Giải thích các từ Phật và Chúa. The Terms Buddha and Christ - Explained.
The Terms Buddha & Christ - Explained.
Giải thích các từ Phật/Bụt & Chúa
Buddha is NOT a name, it is a descriptive title and means "The Awakened; Anointed or Enlightened One", which is exactly the same meaning as the word "Messiah" has in Hebrew - "Christos" in Greek - "Christ" in English, which are also NOT names but are, like the word Buddha, descriptive titles, as is the word Jesus, which simply means Saviour.
Từ Phật/Bụt KHÔNG phải là tên, nó là danh xưng mô tả và có nghĩa là "Đấng (đã) Thức Tỉnh; (được) Xức Dầu Thánh hay Đấng (đã) Giác Ngộ", và cùng nghĩa chính xác như từ “Messiah/Vị Cứu Tinh/Đấng Cứu Thế được trông đợi của người Do Thái” trong tiếng Do Thái – từ "Christos" trong tiếng Hy Lạp – từ "Christ/Chúa" trong tiếng Anh, cũng đều KHÔNG phải tên, mà là, như từ Phật/Bụt, danh xưng mô tả, cũng như từ Jesus/Giêsu, đơn giản có nghĩa là Cứu Thế/Saviour.
Prince Sedata (who, on achieving enlightenment, became known as the Buddha) rejected his former life of luxury to seek enlightenment. He went first to the opposite extreme and became an ascetic, which made him physically ill; then found The middle (straight and equal) Way of God (Deut. 30:15-16*), and thereby restored his body to health.
Hoàng tử Sedata (nhân linh, sau khi đạt đến sự giác ngộ, được biết đến như Đức Phật) đã từ bỏ cuộc sống xa hoa xưa của mình để tìm kiếm sự giác ngộ. Đầu tiên, ông cực đoan đi ngược và trở thành người khổ tu, làm cho cơ thể mình suy kiệt, sau đó tìm được Đường Ngay giữa (The middle Way) của Thiên Chúa/God (Deut./Đệ Nhị Luật/Phục Truyền Luật Lệ Ký 30:15-16, và do đó phục hồi sức khỏe cho cơ thể ông.
* Deuteronomy 30:15 See, I have set before thee this day life and good, and death and evil;
30:16 In that I command thee this day to love the "I AM" thy God, to walk in His Ways, and to keep His Commandments and His Statutes and His Judgments, that thou mayest live and multiply: and the "I AM" thy God shall bless thee in the land where thou goest to possess it.
Đệ Nhị Luật/Phục Truyền Luật Lệ Ký 30:15 Hãy nhận ra, Ta đã đặt trước các con ngày này sự sống và điều tốt, và cái chết và điều xấu;
30:16 Trong đó Ta lệnh cho các con ngày này phải yêu mến Đấng “Tự Hữu Hằng Hữu” là Thiên Chúa (tình yêu, sự tốt lành, và lẽ thật/Không phải các tổ chức tôn giáo/organized religions đang lạm dụng Danh Ngài) của các con, đi trong các Đường Lối của Ngài, và giữ các Điều Răn của Ngài và các Điều Lệ của Ngài và các Phán Quyết của Ngài, để các con có thể sống và sinh sôi: và Đấng “Tự Hữu Hằng Hữu” là Thiên Chúa của các con sẽ ban phước cho các con trong xứ/miền đất mà các con được nhận.
7:15 And the "I AM" will take away from thee all sickness, and will put none of the evil diseases of Egypt, which thou knowest, upon thee; but will lay them upon all [them] that hate thee.
7:15 Và Đấng “Tự Hữu Hằng Hữu” sẽ lấy khỏi các con mọi dịch bệnh, và sẽ không giáng xuống các con những dịch bệnh khốc hại của Ai-cập mà các con từng biết; nhưng sẽ bắt những kẻ ghét các con phải chịu.
Sedata was then tempted by the five (seven really) deceptively innocent looking daughters of Marah/Lucifer/Iblis the lord of darkness:- Pride (Arrogance); Greed (Avarice); Fear (or Hate or Anger); Ignorance (of the real truth about your "Self") and Desire (Lust or Covetousness) (the other two are Sloth and Gluttony) - "The Seven Deadly Sins". The lord of darkness (Marah - Lucifer - Iblis - Satan) had sent them to tempt Sedata away from his search, but Sedata overcame* them.
Sedata sau đó đã bị cám dỗ bởi năm (thực ra là bảy) cô con gái tưởng như ngây thơ nhưng quỷ quyệt của Marah/Lucifer/Iblis/Satan chúa tể của bóng tối: 1. Pride/Tánh tự phụ/ngạo mạn (Arrogance/Tánh Kiêu ngạo); 2. Greed/Sự tham lam (Avarice/Tánh hám lợi); 3. Fear/Sự Sợ Hãi (hoặc Hate/Lòng căm thù/căm hận hoặc Anger/Sự Giận Dữ/Tức giận), 4. Ignorance/Vô Minh (không biết sự thật về cái “tôi”) và 5. Desire/ Sự ham muốn (Lust/Dục vọng/Thói Dâm hay Covetousness/Sự thèm khát/khao khát) (hai người còn lại là 6. Sloth/Thói lười biếng và 7. Gluttony/Tật ham ăn) - "Bảy tội lỗi chết (người)/Seven Deadly Sins". Chúa tể của bóng tối (Marah - Lucifer - Iblis - Satan) đã gửi chúng để cám dỗ Sedata khỏi cuộc tìm kiếm của ông, nhưng Sedata đã vượt qua * chúng.
