Langven.com Forum

Giúp đỡ - Lục lọi - Dân l ng - Lịch
Full Version: Mấy ý Về Thơ
Quán nước đầu làng Ven > Sáng Tác - Thảo Luận - Phổ biến kiến thức > Văn Học & Ngôn Ngữ
Milou
Mấy ý Về Thơ
(Văn Cao, Cuộc đời và Tác phẩm)

Một trong những hướng xây dựng nhân văn là đào tạo cho xã hội những người biết khai thác, khám phá, phân tích thực tế và mở đường cho tương lai. Nhà thơ trước hết, muốn làm nhiệm vụ ấy, phải có những đặc tính trên. Chính những đặc tính đó đặt ra vấn đề thành lập cá tính cho mỗi nhà thơ.

Trong lãnh vực Văn Học Nghệ Thuật, nếu có một số nguyên tắc để giải quyết những vấn đề căn bản của xã hội loài người thì cũng chỉ là một phương pháp sơ lược dùng để gợi ý cho mọi người phát triển hay sáng tạo. Người ta không thể nào biết rõ và hạn chế được tất cả những sáng kiến, phát minh vì người ta không thể biết rõ và hạn chế hết những nhu cầu của loài người ngày một phức tạp hơn lên. Trái lại,trong cách suy nghĩ khác, nếu có người cho là yêu cầu của loài người sẽ dần dần đơn giản và có thể điều khiển được như máy móc, thì người ta sẽ nhờ đến việc đơn giản và bớt đi những phát minh mới mở đường cho Văn học và Nghệ thuật.

đến với cuộc đời, nhà thơ không chịu đựng một sự may rủi mà phải chủ động thành lập nên sự thẩm mỹ mới cho người đọc, chủ động xây dựng con người biết tư tưởng cảm xúc và cảm giác tinh tế như mình trong xã hội đương thời và cả xã hội sau này. Không ai ngăn những nhà thơ lần mò cặm cụi đi theo những lối mòn. Khốn nỗi những người đọc của chúng ta lại cứ muốn tìm trong cái đám đông người bộ mặt có thể ưa thích được. Họ không muốn nghe lại những ý những lời đã cũ cũng như không muốn mua lại những đồ cũ mà họ đã phải thải đi từ lâu rồi. Người ta yêu những người cố mở đường mà thất bại, yêu những người biết thất bại mà mở đường. Bởi vì,những người đó đã nghĩ đến sự tiến bộ của Nghệ thuật.

Cái mới đâu phải là những cái không sẵn có. Sự làm mới những cái sẵn có cũng là một phương pháp sáng tạo. đã hàng thế kỷ, mỗi nhà thơ vẫn hàng ngày vẫy gọi mặt trời đến chiếu vào tâm trang mình. Thế mà những câu thơ hôm nay về mặt trăng mặt trời vẫn mới mẻ như đêm như ngày qua lại, cái mới trước hết là cái mới trong tư tưởng, trong cảm xúc và trong càm giác của nhà thơ. Tấm bia trên mồ một người đã khuất cò lẽ còn ở lâu trên mặt đất hơn một cuộc đời. Biết bao nhiêu bài thơ mang cái mới nhất thời đã rụng trong khi tác gỉa của nó còn sống. Nguyễn Du khi sáng tạo cái mới trong thơ còn lo ba trăm năm sau không có người hiểu. Người thành công nhất ngày nay phải lo tới thất bại ngày sau và người lo thất bại ngày nay cũng phải lo tới cái thất bại ngày sau. Nếu không có sự lo lắng đó, một nhà thơ không nghĩ tới trách nhiệm của mình khi viết, hoặc chỉ viết cho người bây giờ mà không có trách nhiệm với người sau.

Chúng ta đọc một nhà thơ như đi theo một dòng sông. Dù bắt đầu từ khúc nào, dù ghé vào bến nào, chúng ta đều phải nghĩ là ngược lên nguồn thì đường dài lắm, mà xuôi ra biển thì biển còn xa. Hai điểm đầu và cuối đó đều thấy vô cùng. Ai muốn khám phá xem con đường ngược và đường xuôi như thế nào còn có thể tiếp tục nhau khai thác được nhiều. Cuộc đời và Nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng . Mỗi chữ mỗi câu, mỗi bài thơ mở ra cái quãng ngược, quãng xuôi, những cái không nói tới mà người đọc càng tìm thấy mãi. Sự thất bại thường gặp trong bài thơ là sự khép lại : khép tất cả sự muốn nghĩ và muốn nói. Người ta đã đánh giá sai lầm về trí tuệ của đại chúng. Tôi nghĩ rằng trí tuệ ấy, sẽ phong phú bởi vì nó dần dần được tập trung hết kho tàng của dĩ vãng (trong đó có phần trí tuệ của nhà thơ).

Có người nói thẳng tới cái vô cùng tận của trời xanh, có người nói cái vô cùng tận của trời xanh qua cái rộng của biển, cũng có người thấy trời xanh vô cùng tận trong bát nước và cũng có người chỉ nói tới một giọt ánh sáng để tìm thấy cái vô cùng tận của trời xanh . Có người phải tìm con đường lớn mới thấy dấu xe mà có người tìm thấy dấu xe trong một hạt bụi. đấy là những khác nhau giữa những nhà thơ. Sao nghệ thuật không biết tìm ở đấy sự phong phú ? Sao người làm thơ không biết tìm riêng lấy một cách thể hiện ?

Qua một bài thơ, người ta thấy ngay con người của nhà thơ đang sống thực, Tư tưởng cảm xúc và cảm giác của nhà thơ phải thể hiện tinh vi. Câu thơ như vào trong óc để gợi sự suy nghĩ, vào trong tình cảm để xúc động và như vào trong da thịt để khêu gợi ! Chỉ riêng cái phần giác quan của nhà thơ cũng nói được cái hướng biểu hiện hoặc thiên về tư tưởng, hoặc thiên về cảm xúc, hoặc thiên về cảm giác. Cái khuynh hướng đó nhiều khi là của cả một thời đại, một môn phái hay một triết học. Chúng ta đã qua một thời kỳ dài thiên về cảm xúc và một thời kỳ cảm giác. Cái thời kỳ thiên về tư tưởng có phải đang bắt đầu ? Người làm thơ biết thành lập cho mình một cá tính trong suy nghĩ, trong tình cảm, trong cảm giác những điều mới lạ bao nhiêu là làm phong phú thêm cho người đọc về mặt tư tưởng, cảm xúc hay cảm giác. Người đọc bị cuốn sau cùng vào cái khuynh hướng của nhà thơ. Trong đời sống của chúng ta hiện nay có biết bao nhiêu người đã chịu ảnh hưởng trực tiếp của các tác phẩm Văn học và Nghệ thuật và cũng có biết bao nhiêu sự biến đổi xã hội gây ra do cách đặt vấn đề của những tác phẩm này.

Người làm thơ phải đi tìm những tư tưởng, cảm xúc và cảm giác trên kia trong thực tế ở những con người đang hàng ngày túi bụi xây. Càng tới gần cái cuộc sống đầy mâu thuẫn đấu tranh là càng như đi gần lại một kho thuốc nổ. Có người dao động và sợ hải quay lưng. Có người vụng về mà làm nổ. Nhưng cũng có người can đảm biết làm nổ để mở đường.

Hôm nay, con đường lớn nhất của chúng ta là mở cho tất cả những giấc mơ, những khát vọng thuộc về sự sáng tạo của con người tự do phát triển bay đi xe mật về ổ. Mở cho những giấc mơ, những khát vọng tự do phát triển bao nhiêu là tật trung tất cả giấc mơ và khát vọng của con người làm thành mũi nhọn kéo lê đi phía sau cái thực tế chập chạp.

Văn Cao
12-7-1957
Milou
Nhà văn Nhất Linh (1906-1963)

đời Thi Sĩ
(tạp chí Văn Học Nghệ Thuật số 3 bộ mới tháng 7 năm 1985)

Trước hết, tôi là một thi sĩ. Năm mười tuổi phải rời bỏ Hà Nội về huyện Cẩm Giàng, tôi đâm ra nhớ Hà Nội và làm thơ. Bài thơ khá dài, nhưng tiếc thay không nhớ hết. Có một câu tả cảnh hồ Gươm tôi còn nhớ nhưng đến nay (nghĩa là 43 năm sau) tôi cũng chưa thấy được cái hay của nó :

Chung quanh cây cối rườm rà
Giữa hồ có một chùa ta đây này

Thầy tôi biết ngay là thơ không xuôi nên đổi ra :

Giữa hồ có một chùa là Ngọc Sơn

Tôi còn bé nhưng cũng biết ngay câu thơ của thầy tôi hay hơn.

Tôi lại là người làm thơ mới thứ nhất của nước Việt Nam. Bài thơ bốn câu tôi còn nhớ cả :

Hai bên trắng nước chảy te te
Cầu ngang bắc lại tỉ tẻ te
Bầu giời ngõ trắng tròn xoe xoe
Chim kêu ríu rít, cánh buồm te

Gần hai mươi năm sau lúc bắt đầu có thơ mới tôi mới biết mình là nhà thơ mới đầu tiên, còn thơ thì đến nay tôi cũng chưa thấy nó hay ở chỗ nào. Nhưng mới thì nhất định mới vì những chữ hai bên trắng , cầu ngang, bầu giời ngõ trắng cũng bí hiểm như những bài thơ mới nhất của những nhà làm thơ mới bí hiểm nhất.

được cái viết thơ mới, thầy tôi chịu không biết chữa thế nào. Thầy tôi chỉ lắc đầu thở dài, cho tôi là một thằng bé lẩn thẩn. Rất tiếc là năm tôi 13 tuổi thì thầy tôi mất và vì thế không được cái vui thấy con mình bốn năm sau có hai bài thơ đăng ở Trung Bắc Tân Văn. Thơ ấy vịnh cảnh đi thuyền chơi trăng trên Hồ Tây. Tôi còn nhớ hai câu :

Con thuyền đè sóng tênh tênh vượt
Chiếc bóng sau người lướt thướt theo !

Thầy tôi vốn hay làm thơ và thích thơ đúng niêm luật (1), chắc phải cho hai câu trên này là đúng niêm luật và đối chọi chua chát. Hai bài thơ của tôi cũng không hơn không kém gì mấy nghìn bài thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn hồi đó (1922), nhưng riêng đối với tôi thật là một kỷ niệm êm đẹp : tên tôi và văn tôi lần đầu tiên được lên báo.

Trong báo Phong Hóa lúc bắt đầu cổ động cho thơ mới tôi cũng có viết ít bài nhưng đến khi có thơ Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận ra đời thì tôi tự thấy mình là người thừa trong làng thơ.

Bài thơ cuối cùng của tôi trong đời làm báo là bài "Dân Quê" Bài ấy đã làm cho báo Phong Hóa (đăng bài thơ ấy) suýt bị đóng cửa, tôi bị mời ra ty kiểm duyệt và báo bán tăng thêm được hai nghìn số.

Từ ấy tôi không làm thơ nữa.

Mười năm sau (1945) ở hải ngoại về Hà Giang, tôi lại làm thơ, nhưng làm thơ...chính trị. Hồi ấy Hà Giang bị Việt Minh bao vây phải mở chợ phiên lấy tiền giúp quân đội. Nhà thi sĩ mặc binh phục, đi giày cao ống cầm kéo cắt giây chăng cửa trong khi một tràng súng liên thanh nổ vang cả tỉnh lỵ Hà Giang và mấy cô thiếu nữ dâng hoa. Nhà thi sĩ thì thích hoa, nhưng sợ tiếng súng. Nhà chiến sĩ thì thích súng và sợ hoa. Người tôi lúc đó vừa thích vừa sợ lại vừa sợ vừa thích thật là phân vân khó tả. Nhưng biết làm thơ cũng là một cái lợi. Chợ phiên có bán một bức tranh vẽ bó hoa và người mua tranh cứ nhất định đòi phải có bài thơ vịnh của nhà thi sĩ chiến sĩ họ mới trả 2.000 đồng(gần hai vạn bạc bây giờ). Thế là tôi phải làm thơ. Thơ rằng :

Trăm đóa hoa tươi hợp sắc màu
Muôn nghìn người Việt dạ như nhau
Bó hoa biểu hiện tình đoàn kết
Của khắp nhân dân vạn kiếp sau

Nhà thi sĩ mơ mộng hão huyền : Muôn nghìn người Việt dạ như nhau và đoàn kết ! Trước sự thực, nhà thi sĩ thở dài

Bài thơ tuy mơ mộng nhưng thực là "hàng hàng châu ngọc" vì mỗi chữ bán được bảy trăm đồng bây giờ. Chưa bao giờ tiền nhuận bút của tôi lại nhiều như vậy, nhưng than ôi, tiền lại không vào túi mình.

đến lúc tôi làm bộ trưởng ngoại giao trong chính phủ liên hiệp và trưởng phái đoàn phái bộ ở đà Lạt để đàm phán với Pháp thì tôi lại có dịp làm thơ ...khôi hài, và làm cả thơ Tây.

Những thơ ấy tôi cùng làm với ông bạn quen đã lâu, rất vui tính, ông Nguyễn Duy Thanh lúc đó là cố vấn chuyên môn của phái đoàn. đoàn trưởng của phái bộ Pháp là ông Max André (Mạc ăng đê) . Sau gần một tháng hai bên thăm dò ý kiến nhau đủ thứ, thì ông Max André phải về Pháp. Chúng tôi (ông Thanh và tôi chứ không phải cả phái đoàn) họp kín trong phòng tôi và hai người cùng nhỏ lụy làm thơ sầu ly biệt :

ới Mạc quân, hỡi Mạc quân !
Tóc tơ ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Anh đường anh , tôi đường tôi
Biết bao giờ lại nối lời nước non,

Mấy câu thơ này không hay gì lắm, mà lại phải cái sáo nữa ! Quả nhiên tôi và ông Mạc, ông đường ông, tôi đường tôi, không bai giờ gặp nhau cả. Mới gần đây, ông bạn tôi có dịp gặp ông Mạc. ông có nhắc đến tôi. Xin cảm ơn ông nhưng trời đã định vậy, ông và tôi không bao giờ lại nối lời nước non nữa.

Bài thơ ấy chúng tôi có dịch ra tiếng Pháp và thơ dịch hay hơn nguyên văn nhiều :

Oh! Max André ! Ah! Max André !
Cheveux noir si court que ça !
Toi, chemin toi, moi, chemin moi

A quand se relieront les paroles d"Eau et

de Montagne, moi pas connaitre !

Thơ Tây đến thế, thật là tuyệt và thật là cảm động, đọc nghe thật trúc trắc và thật êm ru. Nhất là câu "si court que ça" điện ngắn củn và bỏ thõng đã tả được ý nghĩa của câu thơ như cái tàu đương chạy mau thả hơi hãm phanh gấp. Thanh âm "que ça" tả thật đúng tiếng hơi phì hãm phanh. Câu sau cùng kéo dài lòng lòng (trái hẳn với câu thứ hai ngắn củn) cốt để tả rõ thời gian dài vô hạn cho đến lúc hai bên lại nối lại lời nước non. Trong đời thi sĩ của tôi có mấy câu thơ tây trên đây là hay nhất !

Rồi chúng tôi làm thơ ta (lục bát lối ca dao)* bằng chữ tây :

Depuis que je te connaisse
Jusqu"ici c"est presque un moi

A quand on se revoir ?

Bien ! On se quitte, aur"voir monsieur !

Trong đời chính trị khô khan của tôi, mấy câu thơ này đã làm tôi trở lại cái đời sống vui vẻ của nhà viết báo khôi hài. Nếu cái cười chữa được bệnh thì trận cười vì mấy câu thơ này đã chữa được cái bệnh nghiêm trang giả vờ của tôi lúc giữ việc ngoại giao.

Khi qua đất Trung Hoa lần thứ hai, ở Nam Kinh, tôi lại có làm hai bài thơ "đốt Lò Than" và "Vịnh cụ N..."Nay chưa tiện đăng.

đó là hai bài thơ sau cùng của tôi và cũng là hai bài thơ cuối cùng của tôi, tôi mong thế !

*

Thơ mừng cụ Nguyễn Hải Thần , 70 tuổi, tóc chưa bạc sợi nào, cụ bà mới đẻ con trai :

Thần mộng đêm qua báo một câu
Báo rằng cụ Nguyễn sống còn lâu
Dân đen chưa thoát phường xanh mắt
Trời biếc đâu cho cụ bạc đầu
Càng nỏ, càng dai, càng giúp nước
để danh, để tiếng, để về sau
đưa thơ mừng cụ bẩy mươi tuổi *
Cụ đọc , cụ cười, cụ vuốt râu

Nam Kinh tháng chạp năm 1946

Nhóm Than đun Nước
Nước lạnh cho nên phải đốt lò
Hai bàn tay trắng những than tro
Chiếc nồi vừa nhóm còn leo lét
Ngọn lửa bùng lên đã sáng lòa
Than cựa thân hồng kêu lách tách
Nước giam ấm chật réo vo vo
Bật vung sức ép phì hơi tỏa
Chắc chẳng bao lâu nước sủi mà !

Nam Kinh 12-1946

(1) Trích ra đây bài thơ này thầy tôi làm khi rời huyện Chí Linh :

Lên ngựa chia tay luống ngại ngùng
Tình xưa bát ngát với non sông
Ai về nhắn nhủ giang sơn ấy
Sự tới nghìn thu vẫn đỉnh chung

Nhất Linh

Chú thích của tòa soạn Văn Học Nghệ Thuật :
* Trong di cảo , Nhất Linh ghi ở góc trên tờ bản thảo là để lại sau , có lẽ vì ông thấy phần này không thích hợp với tập hồi ký định viết về đời làm báo.
* Có lẽ Nhất Linh lầm, đây là thể thơ Song Thất Lục Bát, chứ không phải Lục Bát Lối Ca Dao.
* Nhất Linh có chữa hai câu kết thành :
Nước nhà lắm việc thân già mỏi
Miệng nửa cười vui, nửa ngậm sầu.
tdna
Thơ là tiếng lòng .Là những vần cất lên bay bổng .Vụt thoát ra trong giây phút thăng hoa của tâm hồn ,của cảm xúc .Bản thân cũng là người hay làm thơ ,có đúng 2 lần tôi được biết đến cảm giác lạ kỳ đó,như bị thôi miên ,vội vã ghi nhanh cho chóng quên ......

Những vần thơ không là tích tụ của cảm xúc thì chỉ có thể là những vần vô vị và chẳng có đến một chút sang tạo đặc sắc nào .Vì mỗi con người là mỗi cá nhân riêng biệt ,và mỗi cá nhân có một tâm hồn thơ riêng biệt và trong một hoàn cảnh riêng biệt thì mới có thơ .Bởi vậy ,không có cảm xúc thì không có sáng tạo .Sáng tạo trong thơ cũng phong phú như tâm hồn vậy

Làm thơ hay là phải có năng khiếu thiên phú .Không có năng khiếu không trở thành nhà thơ thực sự được .
Trong số những người không biết làm thơ ,hoặc không có nhiều bài đặc sắc ,rất nhiều người có khả năng cảm nhân hay bình thơ .Cái này không những cần những hiểu biết sâu sấc về thơ phú,về văn học mà cần có những đồng cảm ghê ghớm nữa .Biết thưởng thức thơ là tài hoa
Hưng
Thỉnh thoảng, tdna nói những câu đáng được in trong SGK. sp_ike.gif
Phó Thường Nhân
May là Nhất Linh nổi tiếng về tiểu thuyết trong tự lực văn đoàn, chứ ông lại định sống bằng thơ như thế này thì quả là thơ tàn. ;D sp_ike.gif sp_ike.gif
Milou
Tuệ sỹ

Bùi Giáng, trích trong tập "Ði vào cõi thơ"


Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u.... Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông :

Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi

Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết :

Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty

Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.

Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm ? Một bài thơ "Không đề" của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ :

Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn

Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn

Tôi hoảng vía đề nghị : Đại Sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho, Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.

Ông đáp : - Để về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.

Đôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời
Hội cũ

Xin xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì ? - Cung trời hội cũ.

Một hội đạp thanh ? Một hội nao nức ? - "Giờ nao nức của một thời trẻ dại ?".

Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ...

Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh.... Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại.

Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi người đều "phải nói" với mọi người "muốn nghe" với riêng mình "không thiết chi chuyện nói".

Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói tất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng phi giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả (par manque de justice interne).

Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.

Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du : "Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (... ...). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế ?".

Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch !

Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn chưa cứ thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác.

Đáp : Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.

Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ

Đôi mắt ướt ? Đôi mắt của ai ? Vì sao ướt ? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh ?

Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ.

Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng ?

"Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang"

Áo nào màu xanh ? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối ?

Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng trở về Sài Gòn tới chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây.

Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ.
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ ?

Mình là thân Bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ ? Dám gác bỏ kệ kinh ? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn ?

Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẩm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan

Ta tưởng như nghe ra "cao cách điệu" bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzche.

Thy nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn ? Ngồi trên một đỉnh đá ? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải ?

Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuết nguyệt phiêu du :

Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Một tiếng "buồn chăng" lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh đoạn trường :

Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi :
Đếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Đủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Đi
Quanh

Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ ? Một tuổi xuân chưa vừa ? Một tuổi vàng sớm chấm dứt ? Một tuổi "đá" sớm từ giã mọi yêu thương ?

Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn

Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đềm lữ thư khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.

Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
tdna
Bác nào có hứng trao đổi về cái gọi là vị thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh cái đi ,nhấn mạnh về thơ .Dạo qua chút thôi ,hẹn các bác .... :laugh.gif :laugh.gif :laugh.gif
Hoang Yen
Mayakovsky và Trần Dần - từ những tương đồng đến những dị biệt [1/2] Nguyễn Phượng

V. Mayakovsky (*) tự sát, qua đời khi Trần Dần mới 4 tuổi. Trần Dần nếu sớm được tiếp xúc với Mai a, phải là vào khoảng 1939 trở đi qua những bản dịch Pháp văn của E.S.L. (Editions sociales internationales) trong đó có cuốn Maiacovski, poète russe của Elsa Triolet. Trong và sau cuộc chiến chống thực dân Pháp, khi Mayakovsky đã trở nên quá quen thuộc với công chúng Việt Nam bởi các bản chuyển ngữ của Hoàng Trung Thông như tiểu luận Làm thơ như thế nào? (1951) và Sáu bài thơ Maiakôpxki (1954) thì mối quan hệ với Mayakovsky của Trần Dần có lẽ, chỉ dừng lại ở sự chia sẻ trong đơn độc những quan niệm cách mạng táo bạo và độc đáo về nghệ thuật và thơ ca mà thôi. Bởi vì, hai nhà thơ, tuy có điểm chung là đều mang một bầu nhiệt huyết thật lớn đối với Cách mạng vô sản và đấu tranh cải tạo xã hội, nhưng số phận văn học riêng của mỗi người lại có những điểm thật khác nhau:

Mai a từng là cây bút trụ cột của trường phái thơ vị lai, tác giả của trường ca mang cái tên lập dị: Đám mây mặc quần. Tuy nhiên sau Cách mạng tháng Mười ông đến với công chúng khá dễ dàng, gặt hái nhiều vinh quang, được coi là một cây bút sống với công chúng, vì công chúng và nhờ công chúng.

Trần Dần không có được niềm hạnh phúc đó, ông từng ở trong nhóm Dạ đài, viết Tuyên ngôn tượng trưng và khi kết thúc chiến tranh cũng đã mang cả một bầu máu nóng đến với cuộc sống mới. Vậy mà, về con người, trong thời gian nhà thơ còn bị hiểu nhầm, ngộ nhận, một ông Huy Vân nào đó trên báo Nhân Dân số ra ngày 25/4/1958 gọi Trần Dần là “một tâm hồn đồi trụy”, về thơ ca, cũng chính ông Huy Vân nói trên, phán rằng Trần Dần là kẻ mang “những quan điểm nghệ thuật sa đọa”. Với một gia tài thơ gần ba mươi năm bị niêm phong, Trần Dần khó đến được với công chúng và thực ra, thơ Trần Dần, công chúng nói chung không dễ tiếp nhận. Công chúng, trừ một số ít, phần lớn, không biết về ông, hoặc biết đến ông quá muộn.

Tuy nhiên, đó không phải là mục tiêu của bài viết này. Trần Dần từng bị mang tiếng là kẻ copy Mai a. Hễ nhắc đến Trần Dần là người ta nghĩ ngay đến thơ bậc thang và liên hệ ông với Mayakovsky. Hoàng Cầm, một thi hữu có những năm tháng trải qua hoạn nạn như ông đã có lần trách Trần Dần về chuyện ảnh hưởng Mai a. Dương Tường, một hậu bối thân thiết của các nhà thơ trong nhóm Nhân văn - Giai phẩm cũng cho rằng từ Mùa sạch (1964-1965) trở đi, Trần Dần mới thực sự và “dứt khoát rũ bỏ ảnh hưởng của thơ bậc thang và khẩu khí Mayakovsky”[1]. Chính Trần Dần cũng từng thừa nhận mình chịu ảnh hưởng Mai a, nhưng ông khẳng định rằng “tâm hồn có giống nhau thì mới ảnh hưởng nhau sâu sắc được” và, điều ông muốn nhấn mạnh là ông chịu ảnh hưởng thực tế Cách mạng Việt Nam. Dù sao, trong một bầu khí quyển mà ở đó người ta cho rằng “ảnh hưởng” là hai từ chẳng vinh dự gì thì những nhận xét nói trên, trong cách nhìn nào đấy có thể là một khổ lụy đối với người cầm bút, dẫu cho, với Trần Dần, vinh quang hay khổ lụy, thực ra chẳng có ý nghĩa gì nhiều. Điều chúng tôi quan tâm là ở vấn đề thơ bậc thang này, Trần Dần có thể bị thu hút bởi Mai a tới đâu, ông đã có những cố gắng nào để thoát khỏi từ trường của Mai a và, trong tư cách là những nghệ sĩ có nhiều điểm chung về khí chất, hai cây bút này đã có những ứng xử như thế nào trước những hằng số nghệ thuật của thời đại họ?

1. Từ những tương đồng...

Mai a đến với công chúng Việt Nam theo như ấn tượng của Hoàng Ngọc Hiến ghi trong cuốn Mayakôpxki con người, cuộc đời và thơ là qua những vần thơ nóng bỏng những câu thơ nảy lửa và với một giọng thơ rất khác thường, hồn nhiên, sôi nổi và mãnh liệt.

Ngay lập tức, Mayakovsky được một thế hệ những người cầm bút trẻ tuổi trưởng thành trong Cách mạng và kháng chiến đón nhận nồng nhiệt, chân thành. Quả vậy. Làm sao không bị hấp dẫn bởi một cái Tôi mạnh mẽ, ngang tàng như thế qua những lời tuyên bố về tình yêu:

Yêu nghĩa là
chạy thốc vào sân
Vung búa rìu
Ra tay bổ củi
(Thư gửi đồng chí Kôxtrốp)
Hay
Yêu là đánh ghen
với Côpécních
Không đánh ghen
với người tình địch
gã làm chồng cô ả Mari

Trần Dần thích Mai a, học theo lối thơ Mai a trước hết có lẽ, về khí chất, Trần Dần cũng có một cái gì tương tự.

Và đương nhiên, cả hai cây bút này đều không né tránh diễn đạt những điều trần trụi:

Mai a khinh miệt, công kích và không tiếc lời mạt sát những người viết lách cẩu thả:

Họ mấp máy môi
họ dùng ngòi bút
họ mửa lên
những trang giấy mịn màng
nhà thơ
chẳng khác gì con đĩ rẻ tiền,
vớ được chữ nào
cũng ăn nằm chung chạ.
(Veclen và Xêdan)

Cùng chung một ý tưởng, một thái độ như Mai a, Trần Dần kiêu hãnh tuyên bố:

...đi mãi
chẳng bao giờ thỏa
Tôi có thể mắc nhiều
tội lỗi
chẳng bao giờ quá ngu si
mắc tội: nằm ì...
Tôi có thể mặc thây
ngàn tiếng chửi tục tằn
trừ tiếng chửi: -
“ Sống không sáng tạo!”

Tuy nhiên, nếu Mai a thích dùng lối nói trực tiếp kiểu:

Chúng mày nghe, tao nói thẳng vào mặt,
mặt dày hơn
mặt lợn sề quái vật
mặt tròn xoe
như đĩa món cao lâu,
(Chương14, trường ca Tốt lắm)

hoặc:

Nhiều người tưởng
tôi muốn làm
viện sĩ đít to
chốn rừng rậm thơ
một mình ta cao đạo
(Gửi những nhà thơ vô sản)

thì Trần Dần thích một cách diễn đạt nhiều suy tư hơn:

Tôi khóc những chân trời
không có người bay
Lại khóc những người bay
không có chân trời
(Thơ mini 1988)

hoặc

Tôi đau ở...
mỗi người là một vụ án
mỗi người
chôn
sống - một chân mây
(Sổ bụi 1988)

Mai a chủ trương thơ phải đầy ắp chất nổ tư tưởng chính trị, phải hấp dẫn bằng sự mới mẻ thường xuyên về tư liệu, bằng sự đột phá về hình ảnh; tuy nhiên, những tìm tòi về hình ảnh và ý tưởng trong thơ ông không chiếm một tỉ lệ thật lớn. Người ta khó quên, dĩ nhiên, những cách nói riêng biệt của Mai a kiểu: Cối trong đầu xay tư duy mẻ cuối, tôi nhổ mặt trời cao, ngọn sóng tình cờ đú đởn hoặc chiếc búi tó thời gian, thái sơn lồng ngực, rừng già mái tóc, động cơ tim...

Nhưng đọc Trần Dần ta mới thực sự được sống với những ấn tượng mãnh liệt, trước hết, ở cách dùng những động từ cực mạnh theo thói quen tư duy của cư dân vùng nông nghiệp, kiểu như:

...mưa băm nát mặt, lửa hè đánh trộm sau lưng, gió sương đầu độc, vầng nhật thui, dĩ vãng đè trên lưng hiện tại, bóng tối đau như máy chém, lời ca đứt cổ bị bêu đầu, mưa đông phục kích, cỏ hoa làm chứng, cờ đỏ cãi cho tôi, phổi xâu xé lời thơ, đóng những câu thơ như người thợ đóng tàu...
(Bài thơ Việt Bắc)

Đất níu chân đi, gió cản áo bay về, nắng lụi, trời quật, bão gào, thơ khua bão gió...
(Nhất định thắng)

Tôi cắn chết nhiều ngày mưa, Tình yêu xích tên rồ kia lại, vồ một phố đèn lên, mưa thui lòng ngõ hẹp, Vỡ tuổi thơ, chữ nhảy như trong nhà điên, đồng hồ đấm những đấm tích tắc lòi tim, Tôi đánh vỡ của mọi người một mảnh sống: đời tôi. Tôi đổ bớt tôi đi, người đi vênh phố dốc, đồng hồ cổ kề cà cưa tích tắc/ ngọn đèn mồ chảy mủ phố về khuya...
(Cổng tỉnh)

Trần Dần có những cách định danh sự vật theo quan sát và cảm nhận của riêng mình, có thể được gợi hứng từ Mayakovsky nhưng phần nhiều là từ những trải nghiệm của cá nhân:

Thì hãy lấy mùi soa đêm chùi đôi mắt khổ
Hơn là mỏi răng nhai ràu rạu vỉa hè
(Cổng tỉnh)

Những cách gọi tên táo bạo kiểu mùi soa đêm xuất hiện đầy rẫy trong thơ Trần Dần với những: đề lao tim, va li tim, chấn song tôi, mũi kiếm heo may, con rắn lưỡi, ngọn hải đăng con mắt, thiêm thiếp đèn chiều, huyệt đêm, hầm hập bồ hôi cơn sốt phố, nham nhở gió, khô nỏ một chiều vàng, cô đơn lòng ngõ rỗng, xà lim lớp học, cho đến he hé lay ơn, dày dạy rạng đông, hom hem đèn lửa, sương mù rơm rớm ngã tư xưa...

Cách so sánh của Trần Dần thường tạo những ấn tượng bất ngờ, gây sốc:

Gió thổi kèn ma mưa thui lòng ngõ hẹp
ò...ò đi như một cỗ quan tài



Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã...

Dẫu sao, những năm tháng sống tách biệt với xã hội và văn học đã khiến ông, một người nhiệt huyết với đấu tranh cải tạo xã hội và với đổi mới thơ ca, chỉ còn cách rút sâu vào nội tâm và, trong một tập quán mà ở đó, nhà văn dường như chỉ tìm cách thỏa hiệp với công chúng còn nhà phê bình lại tìm cách thỏa hiệp với nhà văn thì Trần Dần, vì những tai nạn của mình đã chỉ có thể chấp nhận cách thế tồn tại của một cá thể sáng tạo trong cô độc[2] để là, và luôn luôn là một cá biệt, một giá trị.

2. ...đến những nỗ lực để thoát khỏi từ trường Mai a

Trước khi là nhà thơ, Mai a là một họa sĩ. Chính người họa sĩ trong Mayakovsky đã đề nghị hình thức thơ bậc thang thâm nhập vào thơ ca như một cách chia sẻ của nghệ thuật thị giác nhưng điều hệ trọng hơn, theo quan niệm của Mayakovsky, sự ngắt đoạn, tách câu thơ thành nhiều phần sẽ khiến cho dòng ngữ lưu “không có sự nhập nhằng về nghĩa cũng như về nhịp” mà mục đích là để “xây dựng câu thơ tiết kiệm và cô đọng, vứt đi những từ và âm tiết trung gian”[3].

Vì chính Trần Dần từng là người vẽ tranh minh họa (có nhiều lúc theo lối lập thể) trên các tờ báo Sông Đà, Giải phóng Tây Bắc, Giải phóng Biên Giới... trong khoảng từ 1946-1949 và sau này, tiếp tục để lại nhiều tranh đủ cỡ mà có người do yêu Trần Dần đã nói quá lên là một “tiếp nối vào école de Paris của những thập niên đầu thế kỷ 20”, cho nên có lẽ ông đã tìm thấy ở hình thức thơ bậc thang của Mai a một cơ hội để tiến hành cuộc cách mạng trong nghệ thuật mà mình đang thực sự quan tâm. Thế là không hẹn mà gặp, con người họa sĩ trong Trần Dần gặp con người họa sĩ trong Mai a song hành cùng con người khao khát cách tân thơ ca trong Trần Dần với con người cách tân trong Mai a. Nhưng ta cũng có thể thấy, cuộc hội ngộ này là rất chóng vánh. Đúng là khi tìm đến hình thức thơ bậc thang kiểu Mai a, Trần Dần đã rập theo con đường của nhà thơ cộng sản nổi tiếng người Nga. Chẳng hạn ở cách ngắt đoạn ấn định nhịp vừa để phát huy hết các tiềm lực của thanh âm vừa phân bố lại hình thức câu thơ tạo thêm nhiều khoảng trắng trên các dòng thơ cấp thêm một vẻ đẹp mới cho thị giác trong Nhất định thắng, Bài thơ Việt Bắc:

A tiếng kèn vang
quân đội anh hùng
Biển súng
rừng lê
bạt ngàn con mắt
(Nhất định thắng)

tôi sẽ nổ tung
ngàn kho đạn tiếng kêu
tan xác pháo
mọi cái gì cũ rích
(Bài thơ Việt Bắc)

Bên cạnh những liên quan mà ai cũng có thể thấy như thế, đọc những sáng tác của Trần Dần ta lại nghĩ, thực ra, ông chỉ ảnh hưởng Mai a ở hình thức câu thơ điện tín với tiết tấu nhanh, hàm súc, chính xác. Còn tư thế trữ tình đích thực của hai ông, trên thực tế hoàn toàn khác nhau. Mai a hướng ra bên ngoài, Trần Dần hướng vào bên trong. Mai a khẳng định cái Tôi như một khách thể, để bộc lộ, thu hút và để chiêm ngưỡng; Trần Dần khẳng định cái Tôi như một chủ thể, để vì mình, cho mình. Do đó, Mai a hướng tới cái tân hiện đại [4] từ việc khai thác cái đương đại, ngược lại, Trần Dần hướng tới cái tân hiện đại từ việc chọn lọc, lạ hóa cái truyền thống.

(Còn nữa)

_______________

Chú thích:

[1] Lời bạt Mùa sạch, NXB Hội Nhà văn 1994.
[2] Trần Dần đã liên tục viết trong suốt 30 năm không dưới 30 tác phẩm, trong đó có thể kể tên: Chiều mưa trước cửa (1943), Hồn xanh dị kỳ (1944), Dạ đài (1946), Tiếng trống tương lai (1954), Người người lớp lớp (1954), Nhất định thắng, Cách mạng tháng Tám (1955), Bài thơ Việt Bắc (1957), 17 tình ca (1957-1958 nằm), Cổng tỉnh (1960/1994 xb), Đêm núm sen (1961, tiểu thuyết, nằm), Những ngã tư và những cột đèn (1964, tiểu thuyết, nằm), Mùa sạch (1964 -1965/1998 xb), Một ngày Cẩm Phả (1965, tiểu thuyết, nằm), Con trắng (1967, thơ hồi ký, nằm), 177 cảnh (1968, hùng ca lụa, nằm), Động đất tâm thần (1974), Thơ không lời - Mây không lời (1978), Thiên thanh -77 - Ngày ngày (bộ tam,1979), 36 - Thở dài - Tư mã dâng sao (bộ tam, 1980), Thơ mini (1987)... cùng nhiều tranh và phác thảo, tất cả được soạn gộp trong 186 hồ sơ, đánh số thứ tự, đựng trong 24 cặp lớn.
[3] Maiakôpxki con người, cuộc đời và thơ, NXB ĐH&THCN Hà Nội, 1976 tr. 469.
[4] Thuật ngữ này chỉ là một đề nghị của riêng tôi.


[*] Ở Việt Nam hiện tồn tại nhiều cách viết tên nhà thơ, chẳng hạn theo phiên âm trực tiếp từ tiếng Nga, hoặc là qua tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. Theo đó, có các phiên bản: Mai-a-cốp-xki, Maiakôxki, Mayakovsky... Chúng tôi mạn phép tác giả, thống nhất dùng trong toàn bài cách viết tên nhà thơ theo tiếng Anh để bạn đọc tiện tìm kiếm trên mạng. Tuy vậy, chúng tôi vẫn giữ nguyên các cách phiên âm khác nhau tên của Mayakovsky trong cách tài liệu đã được in ấn trên giấy để bạn đọc có thể tra cứu ở thư viện. - eVăn.
Hoang Yen
Mayakovsky và Trần Dần - từ những tương đồng đến những dị biệt [2/2] Nguyễn Phượng

Đó có thể cũng là lý do giúp ta hiểu vì sao vị họa sĩ trong Mai a luôn luôn nhường chỗ và sẵn sàng phục vụ ý đồ chiếm lĩnh đại chúng cho ông nhà thơ trong Mai a, hay nói cách khác, với Mai a, hội họa phải chấp nhận một sự phản bội để ông này biến câu thơ với những khoảng trắng do sự ngắt quãng bậc thang thành câu thơ đơn thuần mang ngữ điệu khẩu ngữ, có khả năng tác động trực tiếp, thậm chí đạt được những ấn tượng thính giác tuyệt đối nếu như được gào lên, hét lên trên quảng trường thì ở Trần Dần tình hình có vẻ ngược lại: thơ và họa và sau này là nhạc sẽ từng bước chấp nhận một hôn phối kỳ lạ, sẽ phải cùng chung một hành trình và dấn thân vào một phiêu lưu để cùng đi tới cái chưa biết. Con đường đó là một khổ hạnh. Đầy gian nan và nguy hiểm. Nó được bắt đầu bằng cách đưa màu sắc vào những ký ức buồn:

Tôi một tên nô lệ vàng...
...Tôi cô đơn trời xanh cô đơn trời tía
Cô đơn nắng đào cô đơn mưa tái nhợt đầu ô
Cô đơn lang thang trong các đám đông
Trên quảng trường nham nhở gió...
(Cổng tỉnh)

Nhưng đêm quảng trường sương trắng xuống từ lâu...
Tôi đến bì bõm đen rãnh cống
Tôi vảy mảnh trời xanh trong vũng nước đục ngầu
(Cổng tỉnh)

cùng với những sắc màu còn là những đường nét:

Tôi vẫn thế! Vết nhăn bổ dọc trán
Chìm một đêm dâm môi ướt mượt môi đèn
Khô nỏ một chiều vàng cong lá đỏ con tim...
(Cổng tỉnh)

Cho đến khi con người hội họa lấn át, nhà thơ trong Trần Dần dường như chỉ tập trung vào việc tô đậm đường nét và dáng hình:

Em dài man dại
Em dài quên che đậy
Em dài tê tái
Em dài quên cân đối
Em dài bối rối
Em dài vô tội
Em dài - khổ tâm...

Nhiều người đã nhận thấy trong bức hình họa này Trần Dần tạo tác chân dung một phụ nữ khước từ những tiêu chuẩn của thẩm mỹ cổ điển. Tác giả nhấn mạnh nét không hài hòa trên cơ thể người con gái bằng hàng loạt những điệp từ nhưng đồng thời lại làm toát lên từ đó một sức quyến rũ, gợi cảm bí ẩn, bất ngờ và rất hiện đại. Cả trong việc vừa sáng tạo vừa bình giá bức chân dung sau đây ta cũng sẽ thấy thái độ đó chỉ có thể có ở Trần Dần:

Đáng lý em không nên đẹp
Đùi len mã vĩ
Triển lãm vườn hoa lõa thể
Anatomie lá hẹ
Ôi chao! Ngón chân thường lệ!...
Mông non phi lý
mang chức năng bé tí...
(Thơ 63-64)

Theo dõi tranh vẽ và thơ của Trần Dần trong khoảng đầu những năm 60 người ta dễ có cảm giác này: ông đang tích cực phủ định cái đẹp mang tính lãng mạn, trữ tình trong cả thơ và hội họa để hướng người đọc thơ và người thưởng thức hội họa (trong tưởng tượng) tới một vẻ đẹp mới, hiện đại hơn, tạo cho họ cái cơ hội được nhìn thế giới và con người theo một lăng kính khác, qua đề nghị của cá nhân ông.

3. Và cuộc kiếm tìm những hằng số nghệ thuật riêng

Rốt cuộc thì, dù có chia sẻ với hội họa tới mức nào, trong căn cốt, Trần Dần là một nhà thơ. Gọi thế chưa đủ, ông là một nhà thơ luôn luôn đi tìm Cái Mới. Cái Tôi nghệ sĩ mang phẩm chất tự do và nồng nhiệt, mạnh mẽ và ngang tàng ấy chỉ khao khát được bộc lộ những ý tưởng của riêng mình bằng cách nói của chính mình. Do đó, để không bị “Mai a hóa”, ông còn phải tiếp tục cuộc hành trình nơi Mai a đã dừng chân và để làm giàu thơ Việt, ông phải dấn sâu vào những thể nghiệm theo cái nguyên tắc “xây dựng một tập thơ là phá một ngục tù”.

Lục trong di cảo của Trần Dần người ta thấy có nhiều cuốn sổ trong đó những con chữ, những câu thơ được vẽ với rất nhiều hình thái khác nhau cùng sự tham gia của các dấu chấm, dấu phẩy được phóng đại cùng các đường thẳng, đường cong được sắp xếp theo một trật tự nào đó của Trần Dần nhưng điều lạ lùng là tất cả như vẫn đang tồn tại và sinh sôi nảy nở trong một thế giới riêng có đủ những vẫy gọi của bí ẩn, lạ lùng, quyến rũ, phồn thực, đồng dao, nguyên sơ nhưng chắc chắn không dễ thấu hiểu và chia sẻ.

Chỉ riêng kênh chữ trong thơ ông với những Mùa sạch, Jờ Joạcx, 36 - Thở dài - Tư Mã dâng sao...nhiều khi đã là những thách đố với tất cả những ai quen đọc thơ đơn nghĩa. Thậm chí chỉ đọc thơ với nghĩa là thơ thôi theo cách truyền thống, một người đọc “bình thường” như lời một người viết tự nhận trên mạng Tiền vệ, đã phải kêu lên rằng Trần Dần khó hiểu, chẳng có gì, nhàm chán, lập dị.

Tôi thấy lập dị, khó hiểu (và xa lạ nữa) ở Trần Dần chỉ là cảm giác ban đầu. Nếu chủ động đi vào thơ ông, sớm muộn ta sẽ nhận ra những nét quen thuộc. Chẳng hạn trong Mùa sạch, Trần Dần muốn tạo dựng tác phẩm theo cấu trúc của nhạc giao hưởng và đúng như tác giả đã tuyên bố ông “ cho chạy một basso ostinato (bè trầm trì tục) suốt tập thơ. Theo chỉ dẫn của Dương Tường, với việc lấy bốn từ trong - sạch - sáng - mùa làm chủ đề chính, tổ khúc giao hưởng Mùa sạch đã “khơi dậy biết bao nỗi niềm, biết bao xao xuyến, biết bao khao khát” [5]. Tại sao? Bởi trong kiến trúc vi thể, Trần Dần đã lấy đồng dao làm chất liệu. Đọc những câu thơ:

Đồng tiền xuân lum lúm má xuân
Lúa xuân dươn dướn vè xuân
Khói xuân hơn hớn bếp xuân
Nhịp càu xuân run rún ghính xuân
Đom đóm xuân lởn vởn ngõ xuân
Gái xuân con cón quê xuân...

ta nhớ những câu hát đồng dao phụ họa trò chơi của con trẻ:

Chuyền chuyền một, một đôi
Chuyền chuyền hai, hai đôi
Chuyền chuyền ba, ba đôi
Chuyền chuyền tư, tư đôi...

Cái đẹp vô danh, cái đẹp không biết bao giờ ta mới có thể gọi đúng tên được của những câu hát đồng dao là điều không ai có thể phủ nhận. Vậy sao ta yêu đồng dao dân gian mà lại ngoảnh mặt với việc Trần Dần hiện đại hóa đồng dao? Ngoài ra, ông còn phải được tính công do chỗ đã ươm những nụ, những búp chữ non tơ như: lum lúm, dươn dướn, hơn hớn, run rún, con cón... mà trong Mùa sạch, những sáng tạo như thế là vô vàn, không thể nào thống kê hết. Tất cả, đã tạo cho Mùa sạch một vẻ đẹp thật truyền thống mà cũng thật hiện đại.

Cũng như thế, trong Jờ joạcx, Trần Dần vừa kiến tạo những câu thơ thị giác vừa vận dụng âm hưởng của nhạc jazz để, qua cái ồn ào, ầm ĩ bề ngoài, chuyên chở cái buồn bã, sâu lắng bên trong rồi thỉnh thoảng ngẫu hứng, cấy vào một nét nhạc đồng quê tươi thắm và cả không tươi thắm?... một bát sẹo, một lẹo vú, một bú đít, một lít nách, một jạch tóc, một móc họng, một nọng thở, một hở jốn, một nọm nín, một mím ngực, một chực cắn, một nắn thẹn, một đẹn kén, một nén xác, một es píc, một híc bẹn, một lẹm nguýt, một quýt háng, một jạng sáng, một tháng hóc, một jọc đùi, một mùi môi... Đọc những câu liệt kê theo kiểu Trần Dần, người ta thực sự ngạc nhiên bởi cách gọi tên đầy táo bạo và mới mẻ của ông. Nhưng đấy là học từ dân gian: Ông đếm cát, ông tát bể, ông kể sao, ông đào sông, ông xây rú, ông trụ trời...

Tuy nhiên, không phải bao giờ ta cũng dễ dàng nhận được những thông điệp của nhà thơ. Với đoạn thơ sau, chắc chắn sẽ không ít người phân vân với câu hỏi: Liệu đây có phải là thơ?

“ Thấp thoáng sẹo
nằm trong ký ức.....tôi vừa đi vừa jũ sẹo đại lộ sạch”.
..............
“ mà chu vi tường truồng lằn lặn jạng sáng làm bàn ghế tủ pha đặc cả tôi vào không còn vết sẹo nào jớm tí máu sớm ngoài chiếc đĩa sẹo mặt trời lèo lẹo ngậm bầu phùn.
.gà gáy lần 3.
sẹo nằm
hôm ấy là ngày hết của lương thực tháng cuối.
.tội lỗi của bình minh

tứ phía sẹo - người đi...”
(Jờ joạcx)

Câu thơ dường như đã bị triệt tiêu. Chỉ còn những dòng thơ. Nhưng trên các dòng thơ, những con chữ tồn tại cạnh nhau không theo mối quan hệ tạo nghĩa như ta thường gặp ở những bài thơ bình thường khác. Tất cả có vẻ như được tác giả ném lên trang giấy một cách ngẫu nhiên tạo nên một nền âm - chữ siêu ngữ nghĩa đúng như nhận xét của Dương Tường. Tuy nhiên, người đọc chưa hẳn đã phải bó tay trước mớ ngôn từ rối rắm, phức tạp ấy. Bởi, bên cạnh những con chữ mở ra những hư vô, những con chữ mở ra một thế giới hỗn mang, lạ lẫm, có những con chữ của Trần Dần mở ra thật nhiều nghĩa, thật nhiều vẻ thơ, chất thơ ta chưa từng biết tới. Tất nhiên, nó chỉ thực sự là thơ cho những người đọc nào không chấp nhận tồn tại trong cũ kỹ, sáo mòn và luôn luôn đi tìm Cái Mới, Cái Khác.

Hà Nội tháng 4/2004

© eVăn 2004
Quán nước đầu làng Ven > Sáng Tác - Thảo Luận - Phổ biến kiến thức > Văn Học & Ngôn Ngữ
Bạn đang xem phiên bản gọn nhẹ của diễn đ n dưới dạng text, để xem các b i viết với đầy đủ mầu sắc v hình ảnh hãy nhấn v o đây !
Invision Power Board © 2001-2024 Invision Power Services, Inc.