Cách đây 1, 2 hôm đọc trên báo VN cái chuyện này cũng buồn cười, đó là việc báo mạng Vn nói về vũ khí « khủng » của quôc Tây sơn, nhân kỷ niệm hàng năm ngày mồng năm tết âm lịch chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa của vua Quang Trung.
Điều đáng chú ý là có giả thiết nói quân Tây sơn có vũ khí khủng kiểu tạc đạn với chất phốt pho trắng như kiểu bom Na pan của Mỹ, và cũng bởi vì có thứ vũ khí này mới « đánh nhanh thắng nhanh » được như thế. Số lượng quân nhà Thanh là 20 vạn, được nói lên tới 1 triệu, mà không hiểu cách tính toán ra làm sao.
Thú vị hơn nữa là có cả ý kiến của các quân nhân thật sự đã tham gia chống Mỹ cứu nước, theo báo nói là hàm thứ trưởng, để « bảo hộ » cho giả thiết giật gân này.
Đối với tôi, ngoại trừ có một dẫn chứng khảo cổ mới nào đáng tin cậy, ví dụ tìm được vũ khí của thời đó, và tìm thấy dấu vết của các thể loại phốt pho này, thì mới có thể nói được. Ngược lại thì nó chỉ là tin đồn nhảm, gây buzz để bán báo cho vui. Mua vui cũng được một vài trống canh, như thi hào Nguyễn Du đã viết vào cuối quyển truyện Kiều.
Một điều thú vị nữa là chỉ cần bằng các tài liệu lịch sử cũ đã được kiểm chứng, ta có thể giải thích chiến công rực rỡ này của vua Quang Trung một cách bình thường, không việc gì phải đưa ra những giả thiết giật gân cả.
Lý do đầu tiên mà ta có thể nói tới, đó là tính chất tinh nhuệ của quân Tây sơn và tinh thần của nó. Quân đội Tây sơn (Nguyễn Huệ) tránh nhầm nó với quân Tây sơn do hai anh em của ông chỉ huy, là một đội quân có kinh nghiệm chiến đấu cực kỳ phong phú. Nó đã tác chiến trên mọi địa hình, trong nhiều hoàn cảnh, với nhiều loại đối thủ : quân Trinh, quân Nguyễn, quân Xiêm, ..
Về tinh thần thì khỏi phải nói, nó là một đội quân cách mạng mà tinh thần của nó có thể so với quân Lam Sơn (thời Lê), hay quân đội nhân dân Vn lúc mới thành hình. Là một quân đội cách mạng, tổ chức của nó ít quan liêu hơn, ít cấp bậc, tướng sĩ đồng lòng, ..đây là những yếu tố mà quân Trịnh, Nguyễn, quân Thanh không có vì chúng được tổ chức theo hình thức quan liêu phong kiến.
Khi ra tới miền Bắc, trước khi mở mà cuộc chiến, vua Quang Trung có tổ chức tuyển quân ở Thanh-Nghệ, nhưng trong mọi trường hợp số lượng tân binh này không phải là đa số tuyệt đối, mà bộ máy chỉ huy vẫn là « hàng ngũ sĩ quan » (nói kiểu hiện đại) Tây sơn.
Cũng nên để ý, thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, đất Thanh- Nghệ là quê hương của chúa Trịnh, vì thế quân tinh nhuệ của chúa cũng được lấy ở đây (dẫn tới hiện tượng kiêu binh như trong Nho gia văn phái nói), nói cách khác đây là vùng đất có tính chất VÕ (so với Nam Hà, Nam Định được coi như đất VĂN, cũng nhu Bắc ninh là đất PHẬT). Tuyển quân ở đây thì đúng là « chuột xa chĩnh gạo ».
Đối diện với nó là quân Thanh. Đội quân này là một đội quân tân binh hoàn toàn, vì chúng chưa bao giờ chiến đấu. Như vậy quân Tây sơn hoàn toàn hiểu rõ quân Thanh, nhưng quân Thanh không biết gì về quân Tây sơn, từ vũ khí, cách chỉ huy, chiến thuật chiến lược. Không khác gì một thằng mù đánh một thằng có mắt sáng.
Có được câu chuyện kỳ lạ này là nhờ công của Ngô Thì Nhậm. Lúc quân Thanh xâm lược VN, thì quân Tây sơn do Ngô Văn Sở chỉ huy (ông này là một tướng giỏi) nhưng tham mưu là Ngô Thì Nhậm.
Chính Ngô Thì Nhậm đã bầy mưu cho Ngô Văn Sở rút về trấn giữ Tam điệp, mà không lên tiếp chiến quân Thanh ở vùng Lạng sơn, Cao Bằng. Chính vì thế quân Thanh vào Thăng Long mà không phải đánh đấm gì cả. Điều này càng khiến tính chất « tân binh » của quân nhà Thanh cao hơn, lại càng chủ quan khinh địch. Cho đến lúc bị quân Tây sơn đánh ở Ngọc hồi, Đống Đa, quân Thanh chưa tiếp chiến bao giờ, và lại tác chiến ở xu thế bị động, chủ quan.
Chuyện gì xẩy ra nếu quân Tây sơn đánh quân Thanh ngay từ đầu ở biên giới. Trong trường hợp này thì quân Thanh có khả năng luyện tập, khả năng tác chiến sẽ cao hơn, và yếu tố số lượng nổi trội là 20 vạn sẽ có tác dụng.
