Langven.com Forum

Giúp đỡ - Lục lọi - Dân l ng - Lịch
Full Version: Việt Nam Hôm Nay Và Ngày Mai
Quán nước đầu làng Ven > Sáng Tác - Thảo Luận - Phổ biến kiến thức > CLB Văn Hoá - Lịch sử
Pages: 1, 2
Phó Thường Nhân
Vừa rồi kiếm được quyển sách là tập hợp các bài viết của các trí thức VN đương đại hơi « ngoài luồng », mặc dù có nhiều trí thức ở trong nước và cả trí thức ở nước ngoài, và trong số họ có nhiều người đã từng nằm trong tổ tư vấn của các thủ tướng VN như ông Võ Văn Kiệt. Tên quyển sách là « Việt nam hôm nay và ngày mai », chủ biên Trần văn Thọ & Nguyễn xuân Xanh. Một ông là giáo sư ở Nhật (ông Thọ), một ông là học ở Đức nhưng sinh sống ở VN(ông Xanh). Hiện tại tôi mới đọc bài đầu tiên, của ông Huỳnh Bảo Sơn nói về lịch sử VN, tên nó là « đoàn kết để cường thịnh, từ quá khứ nhìn về tương lai ». Cái nhìn về quá khứ của ông Sơn, tức là tìm một cái lô gic của lịch sử VN, tinh thần dân tộc của người Việt được đánh giá theo một cặp phạm trù đó là chính danh và vai trò của giới tinh hoa. Theo đó thì nhà nước VN sẽ mạnh khi nhà nước có chính danh, đồng thời giới tinh hoa không bị xuy đồi tan rã. Trong trường hợp nhà nước không có chính danh, giới tinh hoa xuy đồi thì sẽ dẫn tới nội chiến, phân rã như thời Lê-Mạc, hay thời Trịnh-Nguyễn. Cũng theo ông Sơn, thì chính danh chính trị ở VN là chiến thắng các triều đại TQ xâm lược, và mệnh trời. Còn với giới tinh hoa (có thể tạm gọi là trí thức), thì ông ấy đánh giá xuy đồi là khi cái học không còn có tác dụng thực tế, và giới tinh hoa không biết dựa vào ai (tức là thế lực chính trị nào) để phát triển tài năng.
Bài viết như vậy là rất thú vị, vì rõ ràng ở đây tác giả đã vận dụng tư duy của mình, tìm hiểu theo nhận thức của mình, điểm rất cần thiết của một trí thức nhưng yếu điểm rõ rệt nhất của nó với tôi đó là sự hời hợt, nông cạn, xuy diễn. Càng thú vị hơn khi thấy tác giả dẫn những cuốn sách tư liệu dẫn tới bài viết.Trong đó tôi dẫn ở đây tất cả, vì cái danh sách của nó không dài. Đó là cuốn lịch sử VN của ông Đào Duy Anh, cuốn VN sử lược của Trần Trọng Kim, cuốn tâm lý người An nam của Paul Giran, một học giả pháp thuộc địa, Hoàng Lê Nhất thống chí, Vua Gia long và người Pháp, rồi giấc mơ TQ của Lưu minh Phúc. Tôi không được đọc cuốn vua Gia Long và người Pháp, cũng như cuốn tâm lý người An nam. Nhưng chỉ nhìn qua cái danh sách này, cũng thấy nhận thức lịch sử của tác giả đóng khung lại trong các tác phẩm thời Pháp thuộc, đó là cách nhìn lịch sử VN từ thời thuộc địa, dù cuốn sử của Đào Duy Anh có ứng dụng tư duy của duy vật lịch sử. Sử dụng một tác giả thuộc địa Pháp, thường có đầy định kiến thực dân để nghiên cứu tâm lý dân tộc Việt cũng là điều kỳ lạ, đặc biệt đây là một tác giả thời thực dân nên làm sao nó có thể nhìn người Việt một cách chính xác, nếu không nói là đầy rẫy kỳ thị.
Tất nhiên ta không thể đánh giá bài viết đơn giản qua cái danh sách sách tham khảo, cho nên tôi sẽ phân tích trực tiếp ở đây nhưng quan niệm của tác giả.
1- Tác giả quan niệm rằng, người Việt đã từ đất TQ di cư vào VN. Đây là nhận thức có từ thời Pháp thuộc, và nó cũng xuy diễn ra từ sự tích con cháu Lạc Hồng của các nhà Nho. Theo đó thì Lạc Long Quân gặp Âu Cơ ở hồ Động Đình (tức là vùng gần Thượng Hải ngày nay). Và để giải thích tại sao ta lại ở đồng bằng sông Hồng thì phải..di cư. Quan niệm này được chấp nhận trong các sách vở phổ thông thời thuộc Pháp, rồi được chính quyền miền Nam cũ bê vào sách lịch sử tiểu học. Nhưng quan niệm này là sai. Nó đã được các nhà sử học miền Bắc phân tích từ những thập niên 60, khi nghiên cứu các thần thoại Tầy-Nùng và cấu trúc xã hội ở vùng Việt Bắc. Tôi chỉ tóm gọn nó ở đây. Về truyền thống văn hóa lịch sử, người Việt nam (tôi muốn nói tộc người đông nhất là người Kinh) phát xuất từ đồng bằng sông Hồng, và tổ tiên ta không đi đâu cả. Văn minh đồng bằng sông Hồng lan tỏa, ảnh hưởng vươn lên bao gồm các tộc người khác (dẫn tới một đại gia đình tộc người với 54 sắc tộc hiện nay). Một trong những tộc người đầu tiên kết hợp với người Việt ở đồng bằng sông Hồng là nhóm Tầy Nùng. Nói gọn lại ta có thể quan niệm Lạc Việt là cư dân đồng bằng sông Hồng, Âu Việt là cư dân ở vùng Việt Bắc, chủ yếu là nhóm Tầy Nùng. Như vậy nhà nước Văn Lang là một dạng liên minh bộ lạc Lạc Việt. Nhà nước Âu Lạc với thành Cổ loa là nhà nước liên minh Âu Việt và Lạc Việt. Câu chuyện người Việt bị người Hán đánh đuổi chạy vào VN là fake.
Thời thuộc Pháp, điều này được đưa vào lịch sử thực ra là để nhằm nhụt chí tinh thần yêu nước của người Việt, vì theo đó thì đất VN có phải của ông đâu, ông cũng là dân di cư vào thôi. Người Pháp chiếm VN bây giờ cũng như tổ tiên người việt xâm thực đất việt, như vậy là hòa. Sự khác nhau chỉ là thời gian.
Điều phải giải quyết nữa đó là tại sao các nhà Nho VN lại có quan niệm ấy. Các cụ có quan niệm ấy vì lòng tự hào dân tộc. Ở TQ, lịch sử bắt đầu bằng Tam Hoàng, Ngũ Đế, có thể coi như thủa mới khai sinh trái đất. Cũng theo mô hình ấy các nhà Nho đưa Thần Nông, là một trong ngũ đế (nếu tôi nhớ không nhầm) là ông tổ của người Việt. Điều thú vị là mặc dù Lạc Long quân gặp Âu Cơ ở Hồ Động đình, thì con cả là vua Hùng lại đóng đô ở Việt trì. Để giải thích điều này thì có lý do là Bách Việt, đồng với trăm trứng. Và từ đó hình thành quan niệm đất Việt trải dài từ miền nam sông Trường Giang tới Bắc VN là địa bàn của Bách Việt.
Nhưng khái niệm Bách Việt trong thực tế giống như khái niệm người da đỏ ở châu Mỹ, một bộ tộc da đỏ ở Bắc Mỹ có liên quan gì tới một bộ tộc da đỏ ở vùng sông Amazone (Brazil). Người Việt ở VN với người Việt trong lục địa TQ cũng vậy.
Nếu ta chịu khó sử dụng cả những nhận thức về khảo cổ, thì còn thấy nhiều điều thú vị hơn. Đó là người Việt nam không những là đứa con của nền văn minh sông Hồng mà là đứa con của một nền văn minh sông Hồng và sông Mã. Vào thời điểm nhà Hán đặt ách cai trị ở VN, hai vùng đất này vẫn còn có nhiều khác biệt, vì thế nhà Hán mới lập ra hai quận là Giao Chỉ và Cửu Chân, trong đó đất Cửu Chân rất nhỏ, như vậy tại sao nó không sát nhập làm 1 mà lại chia hai, đặc biệt Giao Chỉ thời Hán bao gồm cả một phần đất Âu lạc tức là phần Việt Bắc trở vào phía nam Quảng Đông Quảng Tây là nơi cư trú của các tộc Tầy Nùng rất khổng lồ so với Cửu chân bé tí..
Tôi sẽ không đi sâu vào vấn đề này, vì đây không phải là nội dung tôi định viết. Chỉ tóm gọn thế này. Người Việt Nam luôn luôn sinh sống ở đồng bằng sông Hồng, đây là cái nôi của Lạc việt. Lạc Việt kết hợp với Âu Việt, tức là vùng cư dân của đồng bào Tầy Nùng tạo thành địa dư của nước VN khởi thủy. Nhưng không chỉ có thế, nó còn kết hợp với văn minh sông Mã (Đông Sơn) để hình thành lên nước VN ngày nay.
(còn tiep)
Phó Thường Nhân
2- Quan niệm sai lầm về quan hệ VN-TQ trong lịch sử. Tác giả, cũng như phần lớn các học giả khác bị formatted bởi sách vở phương Tây đã mắc kẹt trong quan niệm « thụ phong », « triều cống » giữa nhà nước phong kiến VN và TQ. Theo ông Sơn thì một triều đại VN chỉ có thể chính danh khi đánh thắng phong kiến TQ, đồng thời lại phải nhận vai trò chư hầu, chịu tấn phong bởi nhà nước này.
Đầu tiên là nói về vai trò chính danh của các triều đại VN. Mặc dù TQ xâm lược VN nhiều lần trong lịch sử, có thể tính khoảng 100 năm sẽ có một lần, chỉ có 2 triều đại VN đó là Tiền Lê (Lê Đại Hành) và Hậu Lê (Lê lợi) là đúng với nhận xét này. Lê Đại Hành tức Lê Hoàn là tướng thống linh quân đội triều nhà Đinh (tương đương với bộ trưởng bộ quốc phòng ngày này), đã được triều đình nhà Đinh đưa lên ngôi để đánh quân Tống xâm lược (Hầu Nhân Bảo). Còn Lê Lợi thì lập ra nhà Hậu Lê sau kháng chiến chống quân Minh thắng lợi. Ngay cả Ngô Quyền cũng không chính danh bằng chuyện này, vì ông đã đánh bại quân Nam Hán, là một triều đại cát cứ ở Quảng Đông, dù chiến thắng của ông vào năm 939, đã mở ra kỷ nguyên độc lập của VN.
Tất cả các triều đại khác, từ Lý, Trần, Đinh, .. đều kháng chiến chống các triều đại TQ đương thời, nhưng khi nó đã nắm quyền chính danh rồi chứ không phải .. ngồi chờ kháng chiến chống TQ để chính danh. Thậm chí có cả triều đại như nhà Nguyễn, không có chiến tranh với TQ, dù triều đại này « hưởng sái » thắng lợi lịch sử của quân Tây sơn đánh bại quân Thanh.
Nếu nhìn kỹ nữa, thì ta sẽ thấy mỗi lần chiến tranh đều có sự khác biệt, ví dụ cuộc kháng chiến chống quân Tống của nhà Lý không đơn giản là một cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà nó còn là sự chia cắt phần đất Âu Việt (tức là phần Việt Bắc, nam quang Tây quảng đông với TQ), vì thế mới có việc Lý thường Kiệt đánh thành Nam ninh. Nhà Trần đã chính danh thông qua việc đưa Lý Chiêu Hoàng vào chùa, chứ không phải đợi đến cả chục năm sau khi đánh quân Nguyên lần thứ nhất mới chinh danh. Gần ta hơn cả, nước VN dân chủ cộng hòa, tiền thân của nước VN hiện đại đã ra đời trong kháng chiến chống Pháp, rồi Mỹ từ năm 1945, đâu có phải đợi tới năm 1979 để .. chính danh vì chiến tranh bảo vệ biên giới.
Như vậy một nhà nước VN chính danh là nhà nước bảo vệ độc lập dân tộc thực sự, và có khả năng bảo vệ nền độc lập ấy. Do TQ là một nước láng giềng lớn, do chính sách bành trướng của các triều đại TQ mà kháng chiến chống sự xâm lược của TQ hay xẩy ra. Nhưng TQ không phải là nước duy nhất đe dọa VN, gần đây nhất Pháp và Mỹ đã từng xâm lược, thống trị VN là một ví dụ.
Cách nhìn nhận của ông Sơn, do ảnh hưởng của các quyển sử kiểu Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim đã đưa người ta tới những kết luận nguy hiểm. Đó là dân tộc VN tồn tại vì đối kháng với TQ, từ đó có thể xuy ra là TQ là kẻ thù truyền kiếp. Nếu đã là kẻ thù truyền kiếp thì phải tiêu diệt được TQ hay nhờ một nước khác chống lưng cho để tồn tại. Không phải ngẫu nhiên mà quyển VN sử lược là quyển sử thời Pháp thuộc, vì ngầm ý của nó là nhờ có Pháp VN mới thoát khỏi bàn tay TQ, trong khi VN độc lập từ năm 939. Tư duy của quyển sử này cũng phù hợp với chế độ miền Nam về sau từ thời 1954 tới 1975, vì vai trò của Pháp được chuyển cho Mỹ, đồng thời nó cũng phù hợp với tuyên truyền của miền Nam là cuộc kháng chiến chống Mỹ là của « Nga Xô Trung cộng ».
Cách nhìn được bú mớm bởi phương Tây này (ở đây là thực dân Pháp), dù được một ông tên là Trần Trọng Kim viết ra, và nhân vật này đã từng lập chính phủ thân Nhật chống Pháp, cũng không thể xóa được cái điều là ông ta bị formatted bởi người Pháp. Ta cũng có thể trân trọng ông ấy (đây là thái độ của tôi) rằng trong hoàn cảnh ấy, ông ấy phải viết như thế, như một dạng mập mờ để khích động tinh thần yêu nước của người Việt. Nhưng hiện nay, khi nhà nước VN đã độc lập, thì sự mập mờ này phải được làm sáng tỏ, không nên sa vào. Trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ, bảo vệ biên giới, người VN đã chứng tỏ lòng yêu nước của mình, đây là lúc cần gạt đi những nọc độc mà sự mập mờ này tạo ra dù là có ý thức hay vô ý thức.
(còn tiếp)
Phó Thường Nhân
Một điều nữa tác giả cũng nhầm lẫn, đó là việc đánh giá việc « thụ phong », « triều cống », như một dạng phụ thuộc của VN vào TQ. Vấn đề « triều cống » này tôi đã từng nói tới. Để hiểu thực chất mối quan hệ ngoại giao này thế nào, thì điều quan trọng nhất là phải xem nó được thực thi thể hiện thế nào trong lịch sử, chứ không nên mắc kẹt vào ngôn ngữ rồi xuy diễn nó ra. Lấy một ví dụ gần ta hơn. Chế độ miền Nam (VN cộng hòa) 1954-1975 cũ là một thực thể do Mỹ dựng lên, hoàn toàn phụ thuộc vào Mỹ. Nhưng đố các bác tìm được trong các văn bản tài liệu được ký kết giữa chế độ này với Mỹ chứng tỏ nó phụ thuộc vào Mỹ. Chính vì thế phải xét theo cách thức nó được đưa vào thực tế, úng dụng ra sao mới quan trọng.
Trong thực tế, triều cống và thụ phong chỉ là ngôn ngữ ngoại giao giữa chế độ phong kiến Trung quốc với các nước láng giềng. Khác với từ vựng dẫn tới xuy diễn nhầm lẫn, nó là sự chứng tỏ việc nhà nước phong kiến TQ không thể, không có quyền lực gì với những vùng đất và vương quốc này. Như tôi đã nói, khi triều cống thì bên nhận cũng phải « lại quả » để chứng tỏ mình là « ông chủ », không « mất mặt », nó là một trao đổi có dạng thương mại.
Do vị thế địa lý xa xôi, các lần triều cống của VN rất ít (so với nhà nước phong kiến trên bán đảo Triều tiên) chẳng hạn. Thậm chí các vường triều Triều Tiên còn đi cống nhiều hơn, để mỗi lần triều cống ấy là được lại quả, đồng thời có thể buôn bán, thương mại, trao đổi, tìm các kỹ thuật mới. Có nước không được triều cống (như Nhật bản) thì thường lợi dụng việc trao đổi về phật giáo để làm việc này.
Trong 3 nước nằm trong thế giới Nho giáo (VN, Triều tiên, Nhật bản), thì VN là nước ít có quan hệ với TQ nhất, vì VN còn có một nguồn trao đổi nữa đó là với các tiểu quốc như Cham pa. Điều mà hai nước còn lại không có.
Mỗi khi trong xã hội VN có loạn lạc, do mâu thuẫn chính trị xã hội gây ra, thì TQ lại xâm lược VN. Nếu quả thực nền độc lập của VN chỉ là một thứ chư hầu, có nghĩa là TQ chi phối được hết cả (như Mỹ chi phối chính quyền miền Nam ngày trước), thì nó việc gì phải xâm lược. Nếu đọc lịch sử VN, người ta sẽ thấy không bao giờ có chuyện chính quyền TQ đặt được một nhân vật lên làm vua, giống như Mỹ dựng lên Ngô Đình Diệm hay Nguyễn văn Thiệu, mà luôn phải chấp nhận chuyện đã rồi.
Như vậy nước VN luôn độc lập với TQ, và do cần các quan hệ kinh tế, chính trị mà VN nhận « thụ phong », « triều cống » tức là thiết lập quan hệ ngoại giao với TQ. Như vậy ở đây không có hai điều mà phương Tây cố gắng đưa vào từ thời thuộc địa đó là :
1- VN luôn phải đánh nhau với TQ để chính danh.
2- VN phải chịu làm chư hầu TQ vì sợ họ đánh.
Trong thực tế, chính danh của các triều đại VN là do nhận thức dân tộc, và nhận thức cộng đồng đã tồn tại rất sớm, và vì thế luôn có xung đột với các triều đại TQ muốn mở rộng bờ cõi của họ. Quan hệ ngoại giao của VN với TQ không phải là quan hệ chư hầu (giống như quan hệ Mỹ với chính quyền miền Nam), nó là quan hệ ngoại giao thông thường giữa hai thực thể, nhà nước độc lập.
Khi đọc lịch sử của các nhà Nho VN viết, vì họ là những sử gia truyền thống của dân tộc, ta hoàn toàn không thấy mùi vị « đối địch TQ », là « chư hầu » này. Dạng nhận thức này chỉ tồn tại ở VN từ thời thực dân Pháp, trong một chính sách chính trị chia để trị, « tạo nghêu tạo sò » để họ thủ lợi với vai trò ngư ông. Nó cũng tiếp tục được các chế độ là chư hầu thực sự (với Mỹ với Pháp) ôm lấy vì nó cũng phục vụ lợi ích cho các nhóm người này. Từ khi có đổi mới, thì thứ tư duy thực dân này lại quay trở lại núp bóng « tư duy đổi mới » « cải cách », trong khi nó chỉ là sao chép, xào xáo lại tuyên truyền của chế độ thực dân Pháp, và cái đuôi của nó là chế độ miền Nam cũ tạo ra.
Phó Thường Nhân
Do bài viết nói tới sự đoàn kết dân tộc, và bất chấp mọi sai sót trong nhận thức của tác giả như tôi nói ở trên, tác giả cũng khẳng định được đoàn kết dân tộc là điều kiện cần để phát triển đất nước, có điều lô gic tác giả muốn sử dụng để đoàn kết lại sai, vì nó là lô gic chống TQ toàn phần, lấy chống TQ làm cơ sở đoàn kết (vì các triều đại ở VN đều chính danh do chống TQ thành công). Nhưng cũng từ ý tưởng đoàn kết mà tác giả tìm cách phân tích những hình thái cát cứ trong lịch sử VN, bắt đầu từ thời Hậu Lê, với các cuộc xung đột Lê-Mạc, Trịnh-Mạc, Trịnh – Nguyễn. Không hiểu sao tác giả không đề cập tới việc Pháp chia VN thành ba nước, rồi Mỹ muốn chia VN làm 2 nước. Như tôi đã nói từ đầu, tác giả quan niệm có sự chia cắt cát cứ này vì không có chính danh và tầng lớp tinh hoa không biết dựa vào ai để phục vụ. Với tôi rất đáng tiếc là những phân tích này của tác giả cũng sai toàn tập. Chính xác hơn nữa, việc mất phương hướng của giới tinh hoa (tức là tầng lớp trí thức), cũng như việc chính danh lu mờ là hệ quả, là hiệu ứng phụ của một quá trình cát cứ chia cắt chứ nó không phải nguyên nhân.
Như tôi đã từng nói ở trong forum này, có lẽ cả chục năm trước, đó là nếu lấy lịch sử VN từ thời Hậu Lê, thì thời gian VN thống nhất là rất ngắn, ngắn hơn nhiều thời gian bị chia cắt. Từ thời kỳ này, chỉ có 2 lần nước VN thống nhất đó là nhà Nguyễn (khoảng 100 năm tính tới đời Tự Đức) và nhà nước VN hiện tại từ năm 1975. Trên một độ dài lịch sử khoảng 400 năm, sự thống nhất bởi một nhà nước VN thống nhất chỉ khoảng 150 năm. Ngay vào thời nhà Nguyễn, triều đại này cũng vấp phải những sự phản ứng vùng miền như ở ngoài Bắc (do tinh thần phù Lê đểu), hay ở miền Nam (nội loạn Lê văn Khôi ở Sài gòn). Sau lưng những vụ nội loạn này nhiều khi có bóng dáng của giáo sĩ thiên chúa giáo, mà khởi nghĩa Lê Duy Mật ở ngoài bắc, và nội loạn Lê văn Khôi ở Sài gòn là những ví dụ điển hình.Hệ quả của vấn đề này đó là ở VN dù có một tinh thần dân tộc, các truyền thống vùng miền vẫn rất mạnh. Như vậy phải làm sao để « thống nhất trong đa dạng » (như bây giờ vẫn nói), để sự đa dạng làm giầu thêm văn hóa, nhưng không thể bị lợi dụng để chia cắt đất nước.
Hãy phân tích vấn đề chính danh. Một nhà nước VN chính danh là nhà nước bảo vệ được chủ quyền và tổ chức được sự phát triển đất nước, để cho tất cả cộng đồng dân tộc đều được hưởng. Nhưng chính danh chỉ là điều kiện cần, là đầu mối để tập hợp lực lượng. Nếu lực lượng này không đủ sức, thì dù có chính danh cũng không làm được gì. Chế độ thực dân Pháp ở VN, chế độ miền Nam cũ không có chính danh nhưng nó vẫn có thể tồn tại. Các nhà Nho phân biệt điều này rất rõ. Nếu có chính danh thì đó là vương đạo, là chế độ của thánh hiền. Nếu không có chính danh, thì nó là bá đạo. Chế độ thực dân Pháp, chế độ Ngô Đình Diệm là những chế độ bá đạo điển hình, chế độ Nguyễn Văn Thiệu dù không còn man rợ như chế độ Ngô Đình Diệm cũng không phải là chế độ chính danh, do nó hoàn toàn bị điểu khiển bởi người Mỹ. Như vậy một nhà nước sẽ lâm vào cảnh chia cắt khi chính danh không có sức mạnh tổ chức để bảo vệ nó. Ta có thể thấy điều này trong trường hợp xung đột Lê-Mạc. Nhà Lê có chính danh, nhưng quyền lực nằm trong tay Mạc Đăng Dung dẫn tới xung đột do Mạc Đăng Dung, hay nhà Mạc không đại diện được cho toàn bộ dân tộc mà chỉ là một lợi ích nhóm cát cứ. Khi Trịnh Nguyễn phân tranh thì cả hai đều lấy chính danh là phù Lê để thực hiện lợi ích riêng. Như vậy việc thiếu đi một cơ cấu tổ chức về quyền lực để đảm bảo cho chính danh có thể tồn tại là nguyên nhân tạo ra loạn lạc.
Chính vì biết điều này, mà khi vua Gia Long Nguyễn Ánh lên ngôi, vua đã bãi bỏ chức tể tướng (tương đương với thủ tướng hiện tại) để quyền điều hành và quyền chính danh chỉ là một người, chính vì thế triều nhà Nguyễn không có cát cứ. Chế độ của nhà Nguyễn đã hoàn thiện tới đỉnh điểm với triều đại của vua Minh Mạng. Và không phải ngẫu nhiên, thời Minh Mạng là đỉnh cao của chế độ phong kiến tập quyền VN. Giống như cái đỉnh maximum của hàm số parabol trong toán học.
Cách đây mấy năm, trước khi thủ tướng Dũng « nghỉ hưu chế độ », tôi đã từng nói vào thời điểm này VN dường như đã xuất hiện chế độ Vua Lê chúa Trịnh. Nguyên nhân ? do đảng không còn bàn tay cơ chế điều khiển nhân sự là ủy ban kiểm tra trung ương nữa, do nó bị giải tán, đồng thời tổ chức chống tham nhũng lại rơi vào tay thủ tướng. Cũng vào thời gian này, các « trí sĩ dân chủ » (hiểu là muốn đa đảng) cứ ngoạc mồm ra nói rằng một đảng là « vừa đá bóng vừa thổi còi », nhưng chính việc đảng bỏ rơi nhiệm vụ kiểm tra, đã khiến xẩy ra tình trạng vừa đá bóng vừa thổi còi, chính danh không có cơ chế để thực hiện thì tất nhiên hình thái Vua Lê Chúa Trịnh xuất hiện làm mờ nhạt chính danh đi.
Nhưng việc chính danh phải có cơ chế để sử dụng chính danh không đủ, mà còn có vấn đề khác là cát cứ (với từ mới thì ta gọi là địa phương chủ nghĩa). Cát cứ thường xẩy ra trong một chế độ có truyền thống hành chính lâu đời như các nước ở Đông Á, mà VN là một nước như thế. Cát cứ xẩy ra nếu lợi ích nhóm kinh tế trùng với quyền lực hành chính địa phương. Hiện tại ở VN có từ « trên nóng dưới lạnh », « trên có quyết sách dưới có đối sách » chính là chỉ điều này. Việc này xẩy ra vì ở VN, như tôi đã nói ở trên có một truyền thống địa phương vùng miền mạnh, đồng thời thị trường toàn quốc không đều. Ở VN không có một thị trường dân tộc thống nhất mà là nhiều thị trường đồng tồn tại, gắn với một trung tâm kinh tế như thành phố HCM, hay Hà nội. Đây là một vấn đề lịch sử, cũng như là quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt kinh tế nhằm vào xuất khẩu. Do khi kinh tế xuất nhập khẩu là chính, địa điểm sản xuất sẽ gắn bó với thị trường tiêu thụ hàng hóa của nó hơn, tức là không phải VN, chứ không tạo ra gắn kết vùng miền trong một nước. Vì thế phát triển thị trường nội địa cho doanh nghiệp VN là một cách chữa chạy cơ bản vấn đề cát cứ này.
Trong khi chờ đợi một thị trường thống nhất toàn quốc hướng nội, có sức mạnh hơn, để đập tan sự cát cứ, phải có chính sách điều khiển nhân sự địa phương không để chúng bám rễ vào một nơi cố định, tạo dưng nên một đế chế địa phương. Lấy một ví dụ ngay trước mắt. Hiện tại báo chí VN cú thỉnh thoảng lại thập thò đưa ra vấn đề lập một thứ chính quyền địa phương đặc biệt, mà họ gọi là chế độ thị trưởng cho thành phố HCM. Do không có thông tin, tôi không rõ bản chất của kiểu quản lý này là gì. Nhưng nếu nó là một thứ tự trị, bầu bán tại chỗ, Trung ương không can thiệp được, thì chắc chắn dẫn tới cát cứ. Tại sao ? vì hiện tại với vai trò đầu tầu xuất khẩu, quan hệ giữa TP HCM với các tỉnh khác ở Nam Bộ là một quan hệ thuộc địa. Nó hút máu mỡ của Nam Bộ vào đây mà không có sự lại quả. Sự lại quả thực ra đã được thực hiện qua việc đóng thuế cho nhà nước, để rồi từ đó nhà nước phân chia lại. Nếu bây giờ cái đường dây ấy bị cắt đứt, do lợi ích cá thể của thành phố này tạo ra và có thể thổi bùng lên, thì sẽ dẫn tới cát cứ.
root
Nói chung ông nào có tư tưởng bài Tàu là dốt rồi, không cần phải đọc thêm sách của ông đó làm gì cho mất công. Tàu chính là kho nguyên liệu và là thị trường xuất khẩu lớn nhất của VN. VN có may mắn là ở cạnh Tàu, giao thương đường bộ cực kỳ tiện lợi. Nếu Tàu mà lên được thì VN cũng sẽ lên theo, nên mừng mới phải!
Phó Thường Nhân
@root,
Nhận xét của root hơi cực đoan. Quyển sách mà tôi lấy làm đầu đề chủ đề này để .. bình loạn xuất bản cũng gần đây 2020. Điều thú vị của nó đó là sự tập hợp các bài viết của nhiều trí thức, có thể gọi là trí thức của xã hội dân sự, vì họ không phải là những người lãnh đạo cầm chịch nền kinh tế, cơ sở sản xuất ở VN hiện tại, nhận thức của họ là nhận thức tư vấn, có tính chất chủ quan, mặc dù có người đã từng là tư vấn của ông Kiệt, hay của chủ tịch nước VN hiện tại. Điều thú vị nhất với tôi đó là sự tập hợp của các diện mạo trí thức khác nhau ở VN và nước ngoài, và khi đọc họ thì điều đầu tiên tôi nghĩ tới đó là vấn đề « phi phương tây hóa nhận thức » (tiếng Pháp desoccidentalisation). Phi phương Tây hóa nhận thức không phải là đưa ra một nhận thức chống các giá trị văn hóa của phương Tây, mà phải vượt lên trên nó để tìm hiểu tại sao nó lại nói thế, vì lý do gì, nguyên nhân ra sao.. và từ đó mới có thể đổi hệ quy chiếu, như tôi đã từng nói. Tại sao lại có vấn đề phi phương tây hóa nhận thức mà không phải là phi trung quốc, hay phi Nga, .. bởi vì càng ngày số lượng người việt học tập, sinh hoạt, trao đổi với phương tây càng cao, .. áp lực của tuyên truyền phương tây ngày càng lớn, và tất nhiên việc những người nhận họ là trí thức sẽ vay mượn cái nhìn của phương Tây một cách ý thức hay vô y thức càng nhiều.
Hiện tại lối sống phương Tây, hay hướng theo « chuẩn phương Tây » ở VN ngày càng nhiều, ngay ở Hà nội, chỉ cần root tới các khu chung cư cao cấp kiểu Time city, Royal city, là sẽ thấy một không gian fake kiểu phương Tây được tạo ra một cách cố ý để câu khách. Một phương Tây, được nhìn qua con mắt tầng lớp khá giả ở VN. Hình thức fake này không đáng ngại, dù họ đã nhầm hiện đại hóa là âu hóa. Nhưng nếu nhận thức con người cũng méo mó ngộ nhận như cái cảnh quan fake phương Tây này tạo ra thì lại nguy hiểm.
Trong tập sách mà tôi đang bình loạn, không phải tác giả nào trí thức nào cũng thế, và cũng có những bài viết hay, thường là bài viết có tính chuyên môn, còn nếu về nhận thức chúng, thì nhiều khi nhận thức của họ kiểu phương Tây cũng fake như cảnh quan phương Tây ở mấy cái chung cư mà tôi nói ở trên. (tất nhiên là theo nhận xét chủ quan của tôi).
Phó Thường Nhân
Tôi tiếp tục phân tích bài viết đầu tiên của quyển sách, nhưng không phải bài viết nào trong quyển sách này tôi sẽ phân tích dài hơi như thế này, đây chỉ là sự tình cờ mà thôi. Toàn bộ cuốn sách có khoảng 3,4 bài viết sẽ được tôi phân tích kỹ như thế này.
Tiếp tục về vấn đề cát cứ. Tóm lại muốn tìm hiểu cơ chế cát cứ, chia rẽ ở VN thì phải tìm hiểu trong cơ cấu tổ chức, mối quan hệ giữa quyền lực địa phương và trung ương, lợi ích nhóm, mối quan hệ giữa quyền lực trung ương, lợi ích nhóm đồng thời dị biệt vùng miền. Nếu những điều này trùng với nhau lợi dụng được nhau kiểu (lợi ích nhóm = chính quyền địa phương= dị biệt vùng miền, dấu bằng tôi dùng ở đây phải hiểu như sự tương đồng chứ không phải là bằng nhau) thì sẽ xẩy ra cát cứ, bất chấp lòng yêu nước của người Việt cũng như sự chính danh của nhà nước.
Hiện tại nhà nước VN có những cấu trúc cơ chế đó. Nó vừa là sản phẩm của 3 cuộc kháng chiến (chống Pháp, Mỹ, TQ), là sự sáng tạo của chủ nghĩa Mác Lê nin kiểu Nho giáo VN, tức là chủ nghĩa Mác Lê nin hoàn toàn được bản địa hóa, vừa là sự kế thừa truyền thống nhà nước VN từ thời phong kiến. Nó không phải là một hình thức ngoại lại được nhập khẩu do bị ép buộc theo một mô hình nào.
Bây giờ ta hãy điểm lại những điểm sáng và đặc trưng của nó.
1- Cấu trúc đầu tiên để thống nhất đất nước chính là ĐẢNG. Ở VN nhà nước dựa vào ĐẢNG trong một hệ thống ĐẢNG-NHÀ NƯỚC. Cấu trúc thống nhất này là duy nhất, ngoài nó ra ta chỉ có các cấu trúc vùng miền, địa phương, thành thị, nông thôn.
2- Cấu trúc ĐẢNG này thống nhất và điều khiển nhà nước qua hai bàn tay quyền lực
2.1 về mặt tổ chức đó là ủy ban kiểm tra trung ương và nội chính. Tổ chức này nhằm điều khiển, kiểm tra nhân lực
2.2 Về mặt nhà nước thâm sâu đó là sự chỉ đạo trực tiếp của ĐẢNG với hai cơ cấu quyền lực cứng đó là quân đội và an ninh. Ở VN, sự chỉ đạo này thông qua các quân ủy trung ương.
3- Các tổ chức địa phương về hành chính không trùng với các hệ thống địa phương về quân sự. Ở VN các quân khu (ta có 9 quân khu) thì chúng không trùng với hệ thống hành chính địa phương, mặc dù mỗi địa phương đều có dân quân, du kích.
Hiệu quả của những đặc trưng trên đó là cơ cấu chống cát cứ, tạo ra một nhà nước mạnh. Với tôi, nếu một nước nằm trong thế giới thứ 3, ngoài phương Tây, thì hình thức nhà nước VN có thể coi là tối ưu. Điều duy nhất nó phải hoàn thiện đó là chuyển các quan hệ giữa những thực thể này (ĐẢng, nhà nước, chính quyền Trung ương, địa phương) theo một mối quan hệ pháp quyền theo luật mà không phải là cơ chế hành chính đơn thuần.
Điều mà ở VN xã hội hay bức xúc, và thường được lợi dụng để cổ vũ cho « đa nguyên đa đảng », đó là hai vấn đề :
1- Quan hệ giữa giới kinh doanh, sản xuất với hệ thống hành chính, trong một cơ chế xin -cho (như kiểu dân nói « hành là chính »).
2- Tính chất quan liêu áp chế của bộ máy hành chính với người dân, điều đi ngược lại quan hệ sản xuất kiểu thị trường tự do, gây tâm lý ức chế.
Nhưng hai điều này không thể giải quyết bằng một hệ thống chính trị đa nguyên đa đảng, mà chỉ làm trầm trọng nó hơn. Nhưng vấn đề trên liên quan tới pháp quyền, cơ chế thị trường và quản lý nhân lực theo khoa học (có thể gọi là management như trong tiếng Anh), và cơ chế thực thi khoa học (ví dụ việc số hóa quản lý hành chính sẽ làm thay đổi và làm cho hình thức quan liêu mất tác dụng)
Phải nói thêm là tác giả Huỳnh Bửu Sơn không nói tới vấn đề này, nhưng tiện, cho khỏi lạc đàn thì tôi nói ở đây, để chứng minh rằng lòng yêu nước của người VN chỉ là điều kiện cần để đoàn kết và phát triển đất nước, nó không ĐỦ, và nếu lòng yêu nước này chỉ hiểu là một thái độ tâm lý tinh thần chống TQ thì lại sai toàn bộ, vì như thế ông ta đã làm giảm hẳn giá trị lòng yêu nước của người Việt, mà việc chống TQ xâm lược chỉ là một khía cạnh, trong muôn vàn khía cạnh của nó.
Trong vấn đề cát cứ ở VN, ngoài những lý do nội tại tôi nói ở trên, nó còn có tác động của bên ngoài nữa. Thời thực dân Pháp chia VN làm 3 miền, thời kháng chiến chống Mỹ, chia cắt làm 2 miền, tác động của nước ngoài vào rất rõ ràng nên không có gì phải nói thêm. Nhưng ngay cả thời cát cứ Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn cũng có yếu tố này.
Ví dụ với thời nhà Mạc, nhà Mạc thực sự bị tiêu diệt chỉ khi nhà Thanh lên thay thế nhà Minh. Lúc này chúa Trịnh đã khôn ngoan ủng hộ nhà Thanh, trong khi hậu duệ nhà Mạc ở Cao bằng vẫn bám vào nhà Minh. Kết quả là nhà Mạc bị loại bỏ hoàn toàn.
Trong cuộc xung đột Trịnh-Nguyễn cũng có vấn đề nước ngoài này, nhưng không ở dạng chính trị trực tiếp. Có lẽ rất ít ai khi nghiên cứu thời Trịnh-Nguyễn này đặt câu hỏi tại sao chúa Nguyễn lại có đủ thế lực để chống chọi với nhà Trịnh, trong khi đất đai lãnh thổ dân số bé hơn rất nhiều. Câu trả lời phải tìm trong quan hệ của các công ty Đông Ấn mà phương Tây lập ra kinh doanh ở đây. Sức mạnh của chúa Nguyễn đã được bù bằng thương mại với phương Tây mà dấu vết vẫn để lại tới ngày nay là thành phố Hội An. Tất nhiên là ở ngoài Bắc chúa Trịnh cũng giao thương với phương Tây qua phố Hiến (Hưng yên), nhưng kinh tế thương mại đã giúp chúa Nguyễn có vật lực đủ sức chống lại chúa Trịnh (nhưng không thể chiến thắng). Chính vì thế vào giai đoạn cuối, khi phương Tây chuyển từ buôn bán sang xâm lược thuộc địa, thì sức ép thuế khóa của chúa Nguyễn lên nông dân đã làm bùng nổ khởi nghĩa Tây sơn. Cũng bị tác động tương tự, nhưng nhờ có một nền kinh tế nội địa mạnh hơn (tiềm lực của đồng bằng sông Hồng) khiến chúa Trịnh đánh thắng được chúa Nguyễn để rồi cuối cùng cũng bị nhà Tây Sơn đánh bại.
Phó Thường Nhân
Tiếp tới đây tôi sẽ bình luận về hai bài viết về Sài gòn. Hai bài này có thể nói bổ xung cho nhau. Bài đầu tiên của tác giả Trần Hữu Phúc Tiến có tên là « Sài gòn mỹ lệ xuyên không gian và thời gian » điểm những thông tin về lịch sử hình thành Sài gòn, từ khi nó còn là một làng chài biên giới của đế quốc Phù Nam cũ, rồi sự phát triển kinh tế của thành phố. Bài thứ 2 bàn về vấn đề văn hóa, bảo tồn văn hóa cổ của thành phố của tác giả Nguyễn Thị Hậu có tên là « Bản sắc đô thành Sài gòn trong bối cảnh Nam Bộ »
Mỗi bài viết chỉ khoảng 4,5 trang giấy, nên nó cũng chỉ có tính khái quát có nhận định của tác giả. Với bài đầu tiên điều làm tôi chú ý là Sài gon là thủ phủ (hay thủ đô) của chế độ do Pháp lập ra vào năm 1949 cho tới khi người Pháp rút vào năm 1954, đây là điều bất ngờ với tôi, vì tôi chỉ biết thành phố này là thủ đô, trung tâm chính trị của miền nam cộng hòa cũ (1954-1975), không ngờ người Pháp lúc « trao trả độc lập giả » cho Bảo Đại (1948) cũng chọn Sài gòn làm thủ đô mà không phải là Huế, hay Hà nội.
Thực ra cũng ít ai để ý tới điều này, đặc biệt là trong kháng chiến chống Pháp, vì Pháp lập ra nó chỉ để đẹp lòng Mỹ, do Mỹ lúc đó đã trở thành nước viện trợ quân sự lớn nhất cho Pháp. Từ năm 1948 tới lúc kháng chiến chống Pháp kết thúc (1954), viện trợ Mỹ đã chiếm tới 3/4 chi phí chiến tranh của Pháp ở VN.
Bài viết thứ 2 thú vị ở chỗ tác giả đã coi Sài gon là đặc trưng của văn hóa Nam Bộ, là một thành phố Nam bộ là một thành phố sông nước, bà cũng đề cập tới vấn đề bảo toàn di sản văn hóa của một thành phố « trẻ » (tương đối thôi vì Sài gon cũng có 320 tuổi).
Nhưng điều tôi viết tiếp sau ở đây về Sài gòn không phải để bình luận hai bài viết trên, mà để bổ xung những « cảm nhận Sài gòn » của tôi, và cũng để giải thích quan niệm của tôi về quan hệ thuộc địa giữa thành phố này và vùng Nam bộ về kinh tế, mà tôi đã nói trong phần viết trước.
Khi nói tới Sài gòn, người ta thường dùng tính từ trẻ để nói tới nó. Nhưng tôi sẽ dùng một tính từ khác ngược lại, đây là một thành phố già. Thành phố Sài gòn già bởi vì nó là thành phố phương Tây đầu tiên được dựng trên đất VN. Sài gòn cũng như Nam bộ là thuộc địa Pháp từ năm 1862, cũng là vùng đất đầu tiên bị thực dân Pháp chiếm ở VN, và sau đó lại được Pháp cai trị trực tiếp cho tới năm 1954, dưới hình thức thuộc địa, trong khi ở Bắc Kỳ và Trung kỳ, Pháp núp sau lưng chính quyền phong kiến bù nhìn hậu Nguyễn.
Khi người VN đi du lịch ở Pháp, thường người ta hay thích xuống miền Nam Pháp, nơi có các thành phố như Monaco, Nice, Cannes .. và họ sẽ rất ngạc nhiên là vùng đất Pháp này chỉ nhập vào Pháp từ khoảng những năm 1862, tức là tương đương với Sài gòn. Tất nhiên những vùng đất này là ở châu Âu, nhưng qua đó ta có thể thấy quan hệ của vùng Sài gòn với Pháp hầu như không thua kém gì với một số vùng đất của nước Pháp hiện tại, như tôi nói tên ở đây. Sài gòn và Nam bộ cũng có quy chế thuộc địa, khác với Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Do văn hóa phương Tây chủ yếu là văn hóa đô thị, cho nên khác với vùng lục tỉnh, ảnh hưởng văn hóa Pháp với Sài gòn sâu đậm hơn so với Nam Bộ, vì cung là văn hóa đô thị. Ta có thể coi Sài gòn như một thành phố Pháp cũng được. Nó Pháp tới mức, hiện tại, tôi không thể làm một thống kê, nhưng nếu hỏi một người Pháp đi du lịch ở VN, thì phần lớn người ta không thích Sài gòn, vì nó .. Pháp quá, mà thích Hà nội hơn, do thủ đô Hà nội có những đặc trưng của một đô thị châu Á mà Sài gon thì không.
Từ đó nó dẫn tới một hệ quả, đó là tính chất vùng miền ở Sài gòn có tính chất phương Tây, chứ nó không có tính chất địa phương thuần túy VN, đầu tiên là ảnh hưởng Pháp và sau đó là Mỹ. Còn tất nhiên nó cũng có bản chất Nam Bộ, như tác giả Nguyễn Thị Hậu nói, vì người Sài gòn cũng là người Việt nam. Với tôi, văn hóa Sài gòn là một sự hợp lưu giữa văn hóa Nam Bộ và văn hóa Pháp.
Trên thế giới có một số thành phố kiểu như Sài gòn, và nếu tính về số lượng thì cũng không nhiều. Ta có thể kể ra Bombay, Cancuta ở Ấn độ, Hồng Công, Thượng Hải ở TQ, Singapure (Malaysia), và nó cũng đảm nhiệm vai trò kinh tế tương tự như những thành phố này khi được lập ra, đó là đầu cầu thuộc địa để khai thác vùng thuộc địa background ở đằng sau. Có thành phố như Cancuta hiện tại không còn vai trò này nữa, do việc cái backgound kinh tế của nó là vùng bengale (Ấn độ) bị chia thành hai nước một phần là Ấn độ một phần là Băng la đét. Ngược lại những thành phố còn lại đều là nhưng đầu tầu kinh tế trên thế giới hiện tại, ngay cả khi những nước này đã giành được độc lập.Bombay vẫn là đầu tầu kinh tế Ấn độ, Thượng Hải là đầu tầu của TQ, Hồng công, Sing là những thành phố có quy mô kinh tế lớn (PNB của Sing gần bằng PNB VN, mà ta mới chỉ vượt được rất gần đây, trong khi nó chỉ là một nhà nước-thành phố). Bản thân Sài gon cũng là đầu tầu kinh tế của VN, đóng góp gần 1/3 PNB.
Ở trên tôi có nói Sài gòn có quan hệ chính trị kinh tế với Pháp còn trước cả một số vùng đất Pháp hiện tại, nhưng ta phải nhận thức được rằng, người của những vùng đất này khi nhập Pháp được coi là người Pháp, ngược lại ở Sài gòn, lục tỉnh thì không. Người VN vẫn có một quy chế « bản địa » bị kỳ thị, nhưng mặc dù thế đây cũng là vùng đất mà Pháp trực trị, so với các vùng có quy chế bảo hộ như ở Bắc Kỳ và Trung kỳ thì vẫn khấm khá hơn, do nó chỉ có một tròng ở cổ, trong khi ở Bắc Kỳ và Trung kỳ là hai tròng chính quyền thực dân Pháp và chính quyền phong kiến mạt nguyễn, tay sai của nó.
Như vậy với tôi, thành phố Sài gòn là một thành phố phương Tây già nhất ở VN nhưng là một thành phố phương Tây thuộc địa, không phải là thành phố phương Tây phương Tây.
Phó Thường Nhân
Từ những nhận xét trên ta có thể thấy những điểm yếu và mạnh của thành phố như một thực thể kinh tế văn hóa. Điểm mạnh của thành phố là sự mở cửa với bên ngoài, với thế giới, Sài gòn có lẽ là thành phố có tính quốc tế duy nhất ở VN. Điểm yếu của nó đó là khởi thủy, nó được xây dựng trên một nền tảng kinh tế thuộc địa. Thành phố có nhiệm vụ hút máu mỡ thuộc địa đem về chính quốc là Pháp. Ta có thể tưởng tượng nó với một hình ảnh như một cái cây cổ thụ có bộ rễ rất lớn hút hết đất mầu khiến cả vườn cây xung quanh nó không còn mọc được.
Hiện nay, do VN độc lập, không còn có chính quốc, nhưng tác động của cái cây cổ thụ này không thay đổi, bằng chứng, tôi cực kỳ ngạc nhiên là đồng bằng Nam Bộ, đất đai trù phú như vậy, nhưng vẫn là những tỉnh nghèo, thuần nông. Rất may mắn là máu mỡ được thành phố rút ra từ đây, một phần được quay lại dưới dạng thuế cho nhà nước, và nguồn kinh phí này được dùng trở lại để cân bằng sự phát triển các vùng miền. Như vậy làm thế nào để có sự phát triển hài hòa. Để làm điều này chỉ có cách thức là liên kết vùng, liên kết Sài gòn với các vùng xung quanh, thông qua các cơ sở hạ tầng về giao thông, về thông tin,tin học khiến cho Sài gòn nở to ra nhân lên nhưng không phải là Sài gòn hành chính, biến cả vùng Đông Nam Bộ thành một quần thể phát triển. Một dạng megalopol liên minh thành thị. Tức là phải chú ý tới kinh tế vùng, chứ đừng để kinh tế độc quyền thành phố.
Trong một nền kinh tế ở dạng thị trường tự do như VN hiện nay, việc quy hoạch đô thị kiểu bao cấp hành chính không thể làm được, vì ngoài tác động hành chính kế hoach, sức mạnh của thị trường tự do rất lớn, sức mạnh của thị trường tự do này chạy theo nguyên tắc « nước chẩy chỗ trũng », « người giầu thì càng giầu, người nghèo thì càng mạt rệp ». Chính vì thế nếu để tự nhiên, thì thành phố sẽ càng ngày càng phình to ra, các dịch vụ công cộng, quản lý , .. sẽ xuống cấp, chênh lệch giầu nghèo ngày càng lớn, .. đây chính là bộ mặt của những thành phố lớn ở các nước đang phát triển như ở châu Phi, Mỹ la tinh, ..điều mà VN nên tránh. Không thể quy hoạch thành phố một cách duy ý chí, bao cấp, nhưng không có định hướng phát triển, thì không thể được.
Tác giả Phúc Tiến, có một nhận định rất positif về thành phố Sài gòn từ khi Pháp xâm lược tới năm 1975 (1865-1975), vì như tác giả nói, Sài gòn đã từ một thành phố trấn thủ biên viễn trở thành một thành phố quốc tế, với hạ tầng cơ sở hiện đại world Class (chứ World Class là của tôi, nhưng nó chỉ nhấn mạnh thêm ý tưởng của tác giả), ông cũng nói từ Sài gon mà kinh tế thị trường, cùng giới kinh doanh cá nhân đã trở lại VN. Nhưng điều tác giả nói là đúng, nhưng không đủ. Và cũng như ông Sơn, đánh giá lòng yêu nước của người Việt chòm chõm vào việc chống TQ. Nhưng điều tác giả Phúc Tiến nói về Sài gòn cũng phiến diện, tôi sẽ thêm những phân tích ở đây.
Với tôi, muốn tìm hiểu kinh tế Sài gòn, thì phải tìm hiểu cái gốc kinh tế giúp cho thành phố sống được là gì. Nó cũng như một doanh nghiệp, phải có mánh kinh doanh và thị trường mới sống và tồn tại được. Một thành phố cũng thế. Có nhiều thành phố sinh ra rồi chết đi, khi cái lý do kinh tế để cho nó tồn tại không còn nữa. Một điều nữa phải để ý đó là nhân lực thành phố, rồi tinh hoa của nó ở đâu, tồn tại thế nào, phát triển hay bị hủy diệt. Sự cộng sinh của cư dân và hình thái kinh tế của nó sẽ tạo ra văn hóa, tạo ra đặc tính, vậy cái đặc tính này phát triển thế nào.
Trong bài viết, tác giả chỉ nêu được mấy cái mốc về hạ tầng cơ sở, kiểu Sân bay Tân sơn Nhất đã tồn tại từ năm 1914, (tức là nó cùng chung nhịp đập với sự phát triển của hàng không thế giới không thua kém gì các nơi khác), để chứng minh cho sự hiện đại của Sài gòn. Nhưng với tôi điều đó không đủ, và chính nó đã dẫn tác giả tới những nhận xét phiến diện, và từ nhận xét phiến diện sẽ dẫn tới định kiến (với một người đọc không tinh ý).
Phó Thường Nhân
Để tìm hiểu một thành phố thì cách tốt nhất là xem trong từng giai đoạn nó sống bằng cái gì, lý do tồn tại kinh tế của nó ở đâu. Tôi sẽ phân chia ra đây theo mấy giai đoạn sau :
1- Giai đoạn 1865-1954, Giai đoạn này thành phố đóng vai trò thủ phủ kinh tế của thuộc địa Đông Dương, có nhiệm vụ xuất khẩu lúa gạo, cao su, các sản phẩm nông nghiệp phục vụ cho đế quốc thuộc địa Pháp, đổi lại, có sự nhập khẩu hàng hóa công nghiệp Pháp như một thị trường thuộc địa tiêu thụ.
2- Giai đoạn 1954-1960. Đây là một giai đoạn rất ngắn, nhưng có sự chuyển đổi về kinh tế, do thành phố Sài gòn cũng như toàn miền Nam bị cắt khỏi đế quốc Pháp, nhưng không vì thế nó tạo ra được một nền kinh tế nội địa. Đây là giai đoạn khó khăn, hỗn loạn chính trị, do chính quyền Ngô Đình Diệm phải trấn áp các giáo phái kiểu Hòa hảo, Cao đài, Bình Xuyên vẫn còn theo Pháp, và cũng để chứng tỏ sự độc lập với Pháp, mà chính quyền Diệm đã tịch thu tài sản của Pháp kiều, ép Hoa kiều nhập tịch VN (tất nhiên là VN cộng hòa). Ta có thể gọi giai đoạn này là giai đoạn cắt cầu với hệ thống thuộc địa Pháp.
3- Giai đoạn 1960-1965. Đây là giai đoạn khủng hoảng. Khủng hoảng cả về chính trị lẫn văn hóa, mà đỉnh điểm của nó là đảo chính lật đổ chính quyền Diệm vào năm 1963, còn tại sao tôi lấy năm 1965 làm mốc, bởi đây là lúc Mỹ đổ quân trực tiếp vào miền Nam. Khiến tính chất kinh tế miền Nam thay đổi theo.
4- Giai đoạn 1965-1973. Đây là giai đoạn không còn kinh tế miền Nam, và Sài gòn hoàn toanf sống bằng viện trợ Mỹ cộng với tiền đục khoét, tham nhũng từ trong viện trợ chiến tranh của Mỹ. Tại sao tôi lại lấy năm 1973 mà không phải là năm 1975, vì đây là năm Mỹ chính thức rút khỏi miền Nam.
5- Giai đoạn 1973-1975. Đây là giai đoạn khủng hoảng của kinh tế miền Nam, do Mỹ rút đi, đồng thời cộng với khủng hoảng dầu mỏ toàn thế giới do cuộc chiến tranh giữa Ai cập và Israel xẩy ra vào năm 1973, dẫn tới các nước cung cấp dầu mỏ Ả rập, sử dụng nó như vũ khí và đồng thời cũng tăng giá dầu trên thế giới.
6- Giai đoạn 1975-1983. Đây là giai đoạn không những Sài gòn không còn được tài trợ như giai các giai đoạn trước (1954-1973) mà cũng như toàn bộ nước VN, phải hứng chịu embago Mỹ, và đồng thời có cuộc cải cách kinh tế theo hương tập thể hóa. Tôi lấy mốc năm 1983 mà không phải 1979 (vì năm 1979 là năm Mỹ chính thức embago, lấy cớ VN xâm lược Cam pu chia), vì đây là năm có cải cách tiểu thương ở Sài gòn và miền Nam, và đây cũng là cuộc cải cách theo xu hướng tập thể hóa cuối cùng.
7- Giai đoạn 1983-1996, đây có thể coi là giai đoạn tự công nghiệp hóa của thành phố, trong hoàn cảnh VN bị Mỹ embago toàn bộ. Embago của Mỹ không chỉ tác động lên quan hệ kinh tế Mỹ-VN vì lúc này quan hệ kinh tế trực tiếp này là số không, nhưng nó tác động lên quan hệ của VN với thế giới. Có thể nói VN là nước thứ nhì trên thế giới (sau Cuba) bị Mỹ sử dụng chiến tranh tài chính này. Cuộc chiến tranh mà giờ đây Mỹ áp dụng với Nga, với Venezuela, với Triều Tiên.
8- Giai đoạn 1996 đến hôm nay. Đây là giai đoạn thành phố trở thành đầu tầu kinh tế VN, và kinh tế thành phố đã gắn bó với đất nước VN trong một thể thống nhất. Điều mà từ năm 1865 tới 1973 là không có.
Nếu ta để ý tới cấu trúc dân của thành phố, thì nó cũng có nhiều mốc mà ta cần phải lưu ý, vì nó thay đổi diện mạo thành phố về giới tinh hoa, về văn hóa, và cũng có tác động vào cấu trúc kinh tế. Ở đây tôi chỉ lấy mấy cái mốc tính từ lúc Pháp chiếm thành phố
1- 1862-1954, đây là thời kỳ dân số của thành phố có tính Nam bộ và Hoa kiều đậm đặc, với một giới tinh hoa là thực dân Pháp (tức là người Pháp da trắng), tư sản Hoa kiều và giới tư sản miền Nam. Giới tư sản bản địa này rất nhỏ, so với giới tư bản bản địa của những thành phố tương đương với Sài gòn về chức năng mà tôi đã nói ở trên : Bombay, Cancuta, Thượng Hải, Hồng Công, Sing, .. và nếu ta trừ bì đi tư sản Hoa kiều thì nó còn nhỏ nữa.
2- 1954-1955, thành phố lúc này đón nhận một số lượng lớn người miền Bắc, chủ yếu là người công giáo di cư vào Nam, họ không chỉ sống ở Sài gòn mà còn định cư ở nhiều nơi khác thuộc miền Đông Nam Bộ, ở những địa điểm mà chính quyền Ngô Đình Diệm coi là sống còn để bảo vệ cho « thủ đô Sài gòn ».
3- 1955-1973. Đây là giai đoạn thành phố phình lên do chiến tranh, khiến cư dân ở nhiều nơi trên toàn miền Nam chạy về đây. Sự phình lên này không phải do phát triển kinh tế tạo ra.
4- 1975-1991, đây cũng là thời gian có nhiều sự chuyển đổi với thành phố. Nó có hai dòng người. Một dòng người tiếp tục nhập vào thành phố, nhưng khác với giai đoạn 1955-1973, nó không chỉ hạn chế ở miền Nam. Và một dòng người đi khỏi thành phố, vượt biên, đoàn tụ gia đình định cư ở nước ngoài chủ yếu là ở Mỹ và phương Tây. Người dân được đưa khỏi thành phố trong các chiến dịch « xây dựng kinh tế mới ». Giai đoạn này cũng có tác dụng quyết định với giới tinh hoa của thành phố. Giới tinh hoa của thành phố hiện nay là từ đây.
5- 1991 trở lại đây. Sự nhập cư, di cư của thành phố hoàn toàn binh thường như bất cứ một thành phố lớn nào khác trên thế giới trong khuôn khổ một nhà nước thống nhất, tùy theo nhu cầu và điều kiện phát triển kinh tế mà thành phố tạo ra dẫn tới việc như câu nói « 63 dân cư của các tỉnh thành toàn quốc đều có mặt ở TP HỒ CHÍ MINH »
Tôi sẽ bình loạn những điều nói trên tiếp sau, và những hệ quả của nó.
Phó Thường Nhân
Khi đã phân chia các thời điểm như tôi làm ở trên, người ta sẽ thấy về mặt kinh tế, thành phố đạt tới đỉnh điểm vào những năm 20. Đây cũng là thời điểm thịnh trị nhất của chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương. Nhưng ngay tiếp sau đó là khủng hoảng kinh tế thế giới (1929) dẫn tới đại chiến II. Do là thuộc địa, Đông dương phải gánh chịu hậu quả trước, vì Đế quốc Pháp sử dụng thuộc địa như dạng khu đệm nhằm giảm khó khăn cho chính quốc. Để nhìn thấy hình ảnh sự thịnh vượng « mỹ miều » này như thế nào, thì ta có thể tham khảo nó qua phim người Tình (Aimant), hay phim Đông Dương (Indochine) của Pháp làm vào những thập niên 90. Tất nhiên đây là phim, nó phải rô măng tíc què (romantique) đi, nhưng cảnh quan của nó, dù là dựng trong trường quay hay quay ở bên ngoài, phản ánh phần nào sự hoa lệ mỹ miều này. Qua những phim này, vì nó cũng phản ánh một phần thực tế, người ta thấy tinh hoa của thành phố là người Pháp da trắng, thứ tới là Hoa kiều, hoa kiều có nhiều đặc quyền kinh tế. Nhưng giữa Hoa kiều và người da trắng, quan hệ cũng phức tạp có sự kỳ thị. Bản thân tình yêu của cô bé da trắng với anh chàng hoa kiều vừa là vì tiền, vừa là một cảm giác exotique. Trong phim Indochine, thì câu chuyện chỉ xoay quanh đám thực dân da trắng thôi (một viên sĩ quan quân đội Pháp trẻ lý tưởng có thể coi là đại diện cho « chính danh » của chủ nghĩa thực dân theo như tuyên truyền của Pháp, một trùm mật thám đại diện cho đàn áp chính trị, và một chủ đồn điền da trắng nhưng là phụ nữ đại diện cho kinh tế thuộc địa, ở đây đầy đủ bộ ba quyền lực của Pháp ở một thuộc địa). Bộ phim này cũng tạo dựng nên một nhân vật VN, là quý tộc phong kiến, thông qua một cô bé gốc hoàng tộc, trong một cố gắng phương Tây hóa nhận thức cô bé này bằng giáo dục, nhưng nó không vượt qua được giới hạn kỳ thị chủng tộc, vì cô bé này cũng không thể yêu anh chàng Pháp lý tưởng được. Trong tất cả hai phim người VN chỉ đóng vai cảnh quan, nhân vật phụ.. Sở dĩ tôi lấy hai phim này làm ví dụ vì đó là hai bộ phim nhiều người xem, không phải như sách vở hay phim tài liệu vốn khô khan, và nó cũng thể hiện được phần nào xã hội thuộc địa thực dân. Hai phim này được làm vào những năm 90, lúc này nước Pháp đã trải qua một quá trình phi thực dân hóa, quan hệ VN-Pháp lúc này đang dần tốt lên, và Pháp là cửa mở để VN tiếp cận lập quan hệ bình thường với phương Tây. Như vậy ý đồ của phim không phải là xấu, nhưng nó cũng không có thể tô mầu cho chế độ thực dân đẹp hơn được, dù đã nhìn với hệ quy chiếu Pháp.
Từ năm 1945 trở đi tới 1973, thì kinh tế thành phố sống chủ yếu thông qua nhu cầu chiến tranh của Pháp rồi Mỹ. Giai đoạn 1954-1965 (ở trên tôi chia làm 2 giai đoạn) có thể coi là sự thất bại của một nền kinh tế tự chủ ở miền Nam. Và điều này chính do chính quyền miền Nam tạo ra, đầu tiên là do rối loạn chính trị, tiếp đó là chính sách kinh tế phản động. Tôi dùng từ phản động ở đây để chỉ cải cách điền địa của chính quyền này, vì nó đã đưa việc sở hữu đất đai cho địa chủ như thời Pháp thuộc cũ, và chính sách này cộng với chính sách tố cộng đã tạo ra đồng khởi. Vì thế so sánh chính quyền miền Nam cũ, tưởng tượng nó là một dạng chính quyền Hàn quốc tiềm năng, miền Nam là Hàn quốc tiềm năng là sai. Giỏi lắm thì nó thành .. Philippines.
Trong giai đoạn 1954-1965 viện trợ kinh tế và quân sự Mỹ đã đóng vai trò quan trọng ở đây. Nhưng từ năm 1965 tới 1973, thì nó là nguồn chính của kinh tế miền Nam. Và từ đó hình thành nên « kinh tế thị trường tham nhũng ». Kinh tế thị trường tham nhũng là thế nào ? đó là một nền kinh tế hoạt động trong cơ chế thị trường, nhưng lời lãi vốn của nó là do tham nhũng tạo ra, chứ tự nó không có sức sống, kinh tế thị trường chỉ che dấu nó đi thôi. Đây là điểm khác cơ bản của kinh tế thành phố thời kỳ này so với thời kỳ thuộc địa Pháp.
Nền kinh tế này thực ra đã bắt đầu chết từ năm 1973, khi Mỹ rút quân, và càng ngày nó càng trầm trọng hơn, vì đến năm 1975, thì quan hệ Mỹ-VN hoàn toàn bị cắt đứt. Từ năm 1979 lại thêm Embago cũng của Mỹ nữa.
Do có việc tập thể hóa kinh tế, trong giai đoạn 1975-1983, nên người ta hay đổ tội cho chính sách này làm xuy xụp kinh tế, nhưng thực ra nó chỉ đóng góp vào, và tạo ra cái bung xung mà thôi. Cũng phải nói thêm là trong các chính sách này, tai hại nhất là hai vụ đổi tiền. Còn việc tập thể hóa trên nhưng cơ sở sản xuất đã ở trong trạng thái hấp hối thì không phải là lý do lớn nhất, vì thực ra đằng nào nó cũng sẽ chết.
Nhưng cũng trong giai đoạn 1975-1991 (ở đây tôi gộp hai kỳ 1975-1983, 1983-1991 vào) cũng là giai đoạn quyết định để hình thành thành phố như ngày nay. Đặc biệt ở giai đoạn sau 1983-1991. Ở giai đoạn này có mấy điều đặc biệt giúp thành phố phục hồi đó là :
1- Bỏ chính sách tập thể hóa, áp dụng kinh tế thị trường
2- Kiều hối
3- VN bắt đầu sản xuất được dầu mỏ để có ngân sách.
Kiều hối ở đâu ra. Đó chính là hàng hóa và tiền mà người VN vượt biển gửi về. Nó không chỉ có hàng hóa và tiền gửi về cho người thân mà còn có cả một nền kinh tế « di tản ». Điều đó xẩy ra vì về sau có vấn đề ra đi theo đoàn tụ gia đình, và cũng có diện Mỹ sẵn sàng nhận. Những người trong diện này sẽ bán nhà cửa tài sản để ra đi. Hiện tại, kiều hối vẫn có một vai trò nhất định trong kinh tế VN, nó không còn duy nhất của người vượt biên, mà còn của lao động nước ngoài gửi về. Cách đây mấy năm, tôi không nhớ rõ khi nào, đọc báo thấy nói tiền kiều hối là 8 tỉ đô. Vậy vào thời điểm 1983-1991 nó là bao nhiêu, tôi không rõ, rồi trong đó phần chạy về thành phố Sài gòn là bao nhiêu, tôi cũng không rõ. Nhưng chắc chắn nó là một nguồn thu cho thành phố về kinh tế. Cũng phải nói thêm là kiều hối không phải là « tiền một cục », người ta có thể đem nó đi đầu tư cho một công trình, có quy hoạch. Nó là thứ « tiền giọt dầu » (như hiện tại dùng để cúng dường trong chùa), nhưng nó có tác động không nhỏ vào việc tạo ra các cơ sở kinh doanh micro. Chính sách kinh tế thị trường khi tung ra, có nguồn vốn này nên đã khởi động được, theo tôi đã tạo ra việc mà tôi gọi là « tự công nghiệp hóa » của thành phố. Đây là thời điểm, có lẽ là duy nhất trong lịch sử thành phố này hướng nội, sản xuất thuốc đánh răng, xà phòng với những thương hiệu địa phương. Thời điểm mà made in Saigon có uy tín trên toàn quốc. Nhưng điều này đã chấm dứt khi Embago được Mỹ bỏ (1996), và những thành công tự công nghiệp hóa kia biến đi.
Điều thứ 3 tôi nói ở trên, rất quan trọng, nhưng người ta ít để ý, vì không nhìn bằng mắt thường được. Gửi một gói quà có cái áo, thì người ta nhận thức được ngay, nhưng sản xuất ra một tấn dầu mỏ, tác động lớn hơn nhiều thì người ta không nhìn thấy, vì chu kỳ chuyển dầu ra tiền, tiền ra hàng, và không phải là hàng tiêu dùng thì lại càng khó nhìn trực quan hơn.
Việc vượt biển và di tản kia cũng làm thay đổi diện mạo tinh hoa của thành phố. Khi tôi đọc một thống kê của người Pháp, nói về người Việt ở Pháp, nó có nhận xét là trình độ học vấn của người Việt cao hơn các sắc dân nhập cư khác, và điều đó rõ rệt vào thời điểm 1975-1991 (đặc biệt là thời kỳ đầu). Chính vì thế ta có thể nói rằng Elite của chế độ cũ ở miền Nam đã ra đi khá nhiều. (Mức độ nào thì tôi không rõ, nhưng chắc chắn nó không còn là lực lượng lãnh đạo, cấu trúc thành phố về sau nữa).
Như vậy cùng một thành phố, nhưng không thể nhìn nó một các static. Cũng giống như cắm cái que xuống dòng sông, nước hôm nay không phải nước hôm qua, chúng chỉ chung nhau .. cái lòng sông thôi.
Thành phố Sài gòn là nơi giúp VN biết thế nào là kinh tế thị trường và sản xuất tư nhân như tác giả ngộ nhận. Câu trả lời tất nhiên là không. Sự hình thành kinh tế thị trường ở VN là câu trả lời của Vn trước sự sụp đổ của Liên Xô, câu trả lời này đã được đưa ra sớm hơn ở VN (đổi mới ở VN bắt đầu năm 1986, ở Liên Xô nó bắt đầu vào năm 1988).
Hiện tại ở VN nổi lên một cộng đồng doanh nhân có gốc gác Đông Âu. Hãy hỏi họ xem họ biết kinh tế thị trường từ đâu ? Người ta có thể nói rằng, Sài gòn vào thời gian đầu nắm bắt kinh tế thị trường nhanh hơn, khi nó được đưa trở lại. Điều này chuẩn. Kinh tế thị trường đã tái sinh lại ở thành phố (thực ra nó không hoàn toàn mất đi, vì chưa bao giờ sở hữu tập thể tuyệt đối ở đây, và ngay ở các nơi khác cũng vậy). Điều này chuẩn.
Ngược lại có một điều mà tôi không biết có thể quy cho thành phố không ? đó là bản quyền copyright của kiểu « kinh tế thị trường tham nhũng » mà tôi sẽ nói tiếp sau.
Phó Thường Nhân
Từ ngày thủ tướng Dũng về nghỉ chế độ và bác Trọng phát động chống tham nhũng, VN đã có nhiều bước tiến trong vấn đề này. Tính đến nay đã được mấy năm. Qua những vụ án được lôi ra, ta có thể thấy lô gic, cái mánh tham nhũng thế nào, nhưng đâu đó bắt đầu có tiếng nói phản biện.Tôi điểm ra mấy điều sau :
1- Vấn đề bảo vệ cán bộ dám nghĩ dám làm. Đây là vấn đề chỉ ra rằng, do sợ bị phạm lỗi cán bộ đều đình chỉ hoạt động không dám có hành động táo bạo vì sợ sai, sợ mắc lỗi.
2- Từ vấn đề 1 lại suy ra vấn đề 2, đó là do lờ dờ, hoạt động cầm chứng, hệ thống quản lý nhà nước sẽ làm chậm những thời cơ kinh doanh cho các doanh nghiệp.
3- Có khi lại có sự khen ngợi thẳng thắn công trình có tham nhũng, ví dụ câu chuyện tham nhũng mua máy móc ở bệnh viện Đồng Nai được nói rằng, mặc dù có sai phạm tham nhũng, công trình này là một chuẩn mà nhiều bệnh viện khác cũng tới học tập. Tương tự như vậy, nói tới ông « Trung con », chủ tịch Hà nội cũ, thì lại nói rằng dù có vụ sông Tô lịch, việc trồng cây đường phố nhiều tầng ở Hà nội là công lao sáng kiến của ông ta.
Nhưng điều này nói lên điều gì (ở đây tôi không bình luận hay phân tích những tin trên đúng hai sai, sai đến mức nào, đúng tới mức nào, vì tôi không có thông tin), nó nói lên răng tham nhũng cũng là một động cơ khiến người ta hoạt động, một động cơ ngầm, và tham nhũng cũng tạo ra một « eco system », tiếng việt dịch là hệ sinh thái, tức là một cơ chế hoạt động, không gian hoạt động. Như vậy một cơ chế thị trường có động cơ tham nhũng làm lực đẩy, là « kinh tế thị trường tham nhũng ». Trong hệ sinh thái này kẻ nhận tham nhũng cũng có lợi như người đưa tham nhũng, cả hai bên đều có lợi và tạo ra .. lãi xuất cho cả hai. Lãi xuất này có thể xuất phát điểm từ ngân sách nhà nước, nếu là ngân sách nhà nước chi trả, rồi « cấu véo ra », nhưng nó cũng có thể có lãi vì những yêu cầu của pháp luật, các chuẩn kỹ thuật không được đảm bảo, vì không được bảo đảm nó mới có lãi, hoạc vì không bảo đảm thì nó lãi khủng hơn.
Điều này ngược với quan niệm ta thường nghĩ, đó là chỉ có kẻ nhận tham nhũng mới có tội và gây tác hại, còn bên đưa tham nhũng là nạn nhân do bị bắt buộc.
Một quan hệ kinh tế, một hệ sinh thái kinh tế kiểu này là « kinh tế thị trường tham nhũng ». Nếu điểm những hệ sinh thái kinh tế ở VN từ thời thuộc địa Pháp tới nay, thì ta có thể thấy rằng kinh tê thuộc địa thời Pháp thuộc không có tham nhũng (nhưng nó là một nền kinh tế thuộc địa nên cũng không mang lợi cho người VN), kinh tế thời bao cấp cũng không có tham nhũng (thối mồm thì nói rằng thời này làm gì có gì để tham nhũng, nhưng trong thực tế vẫn có thể có sự lạm quyền và thời này cũng có những vụ án kinh tế, nhưng rất ít). Kinh tế miền Nam từ 1954 tới 1975 là kinh tế thị trường tham nhũng, và Sài gòn là trung tâm. Như vậy nếu «Sài gòn là ngọn đèn pha dẫn dường cho kinh tế thị trường VN », thì « kinh tế thị trường tham nhũng » ở VN hiện tại là con đẻ của nó.
Phó Thường Nhân
Để khách quan và công bằng, tôi không quy tất cả kinh tế thị trường tham nhũng ở VN có nguồn gốc duy nhất từ Sài gòn, bởi vì nhìn trên thế giới, sự tồn tại của hệ sinh thái kinh tế này có ở khắp nơi, không phụ thuộc vào hệ thống chính trị và có nhiều nguyên nhân. Nhưng có điều rõ ràng, là ở VN ảnh hưởng của nhận thức « kinh tế thị trường tham nhũng » có sự đóng góp của nhận thức kinh tế thị trường có từ thời VN cộng hòa, vì đây là chế độ ngay trước mà chế độ VN hiện tại kế tiếp. Cũng giống như về mặt văn hóa, trong âm nhạc VN hiện tại có cả nhạc đỏ (truyền thống chính thống), nhạc vàng, nhạc tiền chiến (của các chế độ trước, ví dụ nhạc tiền chiến là từ thời Pháp còn ở VN, nhạc vàng, nhạc nhẹ là từ miền Nam về sau), và nhạc chỉ bây giờ mới có ví dụ K-Pop, nhạc Rapt, .. khi tôi so sánh với các thể loại âm nhạc, cũng để nói rằng thị phần của kinh tế thị trường chuẩn cũng chỉ có thị phần như nhạc đỏ hôm nay mà thôi, và ở đây có tác động của nhà nước (chỉ có kênh nhà nước mới phát nhạc đỏ), ngược lại thả ra thì không có, vào quán cà phê, có ai bật nhạc đỏ. Ngược lại K-Pop thì không cần tác động của nhà nước. Như vậy nếu so sánh tương đương về kinh tế thị trường, thì VN ngay nay phải phát huy nhạc đỏ, K-Pop, mà dần hạn chế nhạc vàng nhạc tiền chiến. Cũng giống như phải phát triển hệ thống kinh tế thị trường lành mạnh, loại bỏ hệ thống « kinh tế thị trường tham nhũng ». Để làm được điều đó thì không phải chỉ có các biện pháp hành chính, như kiểu các chiến dịch chống văn hóa đồi trụy, mà phải đưa những nội dung mà hiện tại đã khiến nhạc vàng nhạc tiền chiến được người ta bật lên ở quan cà phê một cách tự nhiên, đó là gắn bó tâm tình của chủ thể kinh doanh vào nhạc đỏ , K-Pop. Thời trước, những bài nhạc đỏ xuyên được qua không gian thời gian cũng là những bài gắn được tâm tình con người, thường là tình yêu, tâm trạng, cảm xúc, .. « con kênh xanh xanh », « trường sơn đông trường sơn tây », .. v.. v.. Một lô gic tương tự cũng phải được đưa vào quan niệm kinh tế thị trường.
Chính vì thế, phân tích của tôi là, nếu Sài gòn đã đóng góp vào tư duy kinh tế thị trường ở VN, thì sự đóng góp này không phải chỉ có mặt tích cực và có nhiều mặt trái. Vào thời điểm tranh tối tranh sáng, lúc cải tổ nền kinh tế từ hình thái tập trung quan liêu sang kinh tế thị trường, thì ảnh hưởng xấu không rõ, hoặc có thể bỏ qua. Bản thân tôi cũng không coi việc chống tham nhũng vào thời kỳ này là quan trọng mà với tôi nó là sự phân bổ tự nhiên nguồn lực của xã hội, lọt sàng xuống nia.Nhưng thời kỳ đó đã qua. Với tôi nó chấm hết khi VN bắt đầu xây dựng những cơ cấu tài chính như ngân hàng tư nhân, thị trường chứng khoán, nó là vào đầu giai đoạn 2 của nhiệm kỳ thủ tướng Dũng. Nhưng điều đó bây giờ không còn đúng, vì kinh tế VN đã mở, đã gắn với thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà những phi vụ tham nhũng gần đây vừa lớn hơn, vừa tinh vi hơn. Nếu hiện tại mà không nhận thấy điều này mà vẫn hò hét « ưu thế kinh tế thị trường tham nhũng » của thành phố như là truyền thống phải phát huy thì là đi ngược với tiến bộ xã hội.
Tóm lại. nếu để kết luận thì tôi đồng ý với tác giả là Sài gòn mỹ lệ, nhưng tôi không đồng ý là sự mỹ lệ này xuyên qua không gian thời gian. (Tựa đề của bài viết là « Sài gòn mỹ lệ xuyên qua không gian thời gian »), ngược lại tôi đã phân tích Sài gòn thông qua biến số không gian và thời gian để ta có thể thấy được rằng.
1- Sài gòn là « hòn ngọc viễn đông » vào thời điểm đỉnh cao của chế độ thực dân, đó là vào những năm 20. Nhưng hòn ngọc này có được không chỉ nhờ vào các cấu trúc quy hoạch của thực dân Pháp, mà nó còn có sự đóng góp của người Việt với vai trò Oshin, nô lệ. Nó là hòn ngọc, nhưng không phải là « của ta ». Nó càng là hòn ngọc thì người VN càng khổ.
2- Vào thời điểm từ 1954-1975, tức là thời VN cộng hòa cũ, thì nó không còn là hòn ngọc, và nó đã được chuyển đổi sang hệ sinh thái « kinh tế thị trường tham nhũng ». Nó không còn là hòn ngọc, vì nó không tự sống được, mà chủ yếu nhờ vào viện trợ Mỹ.
3- Vào thời điểm 1975-1996, có thể coi là thời gian thành phố tự chuyển mình, với một elit khác. Thành công của thành phố hiên nay, sự mỹ lệ của nó (có thật bay giờ) là từ đây mà ra.
4- Từ 1996 tới hôm nay. Ta có thể dùng từ mỹ lệ, hay hòn ngọc viễn đông cho TP Hồ Chí Minh, nhưng không có nghĩa là không có việc gì phải làm nữa tất cả là tuyệt hảo, mà vẫn còn rất nhiều việc. Như việc chống kinh tế thị trường tham nhũng, quy hoạch tiếp thành phố, định hướng phát triển, chống cát cứ, chống tác động biến đổi khí hậu, ..v..v..

Phó Thường Nhân
Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Hậu về tính chất Nam Bộ của Sài gon, mở rộng ra là tính chất người Sài gòn rất thú vị. Tác giả đã điểm qua sự phát triển hành chính của thành phố, rồi từ đó mở rộng nói về tính cách người Sài gòn có đặc tính Nam bộ. Điều mà tác giả nhận xét là truyền thống của thành phố là sự bao dung hòa hợp của rất nhiều nguồn văn hóa mà không xóa nó đi là một nhận định chính xác và rất thú vị, vì điều này làm cho Sài gòn khác với các địa phương khác trên cả nước. Có thể nói các cộng đồng văn hóa ở Sài gòn, các truyền thống văn hóa của nó đan xen nhau, nhưng không xóa nhau. Cách thức hòa nhập văn hóa này, thực ra là một hình thức hòa nhập văn hóa đô thị, của một đô thị có tính quốc tế, nó cũng là đặc trưng của kiểu đô thị phương Tây, khi mà người dân nhập cư không đi theo một hình thức cộng đồng mà theo hình thức cá nhân. Nhưng điều này giờ đây sẽ trở thành phổ biến trên toàn quốc, khi mà cư dân đô thị sẽ đông dần lên, nhập cư theo hình thức cá nhân, và cư dân thành thị sẽ chiếm đa số trong tương lai. Hiện tại, tính chất dân đô thị ở Hà nội cũng sẽ như vậy, nhưng điều này chỉ bắt đầu từ bây giờ, trong khi ở Sài gòn điều đó đã có gần như từ lúc khởi thủy. Tại sao lại thế ? ta có thể so sánh sự hình thành Sài gòn với sự hình thành đô thị ở Hà nội. Đô thị ở Hà nội hình thành qua hình thức các làng nghề mở xóm phụ (ta có thể coi như việc một công ti mở chi nhánh) ở Hà nội, từ đó hình thành 36 phố phường, mà thường mỗi phố là chi nhánh của một làng nghề. Vì thế mỗi phố mang theo nó tính chất cộng đồng một làng. Việc nhà nước VN tổ chức làng theo hệ thống đình, càng làm tính chất này rõ rệt hơn.
Ở Sài gòn, ngay từ nguyên thủy, người dân di cư tự do vào đây, chỉ trên địa bàn thành phố họ mới tổ chức lại theo yêu cầu của nhà nước, bắt đầu là chúa Nguyễn, mà nhu cầu của nó thực ra là để thu thuế. Chính vì thế quan hệ cộng đồng lỏng lẻo hơn, và tính chất cá nhân chủ động đậm đặc hơn. Khi thực dân Pháp tổ chức hành chính, thì nguyên tắc của nó là theo cá nhân. Chính vì thế ở Sài gòn các truyền thống văn hóa mới vừa bảo tồn vừa giao nhau, vì chúng không được tổ chức theo một địa bàn địa lý. Chỗ mà tính chất cộng đồng trùng với địa bàn địa lý lớn nhất, rõ rệt nhất có lẽ là các khu người Hoa ở chợ Lớn. Nhưng với thời gian cộng đồng người này cũng hòa dần vào với người Việt. Ta có thể thấy điều đó nếu theo dõi lịch sử các hội quán của người Hoa được biến thành chùa, ví dụ như chùa Phước Hải, còn có tên là chùa Ngọc Hoàng, chính là cái chùa mà tổng thống Mỹ Obama tới thăm. Khởi thủy nó là một hội quán của người Hoa, rồi khi đến các đời sau chủ của ngôi đền mất đi không có thừa tự, thì nó chuyển thành chùa. Chùa Thiên Hậu cũng có lịch sử gần như vậy, và nó còn thú vị hơn nữa là trên tường của ngôi chùa còn có cả sự tích nói lý do tại sao hội quán được thành lập, hội quán được lập để cho thương nhân hoa kiều khi tới Sài gòn có chỗ trú chân, gần như một dạng nhà khách, bởi vào thời điểm đó, thương nhân chỉ có thể xuất dương theo mùa gió, nên phải trú chân lâu dài, không kể việc họ phải bán và mua hàng hóa.
Hiện nay việc nhập cư cá nhân đã trở thành hình thức chính làm tăng dân số đô thị, cho nên tất cả các thành phố ở VN đều sẽ có loại hình « bao dung nhiều văn hóa » này, dần dần TP HCM chỉ có điểm khác là nó có tuổi già nhất trong loại hình định cư này thôi.
Việc xây dựng các chung cư theo kiểu phương Tây, nhằm vào một gia đình cá thể, việc bỏ quản lý theo hộ khẩu mà theo căn cước cá nhân, là điều kiện kỹ thuật để hình thức « hòa nhập kiểu bao dung văn hóa » hình thành.
Nhưng vì VN đi sau các nước phương Tây về loại hình hội nhập đô thị kiểu này, ta có thể nhìn thấy vấn đề của nó trong tương lai bằng cách nhìn vào các đô thị phương Tây hiện nay. Điều người ta có thể thấy đó là sự hội nhập kiểu này chủ yếu phụ thuộc vào kinh tế, các cộng đồng người trong thành phố là cộng đồng ảo, lỏng lẻo, và sở dĩ có chung sống với nhau được là do cội nguồn văn hóa tương đồng nhau. Hiện tại các đô thị phương Tây tập trung rất nhiều kiểu văn hóa khác nhau, đối kháng nhau, từ đó dẫn tới rối loạn, lộn xộn, ..Điều mà ở TP HCM nói riêng hay VN nói chung chưa gặp phải.
Nhưng trong tương lai, nếu việc nhập cư vào đô thị không chỉ là người trong nước, hay người các vùng văn hóa tương đồng, thì các vấn đề xã hội sẽ xẩy ra về tôn giáo, sắc tộc, chính trị… tất nhiên hiện nay và trong vòng ít nhất chục năm nữa điều này chưa xẩy ra.
Nếu nói về truyền thống văn hóa các cộng đồng, cũng có điều đặc biệt ở TP HCM nói riêng và Nam Bộ nói chung, đó là ảnh hưởng văn hóa TQ muộn và mới hơn nhiều ngoài Bắc và miền Trung. Ở Ngoài Bắc, ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa như một cấu thành của văn hóa VN đã dừng ở thời nhà Lý (thế kỷ XI), Sau chiến thắng quân Minh, dù đạo Nho trở thành quốc đạo, nhưng về tư tưởng thì đạo Nho cũng dừng ở thế kỷ XI (thời nhà Lý) là Tống Nho, trong khi ở TQ họ đã chuyển sang Minh Nho, Thanh Nho, .. Chỉ có đạo Phật là tiếp tục chịu ảnh hưởng của TQ từ thế kỷ XVI rồi cũng dừng lại ở thế kỷ XVIII, và lại ảnh hưởng trở lại từ nhưng năm 1920 trong phong trào cải cách phật giáo. Ngược lại ở trong Nam và ở Sài gòn, ảnh hưởng này bắt đầu từ thời nhà Thanh (Thế kỷ XVII), với các hoa kiều là di thần nhà Minh di cư sang VN thành người Minh Hương, và liên tục có hoa kiều sang VN sinh sống buôn bán. Một đặc điểm nữa, đó là vào thời thuộc Pháp, Hoa kiều không chuyển thành người Việt một cách tự nhiên nữa. Nguyên nhân ở đây chính là do thực dân Pháp. Do Pháp áp dụng chính sách phân biệt với người Việt, những sắc dân nào là ngoại kiều sẽ được ưu đãi hơn, tạo thành một tầng lớp nằm giữa thực dân Pháp da trắng và người VN. Trong điều kiện ấy, người Hoa vào VN thời thuộc Pháp tất nhiên phải tìm mọi cách để chứng tỏ họ là ngoại kiều vì có lợi hơn, quá trình việt hóa bị cắt đứt. Thời thuộc Pháp, Pháp có một số nhượng địa ở TQ, như Quảng Châu Văn, rồi đảo Hải Nam, vì thế người Hoa ở đây có thể di vào Nam bộ vì cùng là thuộc địa Pháp.
Chỉ sau năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt hoa kiều phải nhập tịch VN, rồi sau đó với việc Hoa kiều rời VN vào những năm 1979-1980, thì quá trình việt hóa mới dần dần trở lại như cũ.
Phó Thường Nhân
Tác giả Nguyễn Thị Hậu cũng đề cập tới một vấn đề văn hóa khác của Sài gòn có tính Nam Bộ là văn hóa sông nước. Điều này là cực chuẩn, dù về địa lý, thành phố được hình thành ở vùng đất cao Đông Nam Bộ, còn vùng trũng thì cho tới giờ chưa khai thác được đó là vùng Thủ Thiêm, ngay giáp trung tâm vì là vùng đất trũng. Sài gon là thành phố sông nước vì khởi điểm của nó là một thương cảng, điều này càng rõ rệt hơn khi Pháp cai quản thành phố, vì trung tâm của nó chính là cảng Nhà Rồng đồng thời người dân Nam Bộ, mà Sài gòn là bộ phận cũng là dân sông nước. Sông nước vì họ di dân vào đây từ miền Trung chủ yếu bằng đường biển, và khi khai thác đồng bằng sông Cửu long, cách thức khai thác cũng là đào kênh mương tiêu nước, khác với ngoài Bắc là đắp đê.
Tôi sẽ nói thêm một chút về văn minh sông nước này. Không rõ tại sao, khi người Việt di vào đây, lại không đắp đê mà lại đào kênh. Trước khi người Việt vào Nam Bộ, thì đã có người Khơ me ở đây. Nhưng họ chủ yếu sống trên các giồng đất, để tránh được lũ lụt. Số lượng người Khơ me rất ít, vì thế họ không thể có một tổ chức hay sức lao động để làm các công trình thủy lợi lớn như đào kênh hay đắp đê được. Về mặt truyền thống, văn minh Khơ me bắt nguồn từ Ăng co, nơi mà có vấn đề hạn hán, mùa mưa mùa khô, chứ không có vấn đề thoát nước, vì thế nền văn minh này đã dựa trên một kỹ thuật thủy lợi xây hồ chứa nước ( mà những hồ còn lại ở vùng đền Ăng co là một ví dụ, chế độ lao động khổ sai của Khơ me đỏ bắt dân đi đào hồ chứa nước vô tích sự có lẽ cũng cùng truyền thống này nhưng được thi vị hóa bằng mấy lãnh tụ khơ me đỏ kiểu Pôn pốt, và dã man hóa trong thực hiện). Ở đồng bằng Nam bộ, vấn đề ở đây là tiêu nước, chứ không phải là trữ nước. Khi người Việt vào Nam bộ, thì vấn đề lớn nhất không phải là đánh nhau với một vương quốc Khơ me để chiếm đất, mà thực ra là làm sao khai thác được đất đai bỏ hoang mà người Khơ me không khai thác được. Cũng không thể tưởng tượng đất Nam Bộ nằm trong quốc gia Khơ me như một dạng các tỉnh hiện tại ở trong một nước. Trong thực tế nó cũng mơ hồ .. như biên giới đường lưỡi bò mà TQ yêu sách trên biển Đông, và người Khơ me ở Nam bộ cũng chỉ phụ thuộc một cách lỏng lẻo vào nhà nước Khơ me lúc đó mà thôi. Điều đó cũng đúng với ngay Đại Việt, ví dụ, chỉ khoảng từ thế kỷ thứ XVII, thì người Mông (trước ta gọi là người Mèo) mới di cư vào miền núi Băc Bộ. Do đất ở thung lũng đã được khai thác bởi người Tầy, Nung, Thái, .. nên họ phải giạt lên trên đỉnh núi cao. Quá trình người Việt vào Nam Bộ cũng vậy. Ở miền Bắc, chế độ nhà nước phong kiến Vn là một nhà nước được quản lý chặt chẽ, có sổ sách thu thuế và một hệ thống hành chính mạnh mà còn thế. Vương triều Khơ me ở Cam pu chia lúc đó là một vương triều đang tan rã, không có được. Không kể người Khơ me ở Nam bộ không có nghĩa là họ nhất định phải thuộc quyền quản lý của vương triều Khơ me. Hiện nay, thông qua khảo cổ người ta có thể hiểu một nhà nước khổng lồ như nhà nước Ăng Co tổ chức quyền lực của nó ra sao, và người ta có thể thây rõ nó chỉ là một dạng liên minh thần phục lỏng lẻo dựa theo một chuỗi các đền thờ phật kiểu Ăng co, đền dựng tới đâu, thì nhà nước Ăng co sử dụng nó để thu phục dân xung quanh, đồng thời nó cũng là một loại doanh trại. Nhưng đây là những đền thờ theo phật giáo Đại thừa, không phải là các chùa Khơ Me hiện tại. Ở Nam Bộ cho đến nay không có dấu vết loại đền này, và nếu có nhất định sẽ tìm được ra vì nó được xây bằng đá. Nhưng gì còn lại ở Ăng co chính là loại đền này kiểu « khủng », các đền trấn giữ lãnh thổ khác nhỏ hơn , nhưng cấu trúc tương đồng.
Như vậy việc « Nam tiến của dân tộc Việt » phải được hiểu là một cuộc chính phục thiên nhiên chứ không phải là một công cuộc xâm lược. Và điều đó cũng thấy rõ trong ca dao, văn hóa dân gian. Trong thơ ca người ta chỉ nói tới một vùng hoang sơ, « muỗi kêu như sáo thổi, đỉa nhiều như bánh canh » chứ có thấy nói tới các cuộc chiến ác liệt nào đâu.
Như vậy có thể nói là kỹ thuật trị thủy, đào kênh chính là bí quyết khiến người Việt khai khẩn Nam Bộ thành công chứ không phải đánh nhau xâm lược. Nhưng nó cũng có một yếu tố khác thú vị không kém. Đó là tác động của người Hoa. Tác động của người Hoa ở hai điều :
1- Do là dân thương mại, họ đã đóng góp vốn để người Việt có thể đi khai khẩn, chứ năm đầu khai hoang lấy gì mà ăn.
2- Nếu có vùng đất mà người Hoa khai khẩn (tôi muốn nói ở đây là người Minh Hương), thì họ lại nhập vào VN mà không nhập vào Thái hay Cam pu chia.
Khi Dương Ngạn Địch vào vùng Mỹ Tho, hay Mạc Thiên Tứ vào vùng Hà tiên, thì những vùng này đâu có thuộc vào quyền cai quản của chúa Nguyễn. Số lượng người cũng không lớn, ví dụ lượng người theo Mạc Thiên Tứ khoảng mấy trăm người, nếu không phải là đất hoang, thị họ sẽ bị đánh bay đi ngay. Nhưng tại sao họ lại nhập vào với Đàng Trong. Ở đây ta không thể coi thường yếu tố văn hóa. Họ là di thần nhà Minh, không thể quay lại TQ, nhưng về mặt văn hóa họ gần với chúa Nguyễn nhất vì cùng có văn hóa Nho giáo. Điều mà các vương triều Thái, Khơ Me không có. Tất nhiên ta có thể nói chính sách chúa Nguyễn khôn khéo, nhưng nếu không có tương đồng văn hóa thì khôn khéo cũng khó.
Cái văn hóa sông nước này không chỉ có ở Nam Bộ mà cũng có ở .. Bắc Bộ, vì nó được mang từ trong Nam ra. Dấu tích nó ở đâu ? Đó chính là công cuộc khai hoang lấn biển do Nguyễn Công Trứ chỉ huy tạo ra hai huyện mới ở Thái Bình, một huyện là Tiền Hải, còn huyện kia tôi quên mất tên. Vào thời nhà Nguyễn, khi thống nhất đất nước, nhà Nguyễn cũng vấp phải vấn đề kỹ thuật là làm sao bảo vệ được hệ thống đê điều ở ngoài Bắc. Mỗi lần vỡ đê là một lần có thể có loạn, không kể, cho tới hết đời Tự Đức, Bắc Kỳ là « đầu tầu kinh tế » của nhà Nguyễn (giống như Sài gòn hiện nay với nước VN hiện tại). Chính vì thế nhà Nguyễn đã có ý định phá đê, đào kênh như ở trong Nam. Nhưng điều này không thể làm được do nhiều vấn đề kỹ thuật. Nhưng kỹ thuật này được ứng dụng để lấn biển. Như vậy ở ngoài Bắc, nếu ai đó muốn thưởng thức một cảnh quan tương đương kiểu Nam Bộ, thì có thể phi xe xuống Bùi chu , Phát Diệm, .. đi dọc các con kênh thẳng tắp vuông bàn cờ, thì họ có thể cảm nhận được .. kinh Vĩnh Tế ở An Giang, ở cực nam của đất nước.
Phó Thường Nhân
Hiện nay thành phố Hồ Chí Minh phải đối diện với các vấn đề ngập nước do triều cường và việc nước biển dâng lên, vậy truyền thống là một thành phố sông nước có thể có tác dụng gì ở đây. Với tôi có thể đấy là việc “sống chung với nước”. Từ trước tới nay, để trị thủy thì người ta chỉ có 2 cách đó là đắp đê và đào kênh tiêu nước, và hai điều này có thể kết hợp với nhau. Nhưng bây giờ có một cách thứ 3 nữa, đó là xây dựng các đô thị “sống chung với nước, trên mặt nước”. Trong các đô thị kiểu này (hiện thời chưa có, chỉ có những prototype được nghiên cứu ở châu Âu, ví dụ Hà lan), thì các tòa nhà không phải xây dựng với móng cứng xuống đất, mà nổi giống như một con tầu. Đại khái nó giống như cái khách sản nổi đã từng có ở trên sông Sài gòn, nhưng quy mô của nó lớn hơn được quy hoạch thành các dẫy phố.
Như ở tên chủ đề tôi đã đề cập, đó là thông qua “bình loạn” các bài viết các trí thức VN, tôi sẽ chỉ ra cái hạn chế của cái nhìn Tây học mà các học giả này chuyển tải. Không hẹn mà nên, vừa mới đọc đã thấy luôn hai bài kiểu này, vì thế tôi sẽ bình luận một dạng diện mạo của các kiểu học giả tây học này dưới đây, dựa theo nhận thức chuyển tải trong hai bài viết Đó là bài củaTrần Hữu Phúc Tiến có tên là « Sài gòn mỹ lệ xuyên không gian và thời gian » và bài của ông Huỳnh Bảo Sơn nói về lịch sử VN, tên nó là « đoàn kết để cường thịnh, từ quá khứ nhìn về tương lai ».
Đầu tiên là nói về ông Sơn, ở trên tôi có nói đến toàn bộ các tác phẩm mà ông Sơn sử dụng trong bài viết, và điều làm tôi ngạc nhiên là tất cả các tác phẩm này đều là tác phẩm thời thuộc pháp, mới nhất là quyển « Việt nam sử lược » của Trần Trọng Kim ra đời vào những năm 20, tính tới bây giờ là 100 năm. Nói một cách khác, nhận thức của ông Sơn tương đương với nhận thức của thực dân Pháp hồi đầu thế kỷ XX ở VN. Với một nhận thức như thế làm sao ông ấy có thể nhìn về tương lai VN vào thế kỷ XXI. Có lẽ với tác giả, tất cả lịch sử hiện đại của dân tộc từ 100 năm nay không có ý nghĩa gì cho tương lai VN, trong khi tất cả những gì có được ở VN là sự kế thừa trực tiếp ở đây mà ra. Không kể những kiến thức mới vào thời đó Trần Trọng Kim không có, ông ấy cũng không cập nhật. Đúng là chuyện cười Trạng Quỳnh.
Không những nhận thức thời đó hiện tại đã quá đát, mà nguy hại hơn nữa đó là nhận thức của thực dân pháp. Họ nhìn lịch sử Vn theo xu hướng chia để trị, họ nhận xét tâm lý người việt như một nhân vật thực dân đánh giá dân nô lệ, vậy làm sao ông ấy lại công nhận nó như một thứ chân lý bất biến. Sao lại có thể có một nhận thức mù quáng như thế. Về lịch sử VN, thực dân pháp hướng nó theo hai chiều :
1- Chiều 1, tìm cách tạo mâu thuẫn « kẻ thù truyền thống VN-TQ », chính danh vì chống TQ
2- Chiều 2, tìm cách tạo mâu thuẫn « kẻ thù truyền thống VN – Cam pu chia », trong đó kẻ xâm lược chiếm đất là VN
Bằng cách đó thực dân pháp muốn gửi thông điệp rằng. Chế độ thực dân pháp ở VN giúp VN « độc lập với TQ », đồng thời nó cũng gửi thông điệp tới người Cam pu chia là nhờ thực dân Pháp « Cam pu chia mới không bị Vn xâm lược », thông điệp này cũng nhằm vào các nhà Nho, vào truyền thống Nho giáo ở VN, vì với Pháp đây là lực lượng chống pháp cơ bản cho tới những năm 30, trước khi bị thay thế bởi những người cộng sản.
Còn vấn đề dùng sách Pháp để nói tâm lý người việt thì có nghĩa là mang tất cả tâm lý, định kiến thực dân vào. Tôi không chỉ đọc sách tâm lý thực dân Pháp ở VN, tôi còn đọc cả các sách mà người Tây ban Nha nói về người da đỏ, người Pháp nói về người da đen. Nội dung của chúng hầu hết đều có bóng dáng kiểu các loại dân bản địa kia đều lười nhác, hay nói dối, thích trộm cắp vặt, không có tư duy lô gics.. v…v… Bây giờ xin ông Sơn đi hỏi những người thuê oshin về làm ở nhà, họ có những định kiến kiểu như vậy không ? tôi chắc chắn là đều có ít nhiều, dù chúng ta cùng một dân tộc.
Ông Sơn không phải là người duy nhất có nhận thức kiểu này, mà nó thực ra là một típ trí thức VN, vấn để đối với tôi là tại sao lại có một nhận thức như thế được nhỉ ? và từ đây tôi đi tìm cái « không gian nhận thức » tạo ra nó, và câu chuyện này có dính tới bài viết thứ 2 của ông Tiến. Tôi cũng nói luôn rằng không có liên quan gì tới cá nhân của hai ông, cái tôi muốn nói ở đây là không gian văn hóa tạo ra diện mạo các ông ấy, vì như tôi nói ở trên, đó là một típ trí thức « tinh hoa » VN hiện tại
Phó Thường Nhân
Không gian nhân thức là một khái niệm tôi đưa ra để chỉ môi trường mà học giả chịu ảnh hưởng. Cái khái niệm này của tôi là do chịu sự ảnh hưởng của một triết gia người Nhật, có thể ông ấy là triết gia lớn nhất của nước này tính thừ thời Nhật mở cửa, có cách mạng Minh Trị (1868) cho tới đầu thế kỷ XX. Nhà triết gia đó là Kitaro Nishida. Ông là giáo viên triết học của đại học Hoàng Gia Kyoto vào thập niên 20,30. Ở Kyoto còn có con đường, là một địa điểm du lịch ở thành phố này, đó là con đường triết học, chạy dọc theo một con sông con con, nhỏ như cái kênh đào, đường đi bên này, còn thấp thoáng bên kia là nhưng tòa nhà của đại học Kyoto. Tương truyền rằng đây là con đường đi dạo của ông để trầm tư mặc tưởng.
Buồn cười là tôi đã tới chỗ này, đứng chụp ảnh trước cái biển đề bằng tiếng Nhật dịch từ ra từ là “triết học của đạo” (tức là con đường triết học) nhưng lúc đó không biết ông ấy là ai cả, chỉ thấy con đường triết học là tên hay thì chụp cái ảnh kỷ niệm “check-in”. Mãi về sau tôi mới đọc ông, vì ở Pháp sách triết học Nhật hầu không có, rất là ít. Không kể, cũng giống như các sách vở viết về phật giáo, là người VN ta phải phiên dịch lại các cụm từ nguồn gốc là chữ Nho, mà khi dịch ra tiếng Pháp thì nó dịch không chuẩn theo cảm hứng và hiểu biết của người dịch nên để tìm hiểu sâu sắc nó rất vất vả. Tôi cũng không dám nói là hoàn toàn hiểu về Nishida, nhưng tôi lại hiểu nguồn gốc triết học của ông đó là từ Nho giáo và phật giáo. Với sự hiểu biết hạn chế của mình về ông, tôi hiểu rằng ông ấy đã chuyển tải các khái niệm nhận thức của đạo Nho hay đạo Phật (ở đây là thiền) sang nhận thức kiểu phương Tây, tức là coi cá nhân là chủ thể. Ví dụ tác phẩm tên tiếng pháp « philosophie de lieu », lúc đầu đọc tôi không hiểu cái tên muốn nói điều gì vì nếu dịch ra tiếng việt thì nó vô nghĩa “triết học của địa điểm”. Phải lần mò mò mẫm một hồi khi đọc nội dung, thì tôi mới vỡ lẽ ra là xuất phát điểm của ông là Mạnh Tử, tức là ông ấy muốn nói tới ảnh hưởng của môi trường lên tính cách cá nhân. Ai tìm hiểu đạo Nho, thì cũn đều biết chuyện mẹ Mạnh Tử chuyển nhà mấy lần, nếu tôi nhớ không nhầm là 2 lần. Lần đầu khi thấy con bắt chiếc người ta làm trò đám ma, vì ở gần người bốc mộ, nên chuyển nhà. Lần sau thấy con làm trò chơi bán thịt, nên lại chuyển nhà nữa, để cho con có môi trường học hành tốt hơn. Đây chính là quan niệm môi trường ảnh hưởng tới tính cách cá nhân. Điều này đối với văn hóa phương Tây, do nó quan niệm “tính chất bất biến của cá nhân” theo triết học Hi lạp, được coi như những nguyên tử ban đầu tạo ra xã hội, từ đó nó có “quyền con người đỏi hỏi tự do cá nhân”, từ đó nó có luật pháp theo xu hưởng cá nhân ích kỷ tổng thể (individualisme intégrale, chứ ích kỷ egoisme tôi thêm vào cho nó rõ nghĩa). Nishida khi chuyển tải nội dung triết học phương Đông ra ngôn ngữ phương Tây, theo quan niệm phương Tây đã chỉ ra rằng con người cá nhân không phải là một thực thể bất biến theo không gian và thời gian. Điều này đối với phương Tây là cực lạ, và nó không hiểu được, nhưng với một người VN, Nhật, Hàn, TQ .. thì điều đó là điều hiển nhiên. Ta thậm chí còn có khái niệm tâm linh hơn nữa đó là “địa linh nhân kiệt”. Như vậy cái môi trường này tôi đặt tên cho nó là “không gian nhận thức” cho nó có tính triết học hơn. Và tiếp dưới đây tôi sẽ phân tích các định kiến của môi trường nhận thức, mà theo ý tôi đã .. tạo ra ông Sơn và nhận thức của ông, đó là môi trường nhận thức ở thành Phố Hồ Chí Minh và những định kiến của nó trong lịch sử VN hiện đại.
Phó Thường Nhân
Điều đặc biệt nhất của Sài gòn như tôi đã nói ở trên đó là thành phố có văn hóa đô thị kiểu phương Tây già nhất VN, không những thế trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ tính chất đô thị của thành phố càng được tăng cường chứ không giảm đi. Tại sao ?
Từ thời thuộc Pháp, Sài gòn không phải là đô thị duy nhất, dù nó đã là đô thị lớn nhất. Tiếp đó là Hà nội, Hải phòng, Nam định, Vinh, Đà nẵng. Ở ngoài Bắc, Hải phòng đóng vai trò kinh tế như là Sài gòn, nhưng trung tâm chính trị thì lại ở Hà nội. Vì thế Hà nội không thể lớn hơn Sài gòn, vì Sài gòn đảm nhiệm 2 trung tâm chập một với miền Nam.
Trong kháng chiến chống Mỹ, do chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, nên dân số thành phố lại giảm đi, dẫn tới hiện tượng “nông thôn hóa đô thị”.
Ở trong Nam, trong vùng kiểm soát của chính quyền miền Nam cũ, sự kiểm soát này chủ yếu là đô thị, đặc biệt là Sài gòn. Vì thế tính chất đô thị của thành phố này tiếp tục tăng. Thành phố cũng không bị tàn phá bởi chiến tranh (nếu tính trong một phạm vi hẹp với đường kinh khoảng 20km từ trong trung tâm trở ra). Do có viện trợ Mỹ, kinh tế thị trường tham nhũng, đồng thời Sài gon cũng là 1 trong ba trung tâm có “công nghiệp tình dục cho lính Mỹ” lớn nhất thế giới (2 trung tâm tiếp là Băng cốc và Manilla), do chiến tranh của Mỹ ở VN cho nên đời sống của một bộ phận dân thành phố khấm khá.
Ta có thể lấy ngay ví dụ của học giả Nguyễn Hiến Lê, tôi có đọc hồi ký của ông, và người ta có thể thấy thị trường Sài gòn là thị trường chủ yếu tiêu thụ sách ông dịch hay viết. Mặc dù chiến tranh, và mặc dù ông ấy chống chiến tranh, nhưng cuộc sống của ông chính nhờ có chiến tranh mà chạy. Tôi cũng đã từng gặp những người sống ở SG cũ, trước năm 1975, họ làm đại lý nhập khẩu xe máy Nhật, sống rất ổn.
Nhưng Sài gòn chỉ là một ốc đảo, trong một biển lửa chiến tranh, và tiền tạo ra thị trường cho nó, phải trả bằng máu và bom đạn Mỹ ném xuống các nơi khác ở VN. Cũng do chiến tranh loạn lạc, mà dân số thành phố phình lên rất nhanh, không phải là do nhu cầu phát triển kinh tế tạo ra. Không phải người nào cũng giống như người nhập xe máy Nhật bán mà tôi nói ở trên, Sài gòn không thiếu nhà ổ chuột, nhưng với số tiền Mỹ đổ vào do nhu cầu chiến tranh, thì dù sống bấp bênh, vẫn có thể sống được.
Về mặt văn hóa, Thành phố này chưa bao giờ cắt đứt liên lạc với phương Tây, và nhận thức văn hóa của nó vẫn tiếp nối những gì mà Pháp đã thiết lập ở Vn từ thời thuộc địa. Điều đặc biệt là mặc dù có 20 “Mỹ hóa”, ảnh hưởng văn hóa sâu đậm nhất vẫn là Pháp. Mỹ chỉ chiếm lĩnh một phần lĩnh vực âm nhạc, thái độ thực dụng thực tế của business kiểu Mỹ, chứ còn về mặt văn hóa đơn thuần, thì Sài gon vẫn có đặc trưng Pháp là chính.
Nhưng câu chuyện đổi khác sau năm 1975. Như tôi đã nói, thành phố thực sự đã đi vào ngõ cụt của khủng hoảng kinh tế từ khi Mỹ rút đi vào năm 1973. Sài gòn nhận hai cú sốc lớn, đó là cú sốc mất viện trợ chiến tranh Mỹ (các vùng khác của VN là nạn nhân, nhưng Sài gòn thì hưởng), đồng thời với khủng hoảng dầu mỏ 1973.
Sau năm 1975, sự khủng hoảng này được che đi bởi “chính sách kinh tế tập thể hóa”, khiến cho người ta có tâm lý đổ mọi tội lỗi cho nó. Và từ đó có một tâm lý phát sinh, đó là Sài gòn thời trước tốt hơn, hay hơn. Với việc đổi mới, kinh tế thị trường quay trở lại, thì tâm lý này về mặt nhận thức càng được củng cố.
Điều này nó ngấm sâu vào tâm lý chung, cách đây ít lâu, có lẽ cũng vài năm, khi đọc một bài báo trên báo VN hiện tại, có bài của anh hùng quân đội Nguyễn Thành Chung, ông là người đã lái F5 ném bom vào dinh độc lập 1975, tạo ra biểu tượng chiến công của không quân VN, ông ấy cũng nói là “khi giải phóng miền Bắc có gì”. Trong một quyển sách, cũng in ở Vn ngày nay, với tên gọi “VN mãnh hổ hay mèo rừng”, của một tác giả là Việt kiểu nhưng làm cho một cơ quan tài chính quốc tế, cũng có đoạn “miền Bắc có gì”. Còn trong nhân dân, vào khoảng cỡ nhưng năm đầu 80, có câu tục ngữ “miền nam nhận HỌ, miền Bắc nhận HÀNG”.
Quả thật điều này, nếu nhìn trực giác, qua một sự việc bình thường, thì đúng là khi vào Sài gòn chơi hay công tác, khi về người ta nếu khéo có thể mua được cái tủ lạnh, cái quạt bàn, cái khung xe đạp, ..Nhiều khi cũng méo mặt vì mua nhầm đồ rởm, đồ giả nhưng vào thời buổi khó khăn sau chiến tranh đó là chuyện thường tình.
Như vậy đối với một người bình thường, nhìn trực quan bình thường, thì Sài gòn là tuyệt với, và cái tuyệt vời đó là do .. trước để lại.
Trong một không gian nhận thức như thế, thì tất cả những cái gì của VN khác đều bị xổ toẹt, đặc biệt những gì liên quan tới cách mạng, kháng chiến, .. và đi cùng với nó, cái nhìn phương Tây trở thành điểm chuẩn.
Một điều thú vị nữa là không phải chỉ có người Sài gòn cũ mới có tâm lý ấy, mà cả những người vào đây sau khi thống nhất cũng như vậy, tôi muốn nói ở đây là các dạng trí thức. Bởi vì ở đây họ tiếp xúc trở lại với toàn bộ nhận thức từ thời thực dân cũ để lại, tiếp tục, điều mà ở ngoài Bắc không còn có sau năm 1954. Vào thời điểm Liên Xô tan rã, nhưng nhận thức này được họ tiếp nhận một cách không có phê phán, để từ đó họ coi đây là “đổi mới”, trong khi nó chỉ là nhận thức định kiến có từ thời thực dân Pháp và được chính quyền miền Nam củng cố.
Tôi là một người sưu tập sách. Trong sách tôi tìm kiếm có rất nhiều sách miền Nam cũ trước 1975. Nhận xét của tôi là sách vở trước năm 1975 ở Sài gòn, có cái gì đó giống như sách vở ở miền Bắc cho tới năm 1955, đặc biệt là của nhà xuất bản Văn-Sử-Địa (sau được đổi thành nhà xuất bản khoa học xã hội). Tôi rất thích chúng, nhưng tôi không coi đó là những chuẩn nhận thức hay khám phá. Có nhiều tư liệu dùng được, nhưng với tôi nó chỉ tương đương với nhận thức phương Tây tuyên truyền cùng thời chứ không phải là cái gì mới khám phá.
Tôi cũng sưu tập cả sách miền Bắc thời bao cấp. Với tôi nó cũng có rất nhiều điều thú vị trong đó. Và với thời gian, có lẽ nó sẽ là những nhận thức đặc biệt, chỉ có VN có, là “hàng độc”. Vì hiện tại Vn đã hội nhập với quốc tế, nhận thức tới từ phương Tây kiểu như nó du nhập Sài gòn ngay trước không thiếu. Điều quan trọng là có lật lại được hệ quy chiếu phân biệt đúng sai mà dùng nó hay không.
Gần đây khi về VN chơi, đi vào đường sách ở Sài gòn, tôi thấy rất thú vị là vẫn còn có tiệm sách bán sách cũ từ thời trước 75. Quyển nào nhìn có vẻ hay thì giá cực đặt, tính bằng tiền triệu (VND). Cũng vẫn còn cách kinh doanh sách bằng việc in lại, copy. Việc còn thị trường sách này, chứng tỏ vẫn có một bộ phân người dân yêu sách, thích sách này, có thể họ còn có một cái gì như yêu thích quá khứ nữa. Những sẽ rất sai lầm là coi chúng như một nhận thức thật sự mà không coi chúng là tư liệu của một thời điểm.
root
QUOTE(Phó Thường Nhân @ Jan 26 2023, 11:27 PM)

Gần đây khi về VN chơi, đi vào đường sách ở Sài gòn, tôi thấy rất thú vị là vẫn còn có tiệm sách bán sách cũ từ thời trước 75. Quyển nào nhìn có vẻ hay thì giá cực đặt, tính bằng tiền triệu (VND). Cũng vẫn còn cách kinh doanh sách bằng việc in lại, copy. Việc còn thị trường sách này, chứng tỏ vẫn có một bộ phân người dân yêu sách, thích sách này, có thể họ còn có một cái gì như yêu thích quá khứ nữa. Những sẽ rất sai lầm là coi chúng như một nhận thức thật sự mà không coi chúng là tư liệu của một thời điểm.
*



Rất nhiều người yêu thích sách, nên thị trường sách giấy xuất bản vẫn rất sôi động.
Còn em thì từ ngày mua cái máy đọc sách Kindle thì thôi không mua sách nữa sp_ike.gif
Phó Thường Nhân
Trên đây tôi đã nói về một típ trí thức VN Tây học. Nhận thức của họ, do có định kiến của một vùng đất, lịch sử một vùng đất là thành phố HCM ngay nay đã khiến họ dừng lại ở nhận thức phương Tây thời thực dân Pháp, cũng như của xã hội VN thuộc địa (xã hội Vn thuộc địa này tồn tại tới năm 1975, chứ không phải kết thúc vào năm 1954) rồi cứ bám vào đó như một chân lý. Những định kiến này lại được củng cố hơn do cái nhìn và trải nghiệm trực quan. Điều này với một người dân bình thường thì có thể hiểu được, nhưng với những người tự nhận mình là tinh hoa, thì nó có cái gì đó buồn cười, tiếu lâm.
Gần đây khi vào TP HCM, lúc ngồi uống cốc nước ổi trên vỉa hè của khách sạn Caravelle, tức là cái terasse của nó, cảm nhận sự mỹ lệ của thành phố với tôi là một sự thật. Nhưng đó là công sức của người dân thành phố này hiện tại, chứ quá khứ kia nó đã trôi xa rồi. Không hiểu sao trong đầu tôi lại nổi lên nhạc điệu của bài hát “Sài gòn đẹp lắm Sài gòn ơi..”, bài nhạc xưa, nhưng cảm giác của tôi là ngày hôm nay, bây giờ, giờ phút này.
Chỉ là một người khách du lịch qua đường, nhưng Sài gòn lại để lại cho tôi nhiều cảm giác thân quen, như là đã biết nó từ lâu. Có thể vì phong cách đô thị Pháp của nó. Một đô thị đã được bản địa hóa, ở đây tính chất đô thị của TP không lai căng, vì nó có lịch sử, và có việc người Việt đã sử dụng chúng như thế nào, nên nó đã được bản địa hóa. Phải chăng đây là điều làm cho thành phố thu hút người ta, ngoài vấn đề làm ăn kinh tế.
Chính vì thành phố có lịch sử, nên tôi hoàn toàn đồng ý với tác giả Nguyễn Thị Hậu, đó là TP cũng phải có nhận thức bảo vệ các di tích lịch sử văn hóa của mình. Đây chính là đặc trưng của thành phố, là cái quỹ văn hóa của nó. Khu trung tâm của TP (quận I) rất là đẹp. Hiện tại các thành phố lớn trên thế giới có hai cách để tạo ra đặc trưng.
1- Bảo tồn các di tích cũ, nhận thấy giá trị văn hóa của nó như đặc trưng của thành phố
2- Xây các công trình mới cực kỳ độc đáo có một không hai làm biểu tượng.
Cả hai cách này không đối kháng nhau, nhưng cách 1 có một giá trị mà không bao giờ cách 2 có được đó là thời gian, nhân chứng lịch sử. Hai cách này có thể bổ xung cho nhau, vì thế không nên phá cái cũ để xây cái mới vào đó (do vấn đề .. sử dụng đầu cơ đất vàng), một cái mới không có gì đặc sắc, đi bất cứ đô thị hiện đại nào cũng có.
Gần đây, tức là khi tôi đang viết về Sài gòn trong chủ đề này, học giả Nguyễn Thị Hậu lại có một bài báo nói về Sài gon với tựa đề “TP HCM trong cơn lốc đô thị hóa”. Bài báo cũng vẫn tiếp tư duy của tác giả đã được đăng trong quyển sách tôi đang bình luận này, đó là vấn đề bảo tồn văn hóa cổ ở thành phố. Theo tác giả thì vẫn còn tới 500 ngôi nhà cổ, có các công trình kiến trúc kiểu Art déco, một phong trào kiến trúc châu Âu thịnh hành vào những năm 20,30 của thế kỷ trước, rồi các chùa chiền, lăng mộ, .. Một không gian kết hợp phong cách “Việt-Hoa-Châu Âu” (tôi có thể bổ xung thêm Châu Âu ở đây thực ra là Pháp)
Cũng tình cờ có một bài viết về vấn đề kiều hối, trên tờ báo “chính thống của chính thống” là báo Nhân dân, với tựa đề “Kiều Hối – “nguồn lực vàng” gia tăng sức mạnh tài chính” nên tôi có thêm số liệu để bổ xung vào phần viết về Sài gòn này. Theo bài báo lượng kiều hối năm 2022 toàn quốc là 19 tỉ đô, trong đó về TP HCM là 6 tỉ đô. Thành phố luôn dẫn đầu về tỉ lệ kiều hồi so với các địa phương khác. Tổng số kiều hối từ năm 1993 đến nay đạt 200 tỉ đô, vượt hơn tổng số đầu từ FDI có 190 tỉ, dù tính bắt đầu từ khi đổi mới là 1986. Điều này khẳng định sự phân tích của tôi về kiều hối trong giai đoạn vượt khó của thành phố là quan trọng.
Thêm một số chi tiết nữa. Do TP HCM chiếm 1/3 PNB của VN, PNB của VN hiện nay khoảng 380 tỉ đô. Nên sự đóng góp của thành phố là 126 tỉ, con số kiều hối 6 tỉ hiện nay như vậy không còn là động lực và nguồn phát triển chính của thành phố.
Vào thời điểm 1975. Số hàng hóa tiêu thụ dân dụng mà Mỹ để lại khoảng 2 tỉ, nếu tính tỉ giá hiện tại coi nó là gấp đôi đi, thì là 4 tỉ. Viện trợ phát triển của Mỹ khoảng 1 tỉ nữa, cộng với tiền trộm cắp tham nhũng viện trợ chiến tranh khoảng 1 tỉ. Như vậy tính vào thời giá hiện tại, Sài gòn lúc đó có quy mô kinh tế : 8 tỉ (so với 126 tỉ hiện nay).
Hiển nhiên TP HCM hôm nay, vượt rất xa Sài gòn thời đó. Không nhưng thế còn là thành phố bình yên, của một đất nước hòa bình. Sẽ thú vị nữa nếu tìm hiểu các đại gia của thành phố ngày hôm nay từ đâu ra, có phải là “đồ để lại” từ thời trước không, thì câu trả lời chắc chắn cũng là không.
Nếu không gian sống đã thay đổi thế, thì tại sao các ông cứ bám vào những nhận thức cũ rích, định kiến từ thời thực dân, bám vào không gian nhận thức cũ rích từ những năm 30 của nó. Kể cũng kỳ lạ.
Pages: 1, 2
Quán nước đầu làng Ven > Sáng Tác - Thảo Luận - Phổ biến kiến thức > CLB Văn Hoá - Lịch sử
Bạn đang xem phiên bản gọn nhẹ của diễn đ n dưới dạng text, để xem các b i viết với đầy đủ mầu sắc v hình ảnh hãy nhấn v o đây !
Invision Power Board © 2001-2023 Invision Power Services, Inc.