* Revelation 2:7 He that hath an ear, let him hear what the Spirit saith unto the churches; To him that overcometh will I give to eat of the Tree of Life, which is in the midst of the paradise of God.
* Khải-huyền 2:7 Ai có tai, hãy để anh ta nghe điều Thánh Linh nói đến các hội thánh (Lời Chúa: là các tổ chức tôn giáo mà các con phải tránh xa, bởi TẤT CẢ đều sai./Christ’s words: refers to the organised religions and that you must come out of them, because they are ALL wrong.); cho kẻ vượt qua được, Ta sẽ cho ăn Cây Sự Sống đặt giữa nơi cực lạc (xem trong The Way Home or Face The Fire by JAH/Đường Về 2:22) của Thiên Chúa.
Matthew 4:8 Again, the devil taketh him up into an exceeding high mountain, and showeth him all the kingdoms of the world, and the glory of them;
4:9 And saith unto him, All these things will I give thee, if thou wilt fall down and worship me.
4:10 Then saith Jesus unto him, Get thee hence, Satan: for it is written, Thou shalt worship the Lord thy God, and Him ONLY shalt thou serve.
4:11 Then the devil leaveth him, and, behold, angels came and ministered unto him.
Xem Ma-thi-ơ 4:8
Ma quỉ lại đem Ngài lên trên núi rất cao, chỉ cho Ngài các nước thế gian, cùng sự vinh hiển các nước ấy;
4:9 mà nói rằng: Ví bằng ngươi sấp mình trước mặt ta mà thờ lạy, thì ta sẽ cho ngươi hết thảy mọi sự nầy.
4:10 Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng nó rằng: Hỡi quỉ Sa-tan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời chép rằng: Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi. 4
11 Ma quỉ bèn bỏ đi; liền có thiên sứ đến gần mà hầu việc Ngài.
Xem Mát thêu 4:8
Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, 4:9 và bảo rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi."4:10 Đức Giê-su liền nói: "Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi."
4:11 Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu hạ Người.
(2 bản dịch của Tin Lành và Công Giáo/tách bạch giữa các tổ chức tôn giáo và Kinh Thánh)
"Darkness" had tried to tempt Sedata, in the cleverest of ways, by disguising the temptations of life in the simplest forms but Sedata was looking beyond form, beyond the present. Now "Darkness" was enraged, and sent an army of demons to try to attack Sedata, but he stayed calm and at peace with God and was defended by God because of his total (blind) Faith (The Shield - Ephesians 6:16; Genesis 15:1) and the consequent lack of fear that such Faith (Trust) gives.
“Bóng tối” đã cố gắng cám dỗ Sedata, bằng những cách khéo léo nhất, cải trang những sự lôi cuốn của cuộc sống trong các vỏ bọc đơn giản nhất nhưng Sedata đã nhìn thấu rõ vỏ bọc, vượt xa hơn cả hiện tại (trước mắt). Bấy giờ “Bóng tối” thật điên tiết, và (nó) gởi một đội quân ma quỷ để cố tấn công Sedata, nhưng ông đã giữ được điềm tĩnh và ở trong sự an tâm cùng Thiên Chúa và được Thiên Chúa bảo vệ vì Đức Tin/Niềm tin tuyệt đối của ông (Cái Khiên/The Shield- Ephesians/Ê-phê-sô 6:16; Genesis/Sáng thế ký 15:1) và hệ quả của việc không sợ hãi mà Niềm Tin (sự Tin Cậy) như vậy mang lại.
His human body then said to him (his Being), "You who go where no-one else will dare. Will you be my god?"
Xác phàm của ông sau đó nói với ông (Linh Hồn ông), “Ngài, đấng đến được nơi sẽ không ai khác dám. Ngài sẽ làm chúa của ta chứ?”
Sedata said, "Architect. Finally I have met you. You will not rebuild your house (my human prison - my "Self") again."
Sedata đáp, "Kiến Trúc Sư, Cuối cùng ta đã gặp ngài. Ngài sẽ không xây lại ngôi nhà của ngài (thân xác tù của ta - “Bản ngã" của ta) lại."
His human body replied, deviously, "But I am your house and you live in me."
Cơ thể người của ông trả lời, quanh co, "Nhưng ta là căn nhà của ngài và ngài sống trong ta."