Còn tại sao quân Tây !sơn lại không tác chiến mà lui về giữ Tam Điệp cũng có lý do của nó, và hơn ai hết Ngô Thì Nhậm hiểu rõ tình trạng xã hội Đàng Ngoài để đưa ra kế sách này. Ở Đàng Ngoài, cho tới lúc vua Quang Trung ra Bắc lần đầu là một xã hội có chính quyền kép : vua Lê – chúa Trịnh. Mặc du vua Quang Trung lấy công chúa Ngọc Hân, đưa ra vấn đề phù Lê, ở Bắc Hà, lòng người hướng về Tây Sơn không nhiều. Nhưng nhận thức của xã hội vùng Thanh-Nghệ là đất của nhà chúa, khác với ở đồng bằng Bắc bộ. Vì thế khi nhà Thanh theo lời Lê Chiêu Thống « phù Lê » thì không thể « câu khách » được ở vùng đất vốn trung thành với chúa Trịnh. Chiêu bài phù Lê không « câu khách » được ở đây. Hơn nữa khi vào miền Bắc, là một đạo quân chiếm đóng, ngôn ngữ, tập quán, thái độ, cung cách cướp bóc .. sẽ khiến bộ mặt xâm lược của nhà Thanh lộ ra rõ ràng hơn. Không phải ngẫu nhiên mà trong lời thề của quân Tây sơn ở Thanh- Nghệ là « đánh cho nó để dài tóc, đánh để cho nó nhuộm răng đen, đánh để cho biết VN có chủ ». Phải vào thời thực dân Pháp, thì ở VN mới không nhuộm răng đen nữa, và theo như nhà văn Nguyễn công Hoan, thì điều này được thực hiện đầu tiên bởi các « me tây », tức là phụ nữ VN lấy chồng Pháp. Còn để dài tóc, thì vì nhà Thanh bắt dân TQ cạo đầu trọc, chỉ để cái bím tóc đằng sau. Đây vốn là tập tục của người Mãn Châu. Vì thế đầu thế kỷ XX, khi có cách mạng Tân Hợi ở TQ, lật đổ nhà Thanh, điều đầu tiên người TQ làm là cắt đi cái bím tóc này.
Một điều kỳ lạ nữa cũng khó giải thích, đó là tại sao từ vị thế « chủ động chiến lược », quân nhà Thanh lại dừng lại ở Thăng long mà không truy kích quân Tây sơn. Theo như sách sử cũ thì vì Tôn Sĩ Nghị chủ quan, nhưng rất có thể đội quân đông đảo này cần dừng lại để thu gom lương thực. Với một đội quân đông đảo như vậy, lại không có phương tiện cơ giới như hiện nay, thì số đông chưa chắc phải là lợi thế trong một cuộc chiến tốc độ, đánh nhanh, thắng nhanh.
Cũng chính vì thế mà khi Trần Hưng Đạo mất (từ thời nhà Trần), ông đã căn dặn, nếu giặc cứ tiến ầm ầm thì không sợ, nó tiến như tằm ăn rỗi thì mới đáng ngại. Tức là nó tiến tới đâu, củng cố tới đấy. Điều này phù hợp với khả năng tiếp ứng lương thực, vũ khí thời phong kiến.
Nhưng không chỉ có thế, mà quân Tây Sơn còn có lợi thế về chiến thuật chiến lược tấn công, cách tiến hành chiến tranh của vua Quang Trung rất hiện đại, và tốc độ di chuyển quân rất lớn so với thời bấy giờ. Bí quyết đó được coi là hành binh kiểu cáng võng (3 linh thay phiên nhau cáng nên không cần nghỉ). Hiện nay trong nghiên cứu sử học, người ta hay dùng phương thức thể nghiệm, tức là tìm cách lặp lại cách thức kỹ thuật vào thời điểm lịch sử để xác minh xem nó có khả thi hay không, nếu khả thi thì cần điều kiện gì, vì thế hi vọng là một lúc nào đó, VN cũng có thể tổ chức thử nghiệm hành quân kiểu này, thì sẽ rõ đâu là phần sự thật có thể, đâu là huyền thoại.
Một sai lầm nữa của quân Thanh, là đã đẩy tướng giỏi ra đóng ở vị trí xa, cô lập. Đây là trường hợp của viên tướng Sầm Nghi Đống đóng ở gò Đống Đa. Viên tướng này đã dám tự vẫn chết, quyết chiến, vì thế không phải quân Thanh không có tướng giỏi, nhưng họ lại không được dùng đúng lúc, đúng chỗ. Ngược lại về phía quân Tây Sơn, thì có cả một dàn tướng giỏi. Hiện tượng này ở VN chỉ có vào thời quân đội nhân dân VN chống Pháp, Mỹ, rồi khởi nghĩa Lam sơn chống nhà Minh. (tôi không để quân tướng Nhà Trần, nhà Lý vào đây, quân đội các thời này không có dạng quân đội cách mạng, khởi nghĩa nông dân, nên không so sánh với nhà Tây Sơn được).
Với việc đẩy tướng giỏi ra ngoài, ở vị thế cô lập, đã khiến quân Thanh ở tình trạng, « ngoài cứng, trong mềm ». Điều dở là cái phần cứng thì nhỏ, phần mềm thì to. Với cách tác chiến kiểu chúa Trịnh, chúa Nguyễn, thì chiến lược này phù hợp vì nó chậm chạp, nhưng nếu đối phương đã luồn lọt tác chiến nhiều hướng một lúc,trong ngoài lẫn lộn, thì khi vỡ trận không cứu được nhau.
Nội những điều này đã khiến quân Thanh thua, vì nó ở thế bị động chiến lược, bị bất ngờ, không biết đối phương. Như kiểu người mù cua gậy.Trong trường hợp này thì càng đông càng loạn, chứ không phải là lợi thế.
Nhưng không chỉ có thế. Trong cuộc chiến tranh này có cả yếu tố vũ khí ? cái yếu tố vũ khí ở đâu ??
(còn tiếp)