cùng gật gù sau buổi dạy học :

- Cháu thông minh lắm, cháu giỏi lắm.

- Nhưng mẹ cháu nghèo.

- Hề gì, đói rách đâu phải là tội lỗi, cháu đừng buồn. Rồi ngày kia cháu sẽ lẻ loi, cháu sẽ thấy trong sự đau khổ người ta mới xét đoán mọi việc đứng đắn.

- Rồi cháu có sung sướng không chú?

- Chú không dám nói cháu sung sướng nhưng chú quả quyết cháu có tài, có nhiều tài...

- Thật hả chú?

- Thật chứ, song cháu chả nên quy lụy ai , quy lụy nó hèn con người đi thì rồi cái tài cũng đến xếp xó.


Chú ưa kể chuyện cha tôi và ngón sở trường âm nhạc : đàn thập lục. Chú bảo ngày ông nội đuổi cha tôi khỏi nhà, cha tôi không có đồng xu nào dính túi. Thế mà cha tôi gây dựng nổi đời cha. Tại cha tôi chết sớm chứ không thể nào cũng có ngày cha về làng mua đất dựng nhà. Tôi kém cha tôi nhiều quá, tôi chỉ biết khóc.


Lúc này đứng nhìn thiên hạ đón xuân, tôi nghĩ đến em gái tôi, nghĩ đến miếng thịt gà, thịt lợn hay thịt chim khi em tôi tỉnh dậy. Anh em tôi chỉ có mỗi con sáo. Con sáo nuôi bao nhiêu ngày mới biết nói. Chẳng lẽ tôi giết nó? Chẳng lẽ em tôi ăn cơm với muối ngày đầu năm? Năm nay em tôi mười tuổi, mười mùa xuân bay vụt qua, mười mùa xuân tẻ nhạt, buồn thảm chấp nối thành thời thơ ấu của em tôi. Mùa xuân trôi theo kỷ nhiệm, có khi nào níu lại được? Tôi không muốn em tôi lớn lên phải nghẹn ngào nhắc tới một trang chua chát, xiên lệch trong cuộc đời. Vậy thì tôi sẽ giết con sáo. Tôi nghĩ tôi biết buộc tổ, biết nuôi sáo, nuôi bằng cái lồng của chú Nghị thì sáo nào chẳng biết nói, biết hót. Dẫu con sáo này chết, tháng sau tôi buộc tổ sáo khác. Mùa xuân tàn rất nhanh, tôi có đàn sáo mới, tôi nuôi một đôi để chúng quyến luyến nhau cơ hồ anh em tôi, chắc em tôi sung sướng lắm. Ý tưởng ấy khiến tôi bớt se sắt, bớt tủi nhục. Tôi len lén trở vào xách cái lồng sáo xuống bếp. Trời còn tối, sáo không nhận ra tôi. Nếu nó chết thì nó oán hờn sự nghèo khổ và bàn tay tàn ác nào đó. Vong hồn cha tôi sẽ phù hộ tôi. Giết nó, tôi đau đớn vô ngần nhưng tôi phải thương em tôi hơn. Em tôi phải được ăn thịt sáo nấu su hào ngày mồng một tháng giêng năm mới. Chỉ vì em, tôi quên tất cả.


Tôi mở cửa lồng thò tay tìm con sáo. Nó nhảy trốn, móng chân nó cào vào tay tôi đau buốt. Cuối cùng tôi tóm nó. Nó kêu ai oán, từ xưa nó chưa từng kêu như thế. Nó giẫy giụa. Tôi vặn cổ nó chết tươi. Làm xong công việc tàn nhẫn đó, tôi nhóm lửa nấu nước làm lông. Tôi run run chặt dao trúng ngón tay. Máu tôi hòa cùng máu con sáo.


Tôi xào thịt với hành mỡ thơm lừng rồi đổ nước đun thật lâu. Trong khi chờ đợi, tôi gọt su hào.


Lúc ở bếp bước ra, trời hừng sáng. Tôi đem lông sáo và cái lồng giấu phía sau nhà. Tôi ngồi bệt xuống đất, ôm mặt khóc. Pháo nổ vang trời đất, chuông trống khua inh ỏi. Lòng tôi sôi bùng bùng, tan nát. Tôi nhớ chú Nghị, tôi nhớ cha tôi. Những người thân yêu có thể che chở cuộc đời mẹ con tôi đều bỏ đi cả. Bây giờ mùa xuân về, mẹ con tôi cô độc, nghèo nàn. Tôi đâu đớn trút nỗi buồn vào hai bàn tay non nớt, bóp bẹp cái lồng sáo. Niềm vui thơ ấu của anh em phần bị chết chóc, phần bị dúm dó, gẫy vụn. Tôi cứ ngồi tưởng tiếc. Mãi khi nghe tiếng mẹ gọi , tôi mới trở vào.

Mẹ tôi hỏi :

- Tại sao con khóc?

Tôi đưa vạt áo thấm nước mắt, trả lời :

- Thưa mẹ khói làm con cay mắt đấy ạ!


Rồi tôi mỉm cười, nhưng nụ cười gượng gạo ấy giấu sao nổi một tâm tư đang cuồn cuộn muôn vàn ý nghĩ. Tôi nghe tiếng mẹ thở dài. Tôi đánh thức em tôi dạy. Mẹ tôi mừng tuổi cho mỗi đứa hai đồng. Tôi tặng cả em. Em tôi sung sướng nhận ngay không hỏi lôi thôi như những ngày thường. Gió xuân vừa tạt qua đôi má thơ ngây của em. Tôi nói :

- Mai, đi rửa mặt rồi vào ăn cỗ em!

Em reo to :

- Có cỗ hở anh?

- Ừ, cỗ to lắm.

- Anh cúng cha chưa?

- Ðã.

Tôi nói dối em chứ ai lại cúng cha bằng thịt sáo. Em tôi chưa biết gì cả. Khi ngồi ăn, em mơ màng chuyện đâu đâu. Em khen thịt ngon. Bất chợt em hỏi tôi :

- Thịt gì đấy anh?

- Thịt chim.

- Anh mua à?

- Không.

- Thế ai cho, ông ngoại hở?

Tôi im lặng nghĩ câu trả lời. Em tôi tự nhiên buông đũa, đứng dậy, cuống quít :

- Con sáo của anh em mình anh ạ! Ta mừng tuổi nó chứ?

Thấy tôi rầu rầu không nói, đứa em gái sầu thảm của tôi ngây người đứng ngó. Và em chạy vụt ra sân ngơ ngác tìm kiếm xong lại chạy vô gậm giường. Chẳng thấy lồng sáo đâu, em hỏi :

- Nó ở đâu hở anh?

- Chắc trộm bắt mất rồi em ạ!


Em tôi thẫn thờ bước khỏi ngưỡng cửa. Lòng tôi rối bời. Nước mắt trào dâng lên, nhỏ giọt xuống bát canh su hào thịt sáo. Tôi cứ ngồi, nước mắt cứ rơi, lặng thinh như phiến gỗ. Tôi đợi em vào để xin lỗi. Tôi hối hận, tôi muốn chạy ngay ra ngõ gào khóc bi thương ngộ may có Phật hiện hình thì xin ước cho con sáo sống lại. Nhưng cõi đời tăm tôi của anh em tôi, Phật là chú Nghị, chú chết rồi, tôi ước nguyện gì đây? Mãi chả thấy em trở vào, tôi hoảng hốt chạy về phía nhà sau. Ở đấy có bộ lông sáo sũng nước và cái lồng tre chú Nghị đã đan cho em tôi. Em tôi ôm cái lồng vào tay thương tiếc. Tôi đi nhẹ tới gần em. Bước chân tôi run rẩy trên nền đất quê ngoại. Tôi khẽ gọi :

- Mai, em Mai...


Em không ngoảnh lại. Tôi biết em ghét tôi lắm. Em đứng dậy, vẫn ôm cái lồng, lững thững đi ra bờ ao. Tôi phải nói thế nào để em tôi hiểu tại sao tôi giết con sáo? Tôi toan giãi bày, nhưng khốn nạn, sự nghẹn ngào rình mò đúng lúc vít chặt lấy cổ họng tôi. Tôi chỉ còn biết ấp úng :

- Em ơi! Anh xin...

Tôi buông chưa dứt lời, em quay lại nhìn tôi, đôi mắt chớp mau. Bốn con mắt anh em tôi lúc ấy mờ đi dưới cái màng sám hối, đau thương. Bộ mặt đau khổ của tôi nói với em nhiều rằng tôi quý con sáo nhưng tôi yêu em. Em tôi chừng hiểu chuyện, em buông đôi tay. Cái lồng và bộ lông con sáo rơi xuống đất. Em chạy xô tới ôm lấy tôi, khóc nức nở.



DUYÊN ANH


trích từ Hoa Thiên Lý, 1963
Thị Anh
QUOTE(trademark @ Sep 4 2005, 09:37 AM)
Duyên Anh từng được mệnh danh là "Nhà Văn của Tuổi Thơ" lừng lẫy một thời của miền Nam, được hàng triệu độc giả say mê yêu mến.  Sau đây là một vài sáng tác của ông.

Gửi Lan Anh:  Bây giờ tôi mới có thể post được bài trong diễn đàn.  chọn truyện đầu tiên là "Đại Dương Trong Lòng Con Ốc Nhỏ" như đã hứa.  rose.gif


Ðại Dương Trong Lòng Con Ốc Nhỏ

DUYÊN ANH


*




Cảm ơn bác Trade nhiều. Để đêm nay A25 ngồi đọc ạ. Cái tên truyện đầu tiên này giống 1 truyện của A25, nó có tên: Đại Dương Trong Lòng Bàn Tay. dry1.gif
Dân làng Ven
Duyên Anh tên thật Vũ Mộng Long, bút hiệu khác: Thương Sinh. Sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại Thái Bình Bắc việt mất ngày 6 tháng 2 năm 1997 tại Paris, Pháp (nhằm ngày 29 tết)

tác phẩm:

* Hoa Thiên Lý
* Ðiệu Ru Nước Mắt
* Luật Hè Phố
* Thằng Vũ
* Dấu Chân Sõi Ðá
* Dzũng ÐaKao
* Vết Hằn Trên Lưng Ngựa Hoang
* Bồn Lừa
* Ảo vọng Tuổi Trẻ
* Gấu Rừng
* Cỏ Non
* Ngày Xưa Còn Bé
* Nặng Nợ Giang Hồ
* Mùa Thu
* Con Suối ở Miền Ðông
* Cầu Mơ
* Ánh Lửa Ðêm Tù
* Ánh Mắt Trông Theo
* Thằng Côn
* Trường Cũ
* Tuổi 13
* Nhà Tôi
* Mơ Thành Người Quang Trung
* Ðàn Bà
* Chương Còm
* Mặt Trời Nhỏ
* Lứa Tuổi Thích Ô Mai
* Giặc okê.
SyncMaster
Truyện của DA tôi hình như chỉ biết "Thằng Vũ" thì phải, những truyện khác không dám chắc.

Đó là hồi hè năm lớp 6 lớp 7 gì đó, đến nhà bác chơi, ông anh họ có trên gác xép cả tủ sách, thế là ngày nào cũng mò lên nằm vắt chân chữ ngũ đọc bằng hết. Hôm vớ được quyển này thích lắm đọc một mạch quên cả ăn cơm.
trademark
Truớc 1975, Duyên Anh xuất bản 50 tác phẩm, tác phẩm cuối cùng xuất bản trước ngày 30-4-75 là tác phẩm Tháng Giêng Ngon Như Một Cặp Môi Gần (tháng 1, 1975).

Trong tất cả các truyện xuất bản, ngoại trừ Hoa Thiên Lý (1963), Tuyển Truyện Tuổi Thơ (1968), Tuyển Truyện Duyên Anh (1970) là tuyển tập truyện ngắn. Duyên Anh cũng từng theo chân Tô Hoài tiền chiến viết truyện thú vật, đó là tác phẩm Rồi Hết Chiến Tranh (1970).

Bốn tiểu thuyết của ông đã được đưa lên màn ảnh (Điệu Ru Nước Mắt (1965), Nhà Tôi(1970), Trần Thị Diễm Châu....(1971))

Nhiều tác phẩm của ông được dịch ra tiếng Pháp và được người Pháp quay phim, sôi nổi nhất là Một Người Nga Ở Sài Gòn, (Un Russe à Saigon) (1986), và Đồi Fanta .

cũng xin nói thêm về các tác phẩm của Duyên Anh truớc 1975: chủ đề của ông xoay quanh tình yêu quê hương, tuổi thơ, tuổi trẻ và xã hội. Những truyện đầu tay của Duyên Anh đã viết trong hoàn cảnh xa quê nhà và nghèo khó, ông đã viết với "niềm xúc động thật tình".

Trong hồi ký Nhà Báo, Duyên Anh đã nói về tác phẩm đầu tay của mình như sau: "Sống buồn thảm như thế, tôi đâm ra nhớ nhà kinh khủng. Nhớ nhà và thương tiếc tuổi thơ của mình. Trước hết, tôi nhớ mẹ tôi. Vào một đêm mưa mù mịt chân cầu Tân Thuận, không ngủ được vì mái nhà dột tứ tung, tôi đã thức suốt đêm hý hoáy viết truyện ngắn đầu tay Hoa Thiên Lý"[*]

các tác phẩm đầu tay này không thành công về số lượng sách bán được khi mới xuất bản, thí dụ như Hoa Thiên Lý lần xuất bản đầu tiên in 1500 cuốn chỉ bán được 400 cuốn, Thằng Vũ in 2500 cuốn nhưng ế dài! laugh1.gif đến nỗi nhà phát hành từ chối không bán truyện của Duyên Anh vì ... tên truyện không hấp dẫn! scared.gif


Tuy nhiên, chỉ vài năm sau, tiểu thuyết của ông được tiêu thụ mạnh: Hoa Thiên Lý được tái bản nhiều lần cũng như nhiều tác phẩm khác của ông mỗi lần xuất bản in đến 50, 60 nghìn bản. Hoa Thiên Lý được tái bản đến 7 lần, và lần cuối cùng (1974) con số sách in ra là 50 nghìn cuốn. (thử so sánh thị trường tiêu thụ sách của 20 triệu dân miền Nam thời ấy, so với 80 triệu dân bây giờ.)

_________

[*]trích báo Tuổi Ngọc, 22, 1972

Dân làng Ven
Duyên Anh

Nói về ca dao là nói về thơ lục bát. 95 phần trăm ca dao đều làm bằng thơ lục bát. Nếu ca dao là thân hình thì lục bát là dôi tay ôm chặt lấy. Gắn bó. Thơ lục bát rất dễ và rất khó làm. Người làm thơ lục bát hay thì đó là thơ lục bát. Người làm thơ lục bát dở thì đó là vè. Lục bát dễ biến thành vè lắm. Tôi đã nói Nguyễn Du đẩy thơ lục bát đến chỗ cao sang. Tôi nói thêm, Huy Cận đã đưa thơ lục bát vào cổ kính. Hai người làm thơ lục bát hay nhất. Sau hai người tài tử, chưa một thi sĩ nào làm thơ lục bát khiến ta khâm phục. Chúng ta đem Truyện Kiều ra so sánh với Lục Vân Tiên. Thấy ngay cái cao sang của Nguyễn Du và chất vè của Nguyễn đình Chiểu. Ca dao khác hẳn, chỉ là lục bát, không bao giờ là vè cả. Vì ca dao ngắn, 2 câu đến 10 câu là dài.

Qua đình ngả nón trông đình
Ðình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
(Hai câu)
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Ðể anh trấn thủ nước non Cao Bằng
(Bốn câu)
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Cô về, sư ốm tuơng tư
Ốm lăn ốm lóc để sư trọc đầu
Muốn ăn đậu phụ tương dầu
Mài dao đánh kéo gọt đầu đi tu
(Sáu câu)
Văn chương phú lục chẳng hay
Trrở về làng cũ học cầy cho xong
Sáng ngày vác cuốc chăm đồng
Hết nước thì lấy gầu sồng tát lên
Hết mạ ta lại quẩy thêm
Hết thóc ta lại mang tiền đi đong
Nữa mai luá tốt đầy đồng
Gặt về đập xẩy bõ công cấy cầy.
(Tám câu)
Tháng giêng ăn Tết ở nhà
Tháng hai cờ bạc tháng ba hôị hè
Tháng tư đong đậu nấu chè
Ăn Tết Ðoan Ngọ trở về tháng năm
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm
Tháng bẩy ngày rằm xá tội vong nhân
Tháng tám chơi đèn kéo quân
Bước sang tháng chín chung chân buôn hồng
Tháng mười buôn bấc bán bông
Tháng một tháng chạp nên công hoàn toàn
(Mười câu)

Ca dao nó trữ tình không thể tả nổi. Cái tình tự của nó ôm gọn dân tộc trong lòng. Từ tình yêu, nỗi khổ cực, niềm lo lắng đến giáo dục về sự thật thà, chế nhạo tật xấu, bài xích nhẹ nhàng kẻ ác, khôi hài thống trị..., đều có trong ca dao. Nó là Việt Nam đôn hậu, chất phác. Ngày xưa, chúng ta sinh ra và lớn lên bằng hơi thở của ca dao, chúng ta yêu nước chúng ta lắm. Ðiệu ru nào đã ru ta ngủ, vẫn không ngoài ca dao.

Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về

Ngày nay, chúng ta sinh ra và lớn lên bằng thứ khác. Không phải ca dao. Chúng ta bỏ quê hương - quê hương nông nghiệp - tìm chỗ thị thành mà ở, sống theo đuổi văn minh, vật chất tây phương. Chúng ta quên dần, quên hết ca dao. Một ngày nào đó, ca dao sẽ là cái gì kỳ cục mà chúng ta không thèm biết đến. Nếu chúng ta là nhà văn, nhà thi sĩ thì ca dao sẽ thành lạc hậu. cài trữ tình hôm qua đâu bằng cái trữ tình hôm nay. Chúng ta đọc tiểu thuyết Anh Mỹ, tiểu thuyết Pháp và, nếu cần, ta mượn cốt truyện của ngoại quốc làm cốt truyện của mình, có phải ta nghìn lần lãng mạn hơn ca dao vớ vẩn. Bây giờ, chúng ta mới, mới, mới và mới; chúng ta dứt khoát với quá khứ nó ràng buộc ta với quê hương ta. Tình tự dân tộc nó nhỏ bé quá, chúng ta tiến lên hàng vĩ đại tình tự với con người. Chúng ta định tình tự với thế giới, với con người bằng cái gì? Ở những cuốn tiểu thuyết gầy ốm, cóp nhặt tư tưởng của thiên hạ bừa bãi à? Cũng đuợc, loài người khó tính lắm, muốn đọc sách của chúng ta dịch sang tiếng nưóc ngoài thì họ mới hiểu chúng ta tình tự với họ với con người. Không, chúng ta không dại thế. Chúng ta chỉ thích mới, mới, mới và mới thôi. Chúng ta ra khỏi hàng ngũ những người lạc hậu và tình tự dân tộc. Mới mà không biết mới về đâu, đó là cuộc phiêu lưu không tưởng. Chúng ta chẳng hiểu đi tới bờ bến mới nào, có điều đường về quê hương đã bít lối.
Tôi không dám nhập vào cái chúng-ta-to-lớn quá. Vậy xin nhận cái tôi nhỏ bé, lạc hậu. Cái tôi nhỏ bé thách cái chúng-ta-to-lớn biểu diễn sáu câu ca dao "tán gái" sau đây:

Hôm qua tát nước dầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được cho chúng anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh không có mẹ già chưa khâu.

và bốn câu ca dao lãng mạn:

Lạy trời mưa nắng phải thì
Nơi thì cày rộng nơi thì bừa sâu
Công lao chảng quản lâu đâu
Ngày nay nước bạc ngày sau cơm vàng

Người nông dân lạy trời nắng mưa hòa thuận để cầy bừa cho dễ dàng. Công lao không lâu đâu. Cứ hy vọng "ngày nay nước bạc ngày sau cơm vàng." Thi sĩ ca dao mới lãng mạn biết chừng nào: Nước bạc ngày nay, cơm vàng ngày sau. Tuyệt vời cách ví von như thế. Tôi nghĩ rằng thi sĩ bác học có nghĩ cả đời cũng không làm nổi câu thơ thứ tư của thi sĩ ca dao.

Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trròi yên biển lặng mới yên tấm lòng.

Nỗi đau khổ của nông dân kể lể đau lòng quá. Từ trong nỗi khổ vẫn bùng lên cơn mơ mộng "Trông cho chân cứng đá mềm" tôi dám cam đoan rằng, trên thế giới, không có đại thi hào nào mơ mộng như người nông dân Việt Nam. "Trông cho chân cứng đá mềm" là giòng suối mơ mộng của thi sĩ ca dao. Giòng suối róc rách chảy đến vô tận. Chúng-ta-to-lớn thường mô tả cảnh bắt quân dịch và đầy ra mãi vùng I chiến thuật phục vụ. Những cảnh ấy, chúng-ta-to-lớn phải viết nhiều trang. ca dao có bốn câu, thưà xúc động.

Một tay thì cắp hoả mai
Một tay xách giáo quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa

Người quân dịch trấn thủ phương xa. Chúng-ta-to lớn sẽ nằm một chỗ, tuởng tượng sự cô đơn và nỗi thống khổ của người lính quân dịch hết một cuốn. Ca dao có bảy câu, bát ngát cô đơn.

Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm tối dồn việc quan
Chém tre đẳn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Nhũng giang cùng nứa lấy ai bạn cùng
Nuớc giếng trong con cá nó vẫy vùng

Những đại văn hào, đại thi hào không thèm nghe ca dao nữa. Tôi xin lỗi các vị, nói chuyện ca dao với người khác. Trong cuốn Anthologie de la littérature populaire du Viet Nam, tác giả đã dịch một số ca dao. Thử mời các bạn thưởng ngoạn ca dao... Pháp văn:

Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vồn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây luá còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn

Ô mon buffle! Viens dans la rixière et labourons
Labourons et repiquons
Comme nos ancêtres paysans
Ni toi, ni moi
N'épargnons notre peine
Tant que les pallntes ne portent les épis
Il y aura toujours
Quelques brins d'herbe dans le champ
Pour que tu les manges, ô mon buffles!

Lỗ muĩ em những tám gánh lông,
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho
Ðêm nằm thì ngáy o o
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà
Ði chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo ăn quà đỡ cơm
Trên đầu những rác cùng rơm
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu

Dis huit poils rugueux
Lui sortent des narines
Le mari l'aime
Il dit:
-"C'est un présent du Ciel:
La barbe du dragon"!
Un ronflement, la nuit,
Morte avec son sommeil
Le mari l'aime
Il dit" Pourquoi s'en plaindre"?
S'en va-t-elle au marché
Elled grignote sans arrêt
Le mari l'aime
Il dit:
-"Qu'importe! A la maison
Elle mangera moins de riz".
Ses cheveus ne sont plus
Sue paille desséchée
Le mari l'aime
Il dit:
-"Sa tête est couronnée De fleurs au doux parfum!"
Dân làng Ven
tiếp...

Tôi trích hai bài thôi và ở trong sách Anthologie de la littérature du Viet Nam không có bài ca dao tiếng Việt in kèm với bản dịch Pháp ngữ. Thành ra, người Việt Nam không hề biết ca dao mà đọc ca dao dịch sẽ chẳng thấy một hình ảnh nào lạ trong ca dao. Họ sẽ thất vọng ngay. Ngưòi ngoại quốc cũng thế. Nước ta ở một tình trạng nan giải. Quê hương nghèo nàn, nô lệ nhiều năm, nước nhỏ bé, ngôn ngữ ngoài phạm vi nước mình thì chả ai thèm biết tới, cho nên, những caí hay đẹp của ta như ca dao, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ... , dịch sang ngoại ngữ găp nghiều trở ngại. Mà chính ra ca dao không thể dịch, không nên dịch. Chắc rằng, cũng biết gặp khó khăn nên ông Hữu Ngọc cứ dịch, vì lòng yêu nước của ông thúc dục ông.
Tôi xin thành thực hoan nghênh ông, nhưng cũng thành thực phản đối khi ông nhắm ca dao vào mục đích tuyên truyền. 17 bài ca dao ông dịch giới thiệu "Ra đời vào cách mạng tháng 8-1945 và hai cuộc kháng chiến". Ca dao là nghệ thuật. Nghệ thuật khác với kỹ thuật. Cách mạng tạo ra kỹ thuật cho con người, nhưng không thể, không bao giờ thể, tạo ra nghệ thuật cho con người. Trời cho con người nghệ thuật. Mọi sự rung động từ trái tim con người thoát ra. Cách mạng có làm cho con người rung động hay không, chứ không bắt con người phải rung động. Thi sĩ ca dao là nghệ sĩ đích thực. Nói thật đúng, thi sĩ ca dao của nguời là chính ca dao. Tôi sợ rằng ca dao "ra đời vào cách mạng tháng 8-1945 và hai cuộc kháng chiến" là ngụy ca dao.
Ca dao đã mất hút từ hơn 100 năm nay. Không phải các thi sĩ giết chết ca dao bằng những tập thơ ấn loát đẹp và phổ biến về tận làng mạc xa xôi. Chẳng ai giết nổi ca dao khi nó còn sống và cần sống. Chẳng ai cứu nổi ca dao khi nó muốn chết và cần chết. Ði một chu kỳ ngót bốn ngàn năm, ca dao đã sáng tác thừa thãi cho dân tộc sử dụng. Ðã đến lúc ca dao chất dứt bổn phận của nó. Văn học dân gian cũng thế. Cái tối cần thiết hôm nay là tìm tòi ca dao còn ẩn mặt tại nông thôn. Tôi chưa biết ca dao miền Trung. Tôi chưa biết ca dao miền Nam. Tôi chỉ biết rất ít ca dao miền Bắc. Bây giờ, nếu bỏ ra 5 năm, tung những người yêu ca dao đi khắp ba miền đất nước tìm kiếm ca dao, tôi tin rằng mỗi miền sẽ đóng góp cho đất nước hàng chục pho sách. Bấy giờ, chúng ta giàu có ca dao. Bấy giờ, không cần ai làm ca dao nữa. Tất cả đều có trong ca dao. Nói thêm nữa bằng thừa. Ca dao tự nó biến thành nền móng và khi nó cảm thấy nền móng vững chắc rồi, ta cứ việc xây văn chương bác học. Và tiểu thuyết, thi ca cứ vất lên cái nền móng đó. Hay thì ở lại. Dở thì ném đi. Ca dao đã biết trước chúng ta, đã ly biệt hơn 100 năm nay. Thế mà ông Hữu Ngọc và bà Françoise Corrèze cải táng ca dao, lôi xác chết bảo rằng "ra đời vào cách mạng tháng 8-1945 và hai cuộc kháng chiến". Hai cuộc kháng chiến là chống Pháp giữ nước và chống Mỹ cứu nước.
Cứ dở hết ca dao ra mà coi, 1000 năm nô lệ giặc Tàu, có câu nào nói về Tàu, nói về quân xâm lăng tàn ác nhất loài người không? Bảo là 1000 năm ấy không có kháng chiến ư? Hai bà Trưng, bà Triệu, Lý Nam Ðế, Triệu Quang Phục, Mai Hắc Ðế, Bố Cái Ðại vương ... đã khởi nghĩa đánh nòi Hán đấy. Sử gia Lê văn Hưu viết: "Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà nổi lên đánh lấy được 65 thành trì, lập quốc xưng vương dễ như trở bàn tay. Thế mà từ cuối đời nhà Triệu cho dến đời nhà Ngô hơn một nghìn năm, người mình cứ cúi đầu bó tay làm tôi tớ người Tàu, mà không biết xấu hổ với hai người đàn bà họ Trưng"! Ðến 100 năm nô lệ Tây, ca dao cũng chẳng viết câu nào về quân xâm lược dã man. Bảo là 100 năm ấy không có kháng chiến ư? Chuyện 100 Tây đô hộ, ai cũng biét có kháng chiến hay không kháng chiến.
Cách mạng tháng 8-1945, tôi được đọc bài ngụy ca dao như thế này:

Ðeo hoa chỉ tổ nặng tai
Ðeo kiềng nặng cổ hỡi ai có vàng
Làm thân một nước vẻ vang
Ðem vàng giúp nước giàu sang nào tầy
Ðổi vàng lấy súng cối say
Bắn tan giặc Pháp dựng ngày vinh quang

Ông thi sĩ thượng thặng nào đã đẻ ra bài ngụy ca dao quyên vàng của dân chúng cả nước để mua súng cối say bắn tan giặc Pháp, nhưng không mua, mà đem cống Tiêu Văn để nó mang quân Tàu phù về Trung Hoa? Cách mạng tháng 8 biết ông thi sĩ ấy. Hồi kháng chiến chống Pháp, ở hậu phương, tôi đã thuộc những câu ngụy ca dao dưới đây:

Thực dân hỡi thỡi thực dân
Ðàng nào thì cũng một lần về thôi
Việt Nam của Việt Nam rồi
Cướp làm sao nổi đất người Việt Nam

Diễn tả cảnh dã man của Pháp, hai câu ngụy ca dao lên tiếng:

Trẻ thơ đã tội tình gì
Bị quăng vào lửa chỉ vì thực dân

Một bài nữa tả anh chồng trách vợ:

Ðêm nay anh đi đánh Tây
Cửa nhà cậy có bu mày trông coi
Làm sao khóc lóc lôi thôi
Có vợ ai tồi như thế hay không

Tôi nói ca dao đã biệt ly hơn 100 năm, kể tư khi thời đại đánh mốc bằng hai câu chua xót:

Ngày xưa ta cũng có vua
Bây giờ mất nước, bonjour Toàn Quyền

Nhưng không có gì tuyệt đối cả, cũng còn vài người tương tư ca dao, thỉnh thoảng thốt lên lời cay đắng. Câu ca dao cay đắng dưới đây làm trong cách mạng tháng 8 đã 15 tuổi:

Ngày xưa roi điện thì còn
Ngày nay roi gạo hao mòn thịt xương

Cách mạng dùng chế độ gạo cai trị dân còn hơn thực dân dùng roi điện tra tấn con người. Tôi rất thích bốn câu ca dao làm trong cách mạng tháng 9, đuợc 3 tuổi.

Việt Nam dân chủ cộng hòa
Con tôm con tép bò ra biểu tình
Con cá đi lính Việt Minh
Con cua cũng lại ra đình hoan hô

Chỉ có hai câu ca dao là chính ca dao rơi rớt lại. Còn thì rặt ngụy ca dao. Ca dao bay bổng, bay cao, bay xa trên vùng trời Việt Nam. Ca dao nói về tình ái, nói về hạnh phúc, nói về đau khổ, nói về thương yêu, nói về cười cợt, nói về nhân nghĩa... Ca dao không nói về thù hận. Những kẻ cướp nước ta đã có người đuổi chúng và diệt chúng. Ca dao không để ý việc này. Ca dao sống tự nhiên với hạnh phúc và đau khổ. Ca dao cao thượng vô cùng, không oán ghét cả kẻ thù của mình. Ca dao không khen ngợi ai. Không ai có quyền hành bắt ca dao khen mình, Thỉnh thoảng, ca dao mới lên tiếng về thống trị đi quá đà.

Tháng tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Ði thì ăn cướp quần chồng sao đang

Dân miền Bắc vốn không ưa gì Tự đức, cảm tình đã trao tặng Quang Trung rồi. Nghĩ đến chuyện đào mả Quang Trung, lấy đầu lâu đái vào, dân đã khinh bỉ Gia Long. Mà việc Tự Ðức cấm đàn bà mặc váy, ca dao chỉ nói nhẹ nhàng. Ca dao không tàn tệ với ai cả. "Ca dao mới" đem tên các lãnh tụ cộng sản ra chửi bới thậm tệ là ngụy ca dao. Ca dao không nịnh bợ người nào. Hai câu dưới đây thổi phồng ông Hồ Chí Minh:

Tháp Mưòi đep nhất bông sen
Nước Nam đẹp nhất có tên bác Hồ

cũng là ngụy ca dao. Vậy thì ca dao "ra đời vào cách mạng tháng 8-1945 và hai cuộc kháng chiến" là ngụy ca dao, phải chăng, thưa ông Hữu Ngọc và bà Françoise Corrèze!

Tôi viết hơi dài rồi. Phải tìm mấy điệu ca dao làm kết luận bài này mới đuợc. À tốt lắm, tôi lôi con gà, con lợn, con chó, con mèo, con ngựa, con kiến, con tôm, con cua, con cá ra quần chúng nó một phen.
- Kiến tại sao mày kiện củ khoai?
- Vì nó còn sống, lại kềnh càng, cháu ăn không nổi tha về tổ không xong. Cháu tức quá đi kiện nó chơi.
- Củ khoai có nói gì không?
- Nó cứ ì ra. Cháu kiện hoài hủy.
- Mày đem việc không dáng gì đi kiện tụng. Mày ăn nó, nhưng không ăn nổi, lại bày trò kiện nó. Ðáng lẽ, nó phải kiện mày.

Con kiến mà kiện củ khoai
Kiện di kiện lại đã hai năm tròn
Bây giờ kiến đã có con
Củ khoai mọc mậm vẫn còn kiện nhau

- Ngựa, sao mày chăm làm vậy?
- Trời sinh cháu ra, bắt cháu làm việc, bác ạ.
- Mèo, sao mày lười thế?
- Trời sinh cháu ra, muốn cháu làm biếng đấy mà, bác ơi!

Con ngựa đi Bắc về Nam
Hay ăn hay ngủ hay làm hay lo
Con mèo nằm bếp co ro
Biếng ăn, biếng ngủ, biếng lo biếng làm

- Mèo kia, mày muốn dò xét chuột, chứ mày đâu tử tế gì mà hỏi thăm nó có nhà hay không?
- Bác đi guốc trong bụng cháu.
- Rồi sao?
- Nó giả vờ giọng ai rồi xỏ xiên bảo đi mua mắm, mua muối về giỗ cha cháu.

Con mèo mà trèo cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi dâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo

- Bống này, mày khỏi củ hành đuợc không?
- Ồ tôm có hành thì cháu cũng có hành nó mới dậy mùi.
- Còn cua thì sao?
- Nó phải giã bằng chày, bác ạ!

Cá bông đi chợ cầu Canh
Con tôm đi trước củ hành theo sau
Con cua lật đật theo hầu
Cái chày rơi xuống vỡ đầu con cua.

- Gà, sao mày khóai lá chanh thế?
- Người sắp giết cháu, bác à. Cháu yêu cầu luộc cháu và cắt lá lá chanh thật nhỏ rắc lên
- Lợn, mày đòi hành chi vậy?
- Kho cháu mà có thiếu hành thì có ra gì! Thịt không hành, canh không mắm mờ lỵ.
- Chó, mày dặn dò gì không?
- Riềng là căn bản đã, bác ạ! Rồi mắm tôm sẽ tính sau. Hu, hu, hu...

Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đúng khóc ngồi
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng

Thưa bạn đọc, đủ rồi đấy, câu chuyện ca dao
trademark
QUOTE(Dân làng Ven @ Sep 4 2005, 06:26 AM)
Duyên Anh tên thật Vũ Mộng Long, bút hiệu khác: Thương Sinh. Sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại Thái Bình Bắc việt mất ngày 6 tháng 2 năm 1997 tại Paris, Pháp (nhằm ngày 29 tết)



trong tác phẩm Nhìn Lại Những Bến Bờ (Duyên Anh, NXB Xuân Thu, 1988, trang 353) thì khi viết văn ông lấy bút hiệu Duyên Anh, ký Thương Sinh, Thương Anh, Bếp Nhỏ, Mõ Báo, Vạn Tóc Mai, Thập Nguyên.... khi viết báo và làm chủ báo. Bút hiệu Duyên Anh là tên của một bản nhạc của một người bạn cùng lớp, được ông chọn để nhớ người bạn ở lại miền Bắc sau năm 1954.

Ông còn là chủ bút tuần báo Con Ong của Minh Vồ từ năm 1964. Năm 1968 Duyên Anh chủ trương tuần báo Búp Bê . Sau đó, ông chủ trương các tuần báo Tuổi Ngọc (1969-1975) và Người (1970) là một tuần báo chuyên trào lộng chính trị, cũng như nhà xuất bản Tuổi Ngọc.

ông cũng cộng tác với những nhật báo lớn nhất của miền Nam như Xây Dựng (đây là một tờ báo chống cộng và chống cả những lực lượng chính trị khuynh đảo miền Nam), Sống (của Chu Tử), Công Luận , Tin Báo (của Nguyễn Mạnh Côn)

là một trong mười nhà văn có sách bán chạy nhất miền Nam, ông sống bằng ngòi bút và viết phiếm luận đả phá bất công xã hội.

từ sau năm 1971 ông giã từ nghề nhật báo vì nghĩ mình không thể trở thành ký giả chuyên nghiệp lý tưởng.

trước đó Duyên Anh đã từng bị chế độ VNCH kiểm duyệt không cho viết tiếp các phóng sự Tiền Mẽo , Việt Sến trên báo Sống .

trademark


Thằng Vũ


duyên anh


giới thiệu



Không có người lớn tuổi nào không tiếc nhớ tuổi trẻ, và càng những ai có nhiều suy tư càng tiếc nhớ nhiều hơn. Đó là một trong những nguyên nhân vì sao hầu hết các nhà văn đều có lần viết về tuổi trẻ.

Nhưng rất ít người thành công. La Fontaine, Grimm, Perrault không viết về tuổi trẻ mà chỉ viết cho tuổi trẻ. Mark Twain là nhà văn độc nhất kể chuyện Tom Sawyer bất tử. Còn tất cả đều theo quy luật chung : đã lớn rồi tất không còn bé nữa. Quá khứ chỉ có hình ảnh, tuổi trẻ không ở lại trong cảm nghĩ, người viết văn thường gán cho bọn thiếu niên những cằn cỗi của mình. Chính vì thế mà họ thất bại.

Duyên Anh đã thành công ở chỗ rất nhiều người thất bại. "Thằng Vũ" quả là một đứa bé sống động, tinh nghịch, tràn đầy nhựa sống. Truyện của nó làm cho người đọc tuổi sắp về già, nhớ lại cả một thời thiếu niên. Niềm cảm xúc chân thành như cả một đời chỉ có mấy lần.

"Thằng Vũ" cũng còn là truyện của các em học sinh. Tôi không muốn nói đến danh từ công thức như "lành mạnh" hay "trong sạch". Tôi tin rằng các em sẽ tìm thấy ở "Thằng Vũ" một tình bạn vui nhộn, thành thực. Các em có thể "hỗn" như nó, nếu các em cũng chịu học cho giỏi và yêu thầy, mến bạn như nó.

Con đường đi của "Thằng Vũ" không biết đến thế nào là cùng...



Nguyễn Mạnh Côn

trademark



1


Vũ và Côn nằm dài trên chiếc chiếu rách trải dưới giàn hoa lý sau vườn. Bóng râm mỗi lúc một lan rộng ra. Nắng chiều yếu dần nên màu xanh của lá và màu vàng của chùm hoa tươi lên làm dịu mắt hai thằng bé.


Những con bọ ngựa trốn nắng hạ từ lâu, bây giờ bò khắp chỗ đùa bỡn. Côn bỗng nhớ nhà quê. Vụ hè năm ngoái nó được theo bà nó về mãi làng Thanh Triều tít tắp bên kia sông Trà Lý. Nó cũng đã từng nằm dưới bóng mát của giàn hoa gần bờ ao, nghe tiếng cuốc kêu rỉ rả, tiếng tu hú bắt nhịp thời gian chạy uể oải. Và nó đã chán cả tắm ao, câu cá, đập cào cào, đánh bẫy chim với tụi nhóc đồng nội. Côn bỏ lên tỉnh ngay để khoe với thằng Vũ rằng không có thằng Vũ thì trên đời không có gì vui cả. Bây giờ nằm bên thằng Vũ nó lại nhớ nhà quê.


Côn và Vũ sấp sỉ mười ba tuổi. Chúng nó cùng học một lớp, cùng ngồi một bàn, cùng thích chuyện kiếm hiệp Tầu nên hợp nhau lắm. Bất cứ nơi nào người ta cũng gặp hai đứa. Nửa trưa nắng gắt, chúng nó kéo bạn bè xuống phố An Tập tổ chức đánh trận, vật lộn, ném đá, ném đất. Thằng nào thằng nấy nhễ nhãi mồ hôi, quần áo lem luốc, rách nát. Đôi bận bị xầy da, sứt trán, chúng nó giả vờ khai vấp ngã.


Được cái ở nhà chúng nó rất ngoan ngoãn, tới trường học hành siêng năng nên cha mẹ chúng thả lòng. Lần mò mãi vào hồ Phúc Khánh - cái hồ hàng năm ba bốn mạng chết đuối - câu cá, cũng bọn thằng Vũ. Sang làng Bồ Xuyên bắn chim, bắn gà con, bắn chó, cũng bọn thằng Vũ. Qua cầu Bo bẻ trộm ổi bị đuổi mất cả mũ nón, cũng bọn thằng Vũ. Bấm chuông điện nhà ông Đốc cho chó sủa inh ỏi rồi chạy chí chết cũng bọn thằng Vũ. Ghé thăm đền Mẫu, rứt râu ông hộ pháp, ăn cắp oản, xôi, hoa quả, trêu chọc bà đồng, ông từ, cũng bọn thằng Vũ nốt.


Thằng Vũ còn đầu têu trò "chơi kiếm hiệp", bắt chước mọi hành động, cử chỉ của những tay giang hồ mã thượng thời nước Tầu cổ xưa, bắt chước luôn cả những tay hiệp sĩ mà chúng thích. Thằng Vũ là Triều Dương Hiệp, thằng Côn là Hà nguyên Khánh. Mỗi thằng cầm đầu một bọn nhãi chia làm hai môn phái. Khi không tìm ra môn phái địch thủ thứ ba nào thì chúng thách thức, đấm đá nhau cho đỡ buồn. Khi tìm ra môn phái thích nghịch như chúng nó thì chúng nó hợp lại tôn thằng Vũ làm chúa đảng, bầy mưu tính kế hạ kẻ thù. Chúng nó tự nhận mình là những kẻ "cứu dân độ thế" mặc dù cả chánh đảng Vũ cũng chẳng hiểu cứu dân độ thế là gì.


Hai thằng bé chỉ hiểu nghịch cho nhiều, càng nguy hiểm càng thú vị. Vũ tập lấy gân bụng thất rắn chắc. Ra trường nó cởi trần thách tụi cùng lớp thử sức. Nó cho mỗi đứa đấm một cái thật mạnh vào bụng. Mặt nó tỉnh khô không tỏ vẻ gì đau đớn khiến lũ học trò lớp nhì một phục sát đất. Lối biểu diễn này thu hút được nhiều đồ đệ lắm. Thằng Côn tập phóng dao. Chiều chiều nó lén xuống cầu tiêu tu luyện đến nát cả cánh cửa gỗ. Môn sở trường của nó đần dần thành cừ khôi. Nhưng cu cậu chỉ dám bắt nạt mấy thân cây bàng, cây hồi ngoài đường hay trộ bạn bè thì phóng lên bảng đen, trên mặt bàn, chứ cho kẹo cũng không dám rút dao dọa bạn.


Vũ còn khuyến khích Côn tập ném phi tiêu để hẹn hò nhau cho bí mật. Trong cặp sách của thằng Côn không lúc nào không nhét hàng chục cái phi tiêu mũi bằng ghim-cài-đầu nhọn hoát. Có khi Vũ đang ngồi ăn cơm, chợt một mũi phi tiêu từ đâu bay tới cắm phập vào cánh cửa. Vũ vội buông đũa buông bát chạy rút mũi phi tiêu kèm theo bức thư, lẫm nhẫm đọc:


- "Bữa nay ta đã rình mi rất lâu. Đáng lẽ mũi tên này phải trúng cổ họng mi giữa lúc mi đang há hốc mồm và cơm. Song ta nghĩ, môn phái ta không cho phép giết người sau lưng nên ta tha chết cho mi và hẹn mi đến bốn giờ chiều nay ta sẽ gặp mi tại bờ sông Trà Lý để tranh tài cao thấp. Mi mà vắng mặt, mi là thằng hèn nhất thế giới."



Cuối bức thư vẽ mũi phi tiêu xuyên qua cái đầu lâu máu rì rì, mấy nét ngòng ngoèo ký đè lên. Biết rằng Hà Nguyên Khánh dọa mình, Triều Dương Hiệp ngấu nghiến đọc tiếp hàng chữ tái bút quan hệ :


- "Chỗ mày chỉ tao nấp phóng phi tiêu cao quá, tao trèo mãi mới được. Đáng lẽ phóng từ chiều qua cớ đấy. Nhớ chiều nay nhé ! Đông đủ cả bọn, có phao, có săm ô tô nữa. Tụi mình bơi qua sông ăn cắp ổi".


Triều Dương Hiệp mỉm cười khoái chí. Chàng vờ chạy ngay ra đường, ngó truớc ngó sau. Nấp sau cây bàng, cách đó chừng hai thước, thích khách Hà Nguyên Khánh chỉ đợi có vậy, bèn xuất đầu lộ diện, miệng cười hứa hẹn, chàng không quên làm bộ chỉ tay, cáu giận mắng lớn :

- Khá đó, súc sinh ! Ta tha đuổi mi, chiều nay mi sẽ biết đường gươm họ Triều.

Rồi hiệp sĩ Triều Dương Hiệp Vũ lại vào tiếp tục ăn cơm. Khi khác, Côn sang nhà chú nó ăn cỗ, về nhà đã thấy mãnh giấy cài lên bàn học, nguệch ngoạc vài dòng :


- "Hà nguyên Khánh chắc nhà ngươi biết võ đài do hoàng thượng dựng lên ở nghĩa địa ngã tư Vũ Tiên dể anh hùng mười phương tới tỉ thí chứ ? Nhà ngươi thường hãnh diện cái tài phóng dao lên bảng đen của nhà ngươi. Vậy chiều nay, hai giờ rưỡi hay ba giờ nhà ngươi hãy mang đủ thứ dao đến. Nếu sợ chết thì rủ thêm thằng Dực, thằng Hải đấu tay tư cho vui. "



Cuối mãnh giấy vẽ hình người treo cổ, cũng ngòng ngoèo mấy nét ký đè lên. Đó là dấu hiệu của thằng Vũ. Thư doạ giết, thư thách đố của hai hiệp sĩ này kỳ quặc là luôn luôn thêm tái bút :


- "Cố xoay vài đồng, tụi mình xuống Đoan Túc chén canh bánh đa mày nhé ! Canh bánh đa Đoan Túc ngon lắm mày ạ ! Màu vàng khe béo ngậy, nghe đã thèm nhỏ rãi rồi..."

trademark



Chúng nó ranh mãnh, quỷ quái thế đấy. Thế mà lúc này, nằm dưới giàn hoa, thằng thì nhớ nhà quê, thằng thì say sưa ngắm đôi bọ ngựa vung gươm chém nhau. Vũ tưởng tượng thấy đấu trường thời xưa và hai con bọ ngựa chính là hai chàng dũng sĩ. Nhưng sự tưởng tượng của Vũ và nỗi nhớ của Côn tiêu tan ngay khi Côn bỗng nhiên ngồi nhổm dậy vỗ vai Vũ, hét lớn :

- Tao nhớ ra rồi, tuyệt, tuyệt, thằng này tuyệt...

- Vũ ngồi nhổm dậy sung sướng hỏi :

- Tuyệt vừa hay tuyệt cú mèo hở mày ?

- Tuyệt cú mèo !

- Nó ở đâu ?

- Nó ở trường mình, lớp nhì hai.

- Sao mày biết ?

- Hôm nọ tao xuống cầu Kiến Xương ăn giỗ ông nội tao. Nghe nói có đá bóng, tao khoái quá quên cả giỗ. Tao mò ra bãi xem hai hội Kỳ Bá và Bồ Xuyên tranh cúp "Cam tích tán" của nhà thuốc Bình an. Hội Kỳ Bá có thằng lỏi tỳ đi trung phong lừa gạt nhanh như máy. Chính nó làm bàn hai quả. Thiên hạ vỗ tay hoan hô nó như điên. Tao sôi cả ruột gan. Mãn cuộc, tao đứng rán lại xem trao cúp và nhìn cho rõ mặt thằng trung phong lỏi tỳ. Đố mày biết nó là thằng nào ?

- Thằng Môn.

- Thằng Môn xách dép cho nó không đáng !

- Thế thằng nào, thằng nào ?

- Làm chi mà rối lên vậy ?

- Tao ghét mày quá, đố với thách, nói nhanh nhanh tí mày !

- Thằng Vọng !

Vũ kinh ngạc :

- Vọng ghẻ đặc biệt hở ?

- Ừ, "chiến" ghê lắm mày ạ. Nó đá đẹp "ba chê" !

Vũ đứng hẳn lên, vươn vai khoan khoái.

- Tao phải gạ gẫm nó đá cho tụi mình mới hạ nổi tụi An Tập. Để mai ra trường tao rủ nó. Hì hì nằm nghĩ nát óc chiều nay. Đội bóng của tao có thằng Vọng chắc tụi An Tập kiềng mặt.

Côn lo ngại nói :

- Nhỡ thằng Vọng nó từ chối ?

Vũ tin tưởng :

- Từ chối sao được, tao sẽ có cách. Thôi tao về kẻo dì tao mong.

Côn không giữ bạn. Tự nhiên nó vui lây cái niềm vui của thằng Vũ. Sau lần thua đội bóng lớp nhì hai trường tiểu học An Tập, thằng Vũ buồn lắm. Ngày ngày sang ngày nọ, nó chỉ nghĩ đến phục thù. Nhưng muốn phục thù, đội bóng của nó cần phải có một thằng trung phong "cừ". Nay thằng Côn kiếm được thằng Vọng, hỏi chi Vũ chắng sướng. Côn đưa bạn khỏi cửa. Nắng đã tắt hẳn.

Dandelion
Bác Mark có biết tiểu thuyết mà Duyên Anh viết dựa theo nguyên mẫu của trùm xã hội đen Đại Cathay ở SG trước 75 không vậy? Hình như là Điệu ru nước mắt thì phải. Tiểu thuyết này được dựng thành phim Vết thù trên lưng ngựa hoang nổi đình nổi đám một thời, có một bài hát của Phạm Duy lấy cảm hứng từ nó đấy.

Duyên Anh cũng là một đệ tử nổi tiếng của làng bẹp tai. Lí do rất hay ho mà ông và nhiều văn sĩ tên tuổi dính phải nàng tiên nâu biện minh là để đi tìm Yên_Sĩ_Phi_Lí_Thuần. Em đọc mà chẳng hiểu YSPLT là cái gì cả. Một dạng cảm hứng sáng tác có được nhờ ma tuý chăng? Bác nào biết bảo hộ em với
trademark
Về tác phẩm Điệu Ru Nước Mắt, trong bài nói chuyện với nhà văn Đỗ Tiến Đức, Duyên Anh cho biết khi viết "cuốn tiểu thuyết du đãng đầu tiên là cuốn Điệu Ru Nước Mắt là lúc các tướng này bắt ông tướng kia, nay là tướng anh hùng mai là tướng gian, lung tung hết. Dưới mắt một nhà văn thì tình trạng đó nản quá, tôi thấy chẳng còn gì đáng ca ngợi nữa. Với phản ứng đó, tôi mới đem du đãng ra ca ngợi, thế thôi." (trích Đỗ Tiến Đức, Duyên Anh, cuối đời, NXB Văn Học CA, 3-1997, trang 131.)

Không như nhà văn Nguyễn Thuỵ Long với Kinh Nước Đen, viết về xã hội đen với sắc lạnh và tàn nhẫn, Duyên Anh đã viết về tuổi trẻ du đãng với cái nhìn âu yếm hiểu biết, từ bi, có khi ông phẫn nộ như trong Ảo Vọng Tuổi Trẻ :

"Hình phạt nào mới xứng đáng cho một tên lừa gạt tuổi trẻ, cho những tên làm ung thối một thế hệ mới vươn lên để tìm chỗ đứng cho dân tộc dưới ánh mặt trời." (trang 228)

Ông nhấn mạnh:

"tuổi trẻ bơ vơ, thèm xả thân cứu đời, mà rốt cuộc tinh thần hào hiệp đó biến thành tinh thần du đãng" (trích Điệu Ru Nước Mắt trang 107)

Đã hơn một lần, cũng trong Điệu Ru Nước Mắt, Duyên Anh nói về những người trẻ tuổi này là "những thằng trong sạch nhất của xã hội", "du đãng nhiều khi lương thiện gấp bội những thằng to tiếng đòi giáo dục du đãng", hay "xã hội du đãng cũng ăn đứt xã hội đạo đức giả"....

Tuy nhiên, sau khi Điệu Ru Nước Mắt được đưa lên màn ảnh, thì Duyên Anh lại ngao ngán bảo rằng nhân vật Trần Đại của ông đã chết! Lý do: nhà đạo diễn đã đưa tài tử cải luơng Hùng Cường lên đóng vai người hùng Trần Đại! laugh1.gif

Những tác phẩm viết về du đãng của Duyên Anh bị kiểm duyệt miền Nam cắt bỏ một số đoạn, cũng như vài tiểu thuyết khác, chẳng hạn Bò Sữa Gặm Cỏ Cháy bị bộ kiểm duyệt ngâm tôm không cấp giấy phép, sau lại cho xuất bản nhưng bị cắt 32 trang. Đến sau 75, ông lại là một trong số những tên "biệt kích văn hoá tư tưởng" nguy hiểm nhất miền Nam, nguy hiểm cho chế độ đổi nghịch chế độ thứ nhất!

Sau Điệu Ru Nước Mắt, Nước Mắt Lưng Tròng, Trần Thị Diễm Châu, Vết Thù Hằn Trên Lưng Ngựa Hoang, Sa Mạc Tuổi Trẻ , Duyên Anh bỏ loại truyện du đãng cũng như bỏ làm báo để trở về với tuổi thơ và không khí lãng mạn của những tình yêu nhỏ lớn, của Mây Mùa Thu, Cầu Mơ ....

Tôi không quan tâm đến những "nghe nói" hay những "tin đồn" về các nhân vật nổi tiếng. Những chuyện đời tư có tính xuyên tạc không kiểm chứng tôi lại càng không quan tâm. Cũng như chuyện làng bẹp tai hay chuyện Yên Sĩ Phi Lý Thuần tôi hoàn toàn không biết. Tôi chỉ biết rằng trước 75, người ta có thể bắt gặp Duyên Anh ngày ngày hai buổi lái xe đưa đón hai con đi học, đưa con đi ăn kem, và đi xem đá bóng với hàng chục ông con nít nối theo đuôi vào sân vận động. Với những người quen biết Duyên Anh, có thể nói rằng ông là một người cha tốt, có đời sống gia đình hạnh phúc.

Sau 30-4-75 vì vợ ông là con gái của một địa chủ cỡ bự ở miền Nam, và Duyên Anh thì bị việt cộng liệt vào hàng ngũ "biệt kích văn hoá tư tưởng nguy hiểm", lý lịch đen ngòm như đêm 30, nên đời sống gia đình ông - cũng như bao nhiêu người "nổi" khác trong chế độ cũ - bị đày đoạ, trù dập, khủng bố đến mức bà Duyên Anh trở nên mất bình thường, gần như là tâm thần có khi điên khi tỉnh mãi đến bây giờ.
trademark



2


Vũ ngồi dưới gốc cây bàng đợi Vọng. Cạnh nó, Côn đang lẩm nhẩm ôn bài cách trí. Còn hai mươi phút nữa mới chào cờ. Ước gì không phải học sáng nay. Vũ thầm thì thế. Mắt nó không ngớt hướng ra cổng trường.

- Sao hôm nay con nhà Vọng đến chậm thế hở Côn ?

- Tao biết đâu.

Vũ cáu sờn :

- Thôi mày đừng ôn bài cho tao nhờ tí.

Côn vui vẻ chiều bạn. Bao giờ nó cũng nghe lời thằng Vũ như nghe lời anh nó. Không hẳn nó sợ thằng Vũ nhưng chắc chắn nó yêu thằng Vũ, phục thằng Vũ hơn tất cả tụi bạn của nó.

Thỉng thoảng có thằng bạn mới nào hỏi "mày chơi với thằng Vũ lâu chưa" nó đều lắc đầu, nghĩ ngợi. Nó quên thật. Côn không nhớ bắt đầu chơi với Vũ tự ngày nào. Trong trí óc của nó, Côn chỉ còn nhớ một ván đáo lớn gần năm đồng bạc xu, đi không hết phải chồng vợi trên sân. Thằng Vũ chơi ván đáo đó. Côn chầu ngoài.

Mấy đứa giao hẹn trước khi chơi là nếu hết tiền nộp mỗi lần chơi hỏng thì đương nhiên thua. Ba thằng phạm luật ra rìa, cay cú lắm. Còn trần si thằng Vũ chọi với thằng Quý. Ván đáo mỗi lúc một sôi nổi. Cổng trường khép kín hơn nửa giờ mà bọn học trò còn quây quẩn ngồi xem "ván đáo lịch sử".

Thằng Quý chuyên môn chơi bẩn. Nó cậy nhiều tiền, đi tưới lên rồi không chọi, hy vọng thằng Vũ ham ăn, chọi liền tù tì và sẽ cạn tiền nộp phạt. Vũ biết, song cứ tỉnh khô. Nó gieo tiền rất khéo, gặp dịp ngon ăn. Vũ mừng quá hóa chọi hỏng. Thằng Quý sướng nhảy rối rít. Nó đòi tiền giam. Vũ cháy túi, tai nó đỏ bừng, mặt nó tái đi, uất ức.

Đúng lúc bị bắt bí ấy. Côn móc túi dúi vào tay thằng Vũ một đồng. Không hỏi han, không ngạc nhiên gì cả, Vũ ném đồng bạc giấy xuống sân, nhổ nước bọt, gân cổ dọa :

- Ông còn chơi đến tối, hết cả củ "thìu biu" đây này !

Ván đáo tiếp tục. Kết cuộc thằng Vũ thắng. Thu tiền đầy túu xong xuôi. Vũ mới nhìn ân nhân của nó. Mắt nó chớp mau, cảm động. Ván đáo vãn người, hai đứa trẻ nán lại, im lặng. Vũ trao đồng bạc cho Côn. Hai đứa cùng ngượng ngùng sóng đôi bước trên đường về. Vũ mở đầu :

- Tại sao "đằng ấy" cho tớ mượn tiền ?

- Tại tớ ghét con nhà Quý.

- Tại sao "đằng ấy" ghét con nhà Quý ?

- Tại nó đánh đáo gạo.

- Nhỡ tớ thua "đằng ấy" có đòi tớ không ?

- Không.

Vũ mỉm cười. Nó định nói "Đằng ấy nói phét" vì nó nghĩ rằng một đồng chứ đâu phải một xu, một hào mà thằng Côn không đòi. Vũ nhìn thẳng vào đôi mắt thằng Côn khiến thằng Côn bẽn lẽn cuối xuống.

- Chắc nhà "đằng ấy" giầu nhỉ ?

Côn thành thực :

- Ừ, mỗi ngày ba tớ cho hai đồng. Còn "đằng ấy" mỗi ngày lĩnh mấy đồng ?

- Nhà tớ không giàu cũng không nghèo. Ba tớ đi vắng luôn, dì tớ mỗi sáng năm hào thôi.

- Thế mẹ "đằng ấy" đâu ?

- Mẹ tớ chết rồi !

Côn len lén nhìn Vũ. Nó buồn buồn. Vũ thấy hai đứa cứ sóng đôi về cùng đường, nó hỏi :

- Nhà "đằng ấy" ở phố nào ?

- Phố Lý Thường Kiệt.

- "Đằng ấy" ở cùng phố tớ, nào sang nhà tớ chơi nhé !

- Ừ.

- Này !

- Gì ?

- Tớ hỏi thật, nhỡ tớ thua "đằng ấy" tính sao ?

- "Đằng ấy" có thua đâu mà tính.

- Nhưng nhỡ cơ mà ?

- Nhỡ sao được, "đằng ấy" chơi đáo "mả" khét tiếng.

Hai đứa bé lại nhìn nhau, cười rúc rích. Từ hôm ấy, Vũ chơi thân với Côn. Càng thân nhau, càng mến nhau. Cho nên hễ Vũ muốn gì là Côn chiều ngay.

Vũ toan rủ Côn rời gốc cây bàng thì thằng Vọng đã khúm núm từ ngoài cổng lững thững bước chân vào sân trường, hai tay vẫn thủ trong áo dài như thường lệ. Tộp nghiệp thằng Vọng, con nhà nghèo lại ghẻ, Vọng sợ bạn bè ghê tởm nó nên nó cứ dấu diếm.

Trong lớp học, dù cái ghẻ đào hào khơi sông trên bàn tay nó, ngứa đến mấy chăng nữa, nó cu!ng chỉ cắn răng chịu đựng, không dám gãi, tuy gãi thì sướng lắm, hả hê lắm. Luôn luôn nó đút tay trong áo dài. Giờ ra chơi nó lén vào cầu tiêu hay thâm thụt gần bờ dậu dâm bụt gãi bằng thích, gãi sứt cả máu, gãi đỏ bầng đôi bàn tay.


Bọn học trò lớp nhì hai có đứa đọc truyện "Ghẻ đặc biệt" của Tô Hoài đăng ở "Phổ thông bán nguyệt san", nó bỗng thấy thằng Vọng giống nhân vật Hoa trong truyện từng ly từng tí. Cũng bẩn thỉu, cũng bị ghẻ, cũng dấu tay, cũng gãi nơi vắng vẻ. Thế là chúng nó đồn nhau, chúng nó xúi dục nhau làm sống lại thằng Hoa của Tô Hoài trong trường tiểu học công lập thị xã Thái Bình.


Truyện "Ghẻ đặc biệt" được truyền tay đọc. Chúng nó xúm quanh nhau nghe một thằng đọc rồi cười như nắc nẻ. Chúng nó thộc mọi hành động củ thằng Hoa, thuộc mọi thủ đoạn của bạn nó trêu nó để áp dụng vào thằng Vọng. Chúng nó theo rõi thằng Vọng khắp sân trường, bảo thằng Vọng có phù phép vì chúng nó gặp thằng Vọng đan hai tay lại "bắt ấn". Rồi y hệt như chuyện của Tô Hoài, chúng nó ngấu nghiến đè thằng Vọng xuống xân cỏ, lôi tay thằng Vọng ra ngoài ánh sánh để thấy bí mật củ đôi tay nó chỉ là bệnh ghẻ kinh niên !!!


Một thằng đứng giữa sân diễn thuyết. Ba bốn lớp vây quanh để cười. bài văn của Tô Hoài được thay nhân vật Hoa bằng nhân vật Vọng. Đại khái :


- "Thưa các bạn,

Nhân loại có hàng triệu chứng bệnh. Thí dụ thối tai, hôi nách, chảu máu cam, đi tướt, táo kiết, chảy rãi, đái dầm, ỉa đùn, nhưng chỉ có một thứ bệnh đáng sợ nhất. Đó là bệnh ghẻ, thiếng Pháp gọi là "La gale". Ghẻ lại có nhiều loại. Thí dụ : ghẻ Ấn Độ, ghẻ Cao Miên tức Khờ Me, ghẻ Lào, ghẻ Miến Điện, ghẻ Ý Đại Lợi, ghẻ Nhật Bản, ghẻ Thổ Nhỉ Kỳ, ghẻ Nga Sô Viết, ghẻ Nam Dương quần đảo vân vân... Những bệnh ghẻ tôi vừa kể trên đều là bệnh kinh khủng cả.


Còn một loại bệnh ghẻ kinh khủng hơn những bệnh ghẻ kinh khủng nhất trên đời này là ghẻ... tầu. Tại sao ghẻ tầu lại vĩ đại thế ? Thưa, nó có từ đời nhà Hán mà kẻ đem "cái ghẻ" sang xứ ta chính là Mã Viện. Sử ký Trần Trọng Kim trang... giòng... quyển... có ghi chuyện này. Muốn biết đúng hơn, xin quý bạn hỏi thằng Vọng vì nó làm tổng đại lý cái ghẻ nhãn hiệu Mã Viện tức ghẻ Tầu..."



Bài diễn văn của anh học trò lớp nhất tung ra như trái bom ngạt. Cả trường biết thằng Vọng ghẻ Tầu. Bọn con gái nhìn nó lắc đầu, nheo mắt khinh bỉ khiến nhiều bận nó phát khóc. Thằng Vũ cũng khoái trò này lắm. Song nó giống mấy thằng đầu têu là chỉ trêu thằng Vọng một lần thôi. Cái thằng trêu thằng Vọng khổ sở suốt ngày này sang ngày khác là thằng Hách con ông tham Lân. Nó cứ gọi thằng vọng là thằng Hoa. Vọng biết thân phận mình con nhà nghèo, ghẻ lở, đành im lặng chịu nhục.


trademark



Thấy Vọng ủ rũ đi, Vũ bỗng thương hại nó. Vũ chợt quên rằng nó đang chờ thằng Vọng để gạ nó vào đội bóng của nó chứ không phải để thương thằng học trò nghèo, ghẻ lở, cô thế. Vũ hỏi Côn :

- Nói với thằng Vọng thế nào hở mày ?

- Sao mày bảo đã có cách ?

Vũ ngẫm nghĩ giây lát. Nó nói :

- Chúng mình đã "a dua" bọn lớp nhất chế nhạo nó, chả biết nó có ghét chúng mình không ?

Côn băn khoăn :

- Tao đang lo thế.

Vọng tới gần bậc hiên trường. Vũ chưa hiểu tình thế nào thì một quả ổi xanh đà ném bộp trúng mũ của thằng Vọng. Và thằng Hách toét miệng cười từ trên bước xuống. Như thường lệ, thằng Hách bi bô :

- Ê, Hoa, đưa tay mày ra xem cái ghẻ Mã viện to bằng con bò chưa ?

Vọng nhìn lên, nín thinh.

- Hoa, bố mày hỏi mày mà không trả lời à ?

Vọng vẫn nín. Nó đã quen nhịn nhục. Hách tới gần đập mạnh vai nó, hất hàm hỏi :

- Mày câm hả con ?

Đôi mắt đỏ ngầu vì bị áp bức. Vọng đau khổ nói :

- Anh để tôi yên thân...

Hách cười gằn :

- Muốn yên thân thì bố mày hỏi mày phải thưa chứ ?

Giọng thằng Vọng chìm đi, lạc lõng :

- Nhưng anh hỏi toi tử tế. Tên tôi là Vọng...

Hách đưa ngón tay chỉ vào quần :

- Tử tế cái con củ c... ông đây này ! Ông cứ gọi mày là Hoa. Ê Hoa, mẹ mày hôm nay có bán xôi chè không ?

Vũ và Côn theo rõi cảnh bắt nạt này từ đầu. Vũ nghiến răng ken két trong khi hai nắm tay Côn bóp chặt lại. Côn bảo Vũ :

- Mày chịu ngồi yên à ?

- Khoan đã.

- Khoan cái "đếch" gì nữa, cách làm thằng Vọng nó đá cho hội mình là đánh hộc máu mồm thằng Hách đi !

- Mày đừng dậy tao, tao chờ con nhà Hách đấm thằng Vọng tao mới ra tay. Mày ra ngăn thằng Khải thằng Ngọc, hai đứa bè thằng Hách trước đi.

Côn rời khỏi gốc bàng chạy ra phía đang cãi nhau. Lúc này thằng Hách đã xắn tay áo. Nó chỉ nắm đấm trước mặt thằng Vọng, dọa nạt :

- Không trả lời bố, con sẽ nếm quả phật thủ này !

-Vọng năn nỉ :

- Tôi xin anh...

Hách xỉa nói :

- Xin cái củ c... á, xin cái gì ?

- Xin anh đừng nói tới mẹ tôi...

- Tao cứ nói, con mụ xôi chè, mẹ thằng Hoa ghẻ tầu !

Nước mắt Vọng ứa ra. Nó buông cái cặp cũ nát xuống sân trường, chắp tay lạy thằng Hách :

- Anh muốn bắt tôi làm gì thì tôi cũng làm đừng nói tới mẹ tôi...

Hách cười sằng sặc, khoái chí :

- Anh em làm chứng lời con nhà Hoa nhé ! Được tao không thèm nói tới con mụ xôi chè nhưng mày phải quỳ xuống lạy tao đi !

Nói dứt câu, Hách phóng chân đá tung cái cặp sách sách của thằng Vọng. Đúng dịp đó, Vũ nhảy vào vòng chiến. Nó nghiêm nét mặt, ra lệnh :

- Hách, mày nhặt cái cặp kia lên đưa cho thằng Vọng !

Hách bị cụt hứng :

- Việc gì đến mày ?

- Việc gì hở ? Cặp của tao đấy. Tao nhờ thằng Vọng mang hộ. Nào, mày có nhặt lên không ?

Vọng giảng hòa :

- Thôi để tôi nhặt...

Vũ quát :

- Để thằng Hách nhặt, tao cấm mày đấy Vọng !

Vọng chết đứng. Nó không ngờ chuyện của nó lại dính vào thằng Vũ, tay "sừng" của lớp nhì một. Thấy Hách đứng trân trân, Vũ dục:

- Mày có nhặt lên không ?

- Việc gì đến mày ?

- Việc gì hở ? Mày xưng bố với thằng Vọng mày bắt nó lạy mày, bây giờ tao xưng bố với mày, tao bắt mày lạy thằng Vọng. A lê, nhặt cặp lên cho bố Vọng mày, Hách !

Hách hung tiết :

- Con củ c... ông đây này !

Vũ xông tới đấm thẳng vào mặt thằng Hách. Hách tránh không kịp, trái đấm trúng mũi, máu cam chảy đầm đìa. Bọn học trò xanh mặt. Hách bị đau lao người vào đấm Vũ. Nhưng nó không phải là địch thủ của thằng Vũ nên ăn đấm nhừ người. Thằng Ngọc vào can thiệp tiếp đến thằng Khải đều bị thằng Côn giữ kéo lại. Vũ sợ hết giờ, đá thêm một phát trúng bụng thằng Hách. Nó ngã sõng soài. Vũ lao tới đặt chân lên mặt nó :

- Con hết đời rồi con ơi !

Hách đau khổ nhìn Vũ như muốn xin tha tội. Vũ hiểu ý nó, bèn ra lệnh :

- Bò ra nhặt cái cặp trao vào tay thằng Vọng và xin lỗi nó đi !

Hách răm rắp tuân lời. Vũ đe :

- Từ nay, bất cứ ở đâu, ông mà thấy mày bắt nạt thằng Vọng thì ông đánh bỏ mẹ !

Nắm chặt tay thằng Vọng. Vũ dắt nó về phía sân sau khiến bọn học trò kinh ngạc. Vọng cũng kinh ngạc đến run rẩy. Mấy năm nó học ở cái trường tiểu học này là mấy năm bị bạn bè hiếp đáp.

Pages: 1, 2
Quán nước đầu làng Ven > Sáng Tác - Thảo Luận - Phổ biến kiến thức > Văn Học & Ngôn Ngữ
Bạn đang xem phiên bản gọn nhẹ của diễn đ n dưới dạng text, để xem các b i viết với đầy đủ mầu sắc v hình ảnh hãy nhấn v o đây !
Invision Power Board © 2001-2024 Invision Power Services, Inc.