Sedata said to lord Darkness (Lucifer the Devil), "Oh lord of my own ego ("Self"), you are pure illusion (deceit and lies - the word devil means liar), you do not exist (you will no longer deceive my "Self" with your lies because my "Self" is crucified and it no longer exists). The earth (from which the human "Self" was created) is my witness."
Sedata nói với chúa tể của Bóng Tối (Lucifer Satan), "Ôi chúa tể của bản ngã chính tôi ("cái Tôi"), ngài thuần túy là lừa ghạt (mưu gian và những lời dối trá – từ ma quỷ/devil có nghĩa là kẻ nói dối/liar), ngài không tồn tại (ngài sẽ không lừa dối “bản ngã” của ta với những lời dối trá của ngài được nữa bởi "bản ngã" ta đã bị đóng đinh/bị diệt và nó không còn tồn tại nữa). Trái đất (mà từ đó “bản ngã/cái Tôi” của con người được tạo thành) là nhân chứng cho ta."
The teaching of Buddha, not that of the Buddhist religion, in relation to the body and the soul (Being) and crucifixion of "Self" is identical to the teaching of Christ, not the teaching of the Christian religion.
Giảng dạy của Đức Phật, không phải của Phật giáo, liên quan đến thân xác và linh hồn (Being/Linh) và việc đóng đinh/diệt trừ “cái Tôi” là giống với sự giảng dạy của Chúa, không phải sự giảng dạy của Kitô Giáo.
Prince Sedata won the battle against an army of demons (in the "cave" or "cavern of the mind"*), just through "The Force" of His Love and the great compassion he had found. He achieved the great calm that follows detachment from emotions (which are all human and destructive of good and belong to the "Self"). He had reached beyond his "Self", he was beyond happiness or pain, separate from judgement, able to see beyond the human universe. Sedata had seen the ultimate reality of all things, he had understood that every movement in the Universe is an effect, provoked by a cause. He knew that there was no salvation without compassion for every other living thing; from that moment on Sedata was called "the Buddha" - "the Awakened or Enlightened One".
JAH - The Enlightened One.
Hoàng tử Sedata thắng cuộc chiến chống lại đội quân ma quỷ (trong "hang động" hay "hang động tâm trí" *), chỉ dùng "The Force/Sức Mạnh" của tình yêu Ngài và lòng từ bi lớn lao, ông đã tìm thấy. Ông đã đạt tới sự điềm tĩnh tuyệt vời theo sau bởi việc tách rời khỏi cảm xúc (là tất cả phần người và là sự phá hoại cái tốt và thuộc về "bản ngã"). Ông đã vượt ra ngoài “bản ngã” ông, ông đã vượt ra khỏi hạnh phúc hay đớn đau, tách biệt khỏi sự phán xét, có thể thấy vượt xa vũ trụ của con người. Sedata đã nhìn thấy hiện thực nền tảng của vạn vật, ông đã hiểu rằng mọi vận động trong Vũ trụ là một hệ quả, sinh ra bởi một nguyên nhân. Ông biết rằng không có sự cứu rỗi mà không có lòng từ bi đối với chúng sanh, từ thời khắc đó Sedata được gọi là "Đức Phật" - " Đấng (đã) Thức Tỉnh hay Đấng Giác Ngộ".
JAH – Đấng Giác Ngộ.
* Genesis 6:5 And "I AM" saw that the wickedness of man [was] great in the earth, and [that] every imagination of the thoughts of his heart [was] only evil continually.
*Sáng Thế Ký 6:5 Và Đấng “Tự Hữu và Hằng Hữu” thấy sự đồi bại của loài người trên đất hết sức nhiều, và [rằng] mọi tưởng tượng của tâm trí của lòng họ chỉ [là] liên tục xấu thôi.
Sedata won the battle against Satan through the 'Force' of God's Love and the great compassion he had found. Then he achieved the Great Calm that proceeds from detachment from human emotions and the knowledge that he was not 'only human', but a human+Being. He had reached beyond his human 'Self', he was beyond happiness or pain, separated from judgment. Able to remember all his previous lives (incarnations). He remembered his first birth (incarnation) and the thousands he had had afterwards (re-incarnations), he could see beyond the universe (this world).
Sedate thắng cuộc chiến chống lại Satan bằng Sức Mạnh/the Force Tình Yêu của Thiên Chúa và lòng từ bi lớn lao ông đã tìm được. Sau đó, ông đã lĩnh hội được sự Điềm Tĩnh Tuyệt Vời/the Great Calm phát sinh bởi việc gỡ bỏ các cảm xúc con người (thoát tục) và sự hiểu biết rằng ông không “chỉ là người” nhưng là một nhân + Linh/người + hồn. Ông đã vượt xa hơn“bản ngã” ông, ông đã vượt ra khỏi hạnh phúc hay đớn đau, tách biệt khỏi sự phán xét. Có thể nhớ lại tất cả các các kiếp người trước đây. Ông đã nhớ lại lần ra đời đầu tiên (nhập thể) và cả ngàn lần như vậy sau đó (các lần đầu thai), ông đã có thể nhìn quá vũ trụ (của thế giới này).