Thời nhà Ngô (939-968) là một thời đặc biệt. Lúc đó TQ chia làm 10 quốc gia và 5 triều đại (907-960) nên xu hướng li khai dễ xuất hiện. Ông Ngô Quyền ông nghĩ tại sao mình không học tập Nam Hán mà xưng vương nhỉ, tự trị bao giờ chả thích hơn. Nhưng ông không dám đặt tên nước, xưng đế, đặt niên hiệu. Đến ông Đinh tiên hoàng thì người dân Việt đã quen tự do từ thời Khúc Thừa Dụ (905) nên ông xưng đế, đặt tên nước (968). Nói vậy để thấy cấu trúc xã hội Việt Nam trong suốt 60 năm đầu thế kỉ X đã dẫn đến cuộc chia li vĩnh viễn Hoa Việt. Mà gọi là Hoa nhưng mấy ông ở Lưỡng Quảng vào thế kỉ X cũng chỉ là mấy ông Choang, Tày Nùng được Hán hóa thôi, huống hồ là Việt nam. Và cuộc chia tay này được báo trước trong câu nói của Lạc Long Quân (Việt) với "Âu Cơ" (Hoa): "ta là nòi rồng, nàng là giống tiên, không sống chung được nhưng thỉnh thoảng gặp nhau thì được". Sau này tình đồng chí Viêt-Hoa thời chiến tranh lạnh cũng băt nguồn phần nào từ mối quan hệ từ thời xa xăm, từ thời Triệu Đà và Thục Phán, hai kình địch nhưng cùng chung lí tưởng Việt.
Trở lại chuyện Triệu đà. Vì không có thời gian chính xác về Triệu Đà xưng đế (theo Sử kí của TMThiên tính ngược lại là năm -203) nên cũng có thể Thục Phán có trước và được nâng lên thành vua, dĩ nhiên là vua theo tiêu chuẩn 200 BCE. Nhưng dù có sau Thục Phán thì tôi vẫn cho rằng cần phải coi Triệu Đà là một hoàng đế bởi những đóng góp, dù nhỏ bé của ông ta cho Việt Nam, tức là chấp nhận văn hóa Việt và phục vụ lợi ích của dân tộc Việt. Như vậy thì có thể đồng hóa xong Triệu Đà vào văn hóa Việt.
Đó là sự thật lịch sử nhưng về chính trị người ta phải đặt ông làm kẻ thù. Chọn quan điểm nào là tùy từng bác thôi, nhưng cố gắng hiểu đúng sự kiện lịch sử